Đề tài TCP_IP và ứng dụng

Tiền thân của mạng Internet là mạng ARPANET của bộ quốc phòng Mỹ. Mạng ARPANET ra đời với mục đích là kết nối các trung tâm nghiên cứu của một số viện nghiên cứu và trường đại học nhằm chia sẻ, trao đổi tài nguyên thông tin. Ban đầu giao thức truyền thông sử dụng là NCP (Network Control Protocol) nhưng sau đó được thay thế bởi TCP/IP. ARPANET nhanh chóng mở rộng thêm các nút mạng mới và trở thành mạng quốc gia. Bộ quốc phòng Mỹ quyết định tách phần quân sự ra khỏi ARPANET là mạng MILNET. Năm 1987, mạng NFSnet (với tốc độ đường truyền lớn 1,5 Mbps so với 56kbps của ARPANET ) và các mạng vùng đã thúc đẩy sự tăng trưởng mạnh mẽ của Internet. Một xa lộ thông tin mới hình thành và nhiều trường đại học, viện nghiên cứu đã tham gia vào cộng đồng Internet. Về kiến trúc, mạng Internet cũng đã có thay đổi. Trước dây, người ta định nghĩa “Internet là mạng của tất cả các mạng sử dụng giao thức IP . Nhưng hiện nay điều đó không còn chính xác nữa vì nhiều mạng có kiến trúc khác nhau nhưng nhờ các cầu nối giao thức nên vẫn có thể kết nối vào Internet và vẫn có thể sử dụng đầy đủ các dịch vụ Internet.

doc105 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1481 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài TCP_IP và ứng dụng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG 1. MẠNG SỐ LIỆU VÀ MÔ HÌNH OSI. ---oOo--- Giới thiệu về Internet. Tiền thân của mạng Internet là mạng ARPANET của bộ quốc phòng Mỹ. Mạng ARPANET ra đời với mục đích là kết nối các trung tâm nghiên cứu của một số viện nghiên cứu và trường đại học nhằm chia sẻ, trao đổi tài nguyên thông tin. Ban đầu giao thức truyền thông sử dụng là NCP (Network Control Protocol) nhưng sau đó được thay thế bởi TCP/IP. ARPANET nhanh chóng mở rộng thêm các nút mạng mới và trở thành mạng quốc gia. Bộ quốc phòng Mỹ quyết định tách phần quân sự ra khỏi ARPANET là mạng MILNET. Năm 1987, mạng NFSnet (với tốc độ đường truyền lớn 1,5 Mbps so với 56kbps của ARPANET ) và các mạng vùng đã thúc đẩy sự tăng trưởng mạnh mẽ của Internet. Một xa lộ thông tin mới hình thành và nhiều trường đại học, viện nghiên cứu đã tham gia vào cộng đồng Internet. Về kiến trúc, mạng Internet cũng đã có thay đổi. Trước dây, người ta định nghĩa “Internet là mạng của tất cả các mạng sử dụng giao thức IP . Nhưng hiện nay điều đó không còn chính xác nữa vì nhiều mạng có kiến trúc khác nhau nhưng nhờ các cầu nối giao thức nên vẫn có thể kết nối vào Internet và vẫn có thể sử dụng đầy đủ các dịch vụ Internet. Khái niệm về mạng . Mạng LAN ( Local Area Network ) là mạng máy tính có phạm vi bán kính vài trăm met. Các kiến trúc thường gặp là họ Ethernet, Token-ring, ArcNet, FDDI,.. thường có tốc độ cao hàng Megabit/s, cung cấp các dịch vụ chia sẻ tập tin, cơ sở dữ liệu, chia sẻ phần cứng, thư điện tử, nhóm làm việc,.. Mạng MAN (Metropolitant Area Network ) thường có bán kính trong một thành phố, kiến trúc thường dùng là ATM, cung cấp các đường truyền tốc độ cao đến hàng Gigabit/s phục vụ cho nhiều ứng dụng như truyền hình cáp, hội nghị truyền hình, liên kết mạng máy tính. Mạng WAN (Wide Area Network ) là mạng viễn thông cung cấp các phương tiện kết nối cho các mạng máy tính cục bộ muốn liên kết với nhau và một số ứng dụng khác. Các kiến trúc mạng WAN thường gặp là X25, Frame Relay, ISDN,..phạm vi bán kính của mạng WAN rộng cả một quốc gia hoặc rộng hơn. Các loại mạng LAN. Mạng Ethernet. Kiến trúc Ethernet được biểu diển bằng đặc tả xAy, trong đó x là tốc độ truyền dữ liệu tính bằng Mbps, A đặc trưng cho phương thức truyền thông là dải nền hay dải rộng và y đặc trưng cho độ dài một đoạn segment hoặc môi trường truyền ( loại cáp). Ví dụ:10Base5: mô tả mạng truyền dải nền (Base), tốc độ truyền dữ liệu 10 Mbps, độ dài tối đa một đoạn segment là 500 met. Hình 1.1. Kiến trúc mạng 10Base5. 100BaseT: mô tả mạng dải nền, tốc độ 100 Mbps, môi trường truyền là cáp xoắn đôi. Hình 1.2a. Mạng 10BaseT đơn giản. Hình 1.2b. Mạng 10BaseT mở rộng. 1.3.2. Mạng Token-ring. Kiểu mạng này định nghĩa một dạng hub đặc biệt gọi là MSAU ( Multi Station Access Unit ), đôi khi còn là MAU. Mạng Token-ring hoạt động ở nhiều tốc độ khác nhau như 4Mbps, 16Mbps,..hình sau phác họa sơ đồ đấu nối và kiến trúc logic của mạng Token-ring đơn giản. Kiến trúc Token-ring được IBM đưa ra năm 1985 với tốc độ truyền dữ liệu 4Mbps trên môi trường truyền cáp xoắn đôi STP và UDP. Đến năm 1989, ấn bản 2.0 ra đời với 3 tốc độ 1 Mbps, 4Mbps, 16 Mbps. Các nút mạng được nối với nhau tạo thành một vòng logic ( mặc dù sơ đồ đấu nối mạng có thể là hình sao ). Token-ring được thiết kế theo chuẩn IEEE-802.3. Đây là mạng dải nền và làm việc theo nguyên tắc thẻ bài (Token). Một nút trạm muốn truyền dữ liệu thì phải nắm giữ thẻ bài. Sau khi truyền xong sẽ chuyển thẻ bài cho trạm kế. Thẻ bài là khung 3 byte có dạng [ SD AC ED ], trong đó : SD : Start Delimiter. AC : Access Control. ED : End Delimiter . Hình 1.3a. mạng Token Ring. Hình 1.3b. mạng sử dụng chung một Hub. 1.3.2 Mạng ARCnet C. Mạng ARCnet có kiến trúc vật lí như mạng 10Base2 của Ethernet, nhưng về mặt logic thì đây là cấu trúc Token bus. Ngoài ra ARCnet có dạng hình sao hoặc star-bus. Kiến trúc ARCnet định nghĩa hai kiểu hub là active hub có chức năng khuyếch đại tín hiệu và passive hub thực chất là một cụm điện trở 470 ohm. Mạng ARCnet có tối đa 255 trạm, mỗi trạm có một địa chỉ khác nhau, riêng địa chỉ Zero là địa chỉ broadcast. Các địa chỉ được khai báo theo cách thủ công lúc cài đặt mạng. Mỗi địa chỉ có 3 tham số : Add: là địa chỉ của chính trạm đó. P: là địa chỉ của trạm đứng trước nó. S: là địa chỉ của trạm đứng sau nó. Khi khởi động một mạng ARCnet, việc tạo thành cấu hình ban đầu được thực hiện bằng cách lấy ví dụ là trạm A có địa chỉ là Add=1 làm ví dụ, sẽ gởi Token cho địa chỉ Add =2, nếu không thấy tín hiệu phúc đáp ACK, nó sẽ gởi cho địa chỉ Add=3,..đến khi trạm Add=20 nhận được Token sẽ trả lời ACK cho trạm 1 và trạm 1 sẽ điền được giá trị P=20 và trạm 20 điền được giá trị S=1. Sau đó trạm 20 sẽ gởi Token cho trạm 21,22,23,24,..30. Quá trình cứ thế tiếp diễn cho đến khi tất cả các trạm định được địa chỉ cho mình. Mỗi byte được truyền đi theo dạng (100100). Sự chuẩn hóa và mô hình OSI. 1.4.1. Sự chuẩn hóa các quá trình truyền số liệu. Trước đây, các chuẩn được dùng trong công nghệ máy tính của các tổ chức khác nhau đề cập chủ yếu đến các hoạt động bên trong của máy tính hay các kết nối thiết bị ngoại vi mang tính cục bộ. Kết quả là các hệ thống phần cứng và phần mềm truyền số liệu xuất hiện sớm từ mỗi hãng chỉ cho phép chạy trên các máy tính của chính nhà sản xuất đó để trao đổi thông tin với nhau. Các hệ thống như vậy gọi là hệ thống đóng, vì các máy tính của các hãng khác nhau không thể thông tin với nhau trừ khi chúng tuân thủ các chuẩn của các hãng này. Mặt khác, khi có nhu cầu liên kết nhiều mạng LAN có kiến trúc khác nhau như Tokenring, Ethernet, ARCnet… để tạo ra mạng Enteprise (Internetwork) nhằm chia sẽ tài nguyên thì vấn đề đặt ra là làm thế nào để chúng có thể “hiểu nhau” như trong nội bộ của một mạng LAN, vì hầu hết đều có cấu trúc không giống nhau từ dạng địa chỉ đến tổ chức hệ thống file cũng như hệ điều hành cho mỗi LAN là khác nhau. Do vậy khi tiến hành liên kết chúng thành một Internetwork thống nhất thì cần phải có chuẩn chung và các thao tác chuyển đổi. Ngoài ra, để cung cấp nhiều dịch vụ thông tin phân bố mở rộng như trao đổi các bản tin điện tử và truy xuất mở rộng, các tổ chức chuẩn hóa liên quan đến công nghệ viễn thông đã xây dựng không chỉ các tiêu chuẩn giao tiếp mạng mà còn xây dựng các chuẩn mức cao liên quan đến dạng thức, cú pháp và điều khiển trao đổi thông tin giữa các hệ thống. Trên cơ sở đó, thiết bị từ bất kỳ hãng nào tuân thủ các chuẩn này có thể dùng thay thế với thiết bị từ bất kỳ hãng nào khác cũng tuân thủ các chuẩn này. Một hệ thống được xây dựng để thỏa mãn các nhu cầu này gọi là hệ thống mở hay nói đầy đủ hơn là môi trường liên kết các hệ thống mở (OSIE: Open System Interconnection Envirroment). Tiêu chuẩn đầu tiên đề cập đến kiến trúc tổng thể của hệ thống thông tin hoàn chỉnh là chuẩn công bố bởi tổ chức tiêu chuẩn quốc tế ISO (International Standards Organization) và được gọi là mô hình tham chiếu OSI (Open System Interconnection) cho liên kết các hệ thống mở. Mục đích của mô hình OSI là cung cấp khuôn mẫu chung cho sự phối hợp phát triển các chuẩn và cho phép các chuẩn hiện có phù hợp với khuôn mẫu này. Mục tiêu cụ thể là cho phép một quá trình ứng dụng trong bất kỳ máy tính nào được hổ trợ một tập các tiêu chuẩn đặc biệt để thông tin với một quá trình ứng dụng trong một máy tính khác có hổ trợ cùng một chuẩn, bất chấp nó có nguồn gốc từ hãng nào. Mô hình OSI. OSI đã thừa nhận một tiếp cận phân lớp cho mô hình tham khảo. Trong đó, một hệ thống truyền thông hoàn chỉnh được phân thành một số lớp , mỗi lớp thực hiện một chức năng đặc biệt. Về mặt khái niệm có thể xem các lớp này thực hiện một trong hai chức năng tổng quát: các chức năng phụ thuộc mạng và chức năng thiên hướng ứng dụng. Điều này tạo ra ba môi trường hoạt động tách biệt. Môi trường mạng: liên quan đến giao thức và các tiêu chuẩn thuộc về các dạng khác nhau của hạ tầng cơ sở mạng truyền số liệu Hình 1.4. Các môi trường hoạt động. Môi trường OSI: bao gồm môi trường mạng và thêm vào các giao thức cũng như tiêu chuẩn hướng ứng dụng để cho phép các thống đầu cuối liên lạc với đầu cuối khác theo phương thức mở. Môi trường hệ thống thực: nó xây dựng nên môi trường OSI, liên quan đến các dịch vụ và phần mềm đặc trưng của nhà chế tạo, các dịch vụ và phần mềm đặc trưng này được phát triển nhằm thực hiện một nhiệm vụ xử lý thông tin phân tán đặc biệt nào đó. Mô hình OSI gồm 7 lớp (layer) mỗi lớp được quy định bởi những chức năng cụ thể, độc lập với các lớp khác cung cấp một số dịch vụ nhất định cho lớp liền trên và liền dưới nó. Cụ thể như sau: Hình 1.5. Kiến trúc toàn cục mô hình tham chiếu OSI. 1.4.2.1. Lớp vật lý (physical layer). Thực hiện chức năng quy định các giao tiếp trên môi trường vật lý. Để truyền dữ liệu nhị phân qua một đường dây, các bit nhị phân phải được chuyển thành tín hiệu điện tương ứng. Lớp vật lý liên quan đến giao tiếp về điện giữa các thiết bị đầu cuối. Nó cung cấp cho lớp liên kết dữ liệu các phương tiện để truyền dòng bit nối tiếp giữa hai thiết bị. Lớp này đảm nhận việc truyền và nhận bit thông qua kênh truyền mà không cần xem xét nội dung thông tin của các bit. Các bit này có thể là dữ liệu bất kỳ tùy thuộc vào dịch vụ lớp trên cung cấp. 1.4.2.2. lớp liên kết dự liệu ( Data Link Leyer). Thực hiện chức năng liên kết dữ liệu giữa lớp vật lý và lớp mạng, phát hiện lỗi và truyền lại các gói tin bị hỏng. Khi nhận được gói tin từ lớp mạng, thực hiện tháo rời các khung thành các bit cung cấp cho các lớp vật lý và lớp mạng, phát hiện lỗi và truyền lại các gói tin bị hỏng. Khi nhận được dòng bit rời rạc từ lớp vật lý, thực hiện tổ chức lại thành khung trả về cho lớp mạng. Hoạt động của lớp liên kết dữ liệu được cụ thể hóa bằng hai lớp con: LLC (Logical link Control) và MAC (Media Access Control). - LLC: có chức năng đóng gói hoặc phân tách khung dữ liệu trước khi truyền đi. Đồng thời thực hiện giám sát lỗi ở lớp 2, đảm bảo thông tin truyền đi là chính xác. -MAC: thực hiện chức năng điều khiển truy nhập lớp vật lý. 1.4.2.3. Lớp mạng (Network Layer). Lớp mạng có chức năng định tuyến, cung cấp các phương tiện để truyền dữ liệu qua mạng, và qua mạng của các mạng. Do mạng của các mạng có những đặc tính kỹ thuật khác nhau cho nên lớp mạng phải thích ứng được với nhiều kiểu mạng cũng như các dịch vụ mạng khác nhau. Do đó cấu trúc của lớp mạng được xem là phức tạp nhất trong mô hình OSI. Định tuyến: lớp mạng thực hiện việc tìm đường đi tốt nhất cho gói tin dựa vào tình hình của mạng, mức độ ưu tiên, và một số yếu tố khác. Để thực hiện được nhiệm vụ này, lớp mạng sử dụng thuật toán định tuyến gói tin qua các nút mạng. Để các gói tin có thể được truyền chính xác thì mỗi nút mạng được đánh một địa chỉ riêng. Lớp mạng còn thực hiện quản lý lưu lượng trên toàn mạng như chuyển đổi gói, kiểm soát tắt nghẽn. Lớp mạng còn chịu trách nhiệm thiết lập và xóa cầu nối giữa hai thực thể giao thức lớp truyền tải. 1.4.2.4. Lớp truyền tải (Transport Layer). Lớp truyền tải có chức năng truyền thông giữa các ứng dụng, kiểm soát chất lượng đường truyền, và hỗ trợ thêm một số chức năng cho lớp mạng nhằm đảm bảo dữ liệu được truyền chính xác. Đây là lớp cuối cùng hỗ trợ việc phát hiện và sữa lỗi. Dịch vụ cung cấp bởi lớp mạng chỉ ở mức Unreliable Service (dịch vụ không tin cậy). Lớp truyền tải cung cấp thêm các dịch vụ kiểm soát lỗi gọi là Reliable Service (dịch vụ tin cậy). Khi có nhiều người dùng cùng sử dụng đấu nối thì lớp truyền tải còn có nhiệm vụ tạo ra kết nối logic cho từng người dùng, công việc này gọi là ghép kênh. Do thực hiện được nhiệm vụ ghép kênh nên các giao thức ở lớp trên có thể sử dụng cùng một địa chỉ lớp mạng. Lớp truyền tải đóng vai trò trung gian giữa các lớp cao và các lớp thấp. Làm cho dữ liệu giữa lớp thấp và lớp cao có thể truyền thông suốt với nhau. Do đó nó phải biết yêu cầu về chất lượng dịch vụ QoS của người sử dụng, đồng thời biết được khả năng cung cấp dịch vụ của mạng bên dưới. 1.4.2.5. Lớp phiên (Sesstion Layer). Lớp phiên có chức năng thiết lập, quản lý và giải tỏa một phiên làm việc giữa hai đầu cuối. Cho phép các phần tử lớp ứng dụng tổ chức, đồng bộ đối thoại cũng như quản lý việc trao đổi số liệu giữa chúng. Công việc của các phần tử lớp ứng dụng trong kết nối này được thực hiện theo kiểu tương tác bao gồm: - Quản lý tương tác: hoạt động trao đổi dữ liệu có thể là song công hay bán song công. Truyền bán song công thì Session sẽ chuyển sang chế độ truyền đồng bộ hướng ký tự. Truyền song công thì Session sẽ chuyển sang chế độ truyền không đồng bộ. - Đồng bộ: khi giao tiếp với khoảng thời gian lớn, có thể thiết lập đồng bộ một cách định kỳ. Nếu xuất hiện lỗi thì có thể khôi phục lại tại một thời điểm đã thống nhất trước. - Thông báo đặc biệt: các trường hợp cá biệt không thể khắc phục lỗi phát sinh trong quá trình giao tiếp thì lớp phiên sẽ thông báo cho lớp ứng dụng. 1.4.2.6. Lớp trình bày. (Presentation Layer). Lớp trình bày có chức năng phiên dịch, nén và mã hóa dữ liệu. Đảm bảo truyền thông suốt khi dạng dữ liệu ở hai đầu cuối là khác nhau. Do đó lớp trình bày còn gọi là bộ dịch mạng. Các hoạt động của lớp trình bày: - Phiên dịch dữ liệu: lớp trình bày thực hiện đàm phán với hai ứng dụng để đưa ra phương thức truyền thích hợp, đó gọi là phương thức chuẩn. Sau đó sẽ so sánh với kiểu dữ liệu của ứng dụng với phương thức chuẩn, nếu thấy khác thì giao thức của lớp trình bày sẽ thực hiện việc chuyển đổi. - Nén dữ liệu: quy định các thuật toán nén và giải nén để đảm bảo khôi phục tin tức một cách trung thực. - Mã hóa dữ liệu: quy định thuật toán mã hóa và giải mã dữ liệu. Có thể được sử dụng bảo mật dữ liệu. Trước khi truyền, ứng dụng được mã hóa với một khóa bảo mật. Sau đó ở đầu thu, chỉ có lớp trình bày của hệ thống thu hợp lệ mới có thể giải mã được. 1.4.2.7. Lớp ứng dụng (Application Layer). Lớp ứng dụng có chức năng giao tiếp hỗ trợ các chương trình ứng dụng. Đây là lớp cao nhất trong mô hình OSI cho nên không trao đổi dữ liệu cho tầng trên. Thực hiện trao đổi thông tin với người sử dụng. Người dùng muốn trao đổi thông tin thì phải làm việc với lớp ứng dụng. Tầng ứng dụng bao gồm các thực thể ứng dụng, các thực thể này dùng giao thức và dịch vụ trình diễn để trao đổi thông tin với người dùng. Truyền dữ liệu trên mạng theo OSI và mô hình TCP/IP. Hai ứng dụng cần trao đổi dữ liệu cho nhau thì dữ liệu đó được đóng thành từng gói gọi là PDU (Protocol Data Unit) hay Data-Block. PDU được chuyển từ lớp cao nhất (lớp 7) xuống lớp thấp nhất (lớp 1). Mỗi lần đi qua 1 layer , PDU được các giao thức lớp dưới thêm các thông tin điều khiển riêng gọi là header. Header bao gồm thông tin kiểm lỗi, thứ tự, địa chỉ… Như vậy một data –block có thể được kiểm lỗi rất nhiều lần làm giảm tốc độ truyền dữ liệu, mặc khác đi từ lớp 7 xuống lớp 1, data block có thể bổ sung 6 header nữa, làm cho nó to lớn. Do đó tùy thuộc vào yêu cầu an toàn dữ liệu cũng như độ tin cậy của đường truyền chúng ta có thể bỏ qua một vài bước kiểm tra lỗi để cải thiện tốc độ truyền dữ liệu hiệu dụng. Hình 1.6. Quá trình truyền dữ liệu qua mạng theo chuẩn OSI. Trên liên mạng, việc truyền dữ liệu phải thông qua các Router hoặc gateway trước khi đến trạm đích. Sự khác nhau của repeater, router, gateway thể hiện ở phạm vi chức năng của từng thiết bị. Hình 1.7. Tầm hoạt động của các thiết bị liên mạng. Việc sử dụng Router trên mạng cần phải cân nhắc bởi khi số lượng Router càng lớn thì mạng càng trở nên phức tạp và việc định tuyến trở nên khó khăn, giảm hiệu suất sử dụng mạng. 1.5.1. Sơ lược lịch sử phát triển của mô hình TCP/IP. Giao thức TCP/IP thực chất là một họ các giao thức kết hợp với nhau để thực hiện truyền thông liên mạng. Mỗi giao thức trong TCP/IP có một vai trò khác nhau trong quá trình truyền thông. Quá trình truyền thông TCP/IP bắt đầu bằng một ứng dụng trên máynguồn chuẩn bị dữ liệu được truyền mà một ứng dụng trên máy đích có thể hiểu được. Sau đó, dữ liệu được gia nhập vào ứng dụng đích và máy tính nơi đến và cuối cùng địa chỉ của máy tính đích được bổ sung vào dữ liệu. Rồi một yêu cầu xác nhận phân phối dữ liệu được gởi đến đích thông qua mạng. Các hoạt động trong quá trình truyền thông trên được gán cho các giao thức khác nhau trong họ giao thức TCP/IP. Các giao thức trong họ TCP/IP được chia ra thành các tầng. Trong đó thông tin địa chỉ được đặt cuối cùng , nên chỉ có máy tính đích mở và xử lí toàn bộ dữ liệu. Bộ giao thức TCP/IP rất quan trọng trong việc lựa chọn phương cách truyền thông để hạn chế sự cố và tăng hiệu quả truyền dữ liệu vì nó có một số đặc tính sau. -Độc lập với cấu hình mạng :TCP/IP có thể dùng cho mạng bus, mạng ring hay star, cho mạng cục bộ, mạng diện rộng hay liên mạng. -Độc lập với phần cứng vật lý của mạng: TCP/IP có thể dùng Ethernet, Token Ring hay bất cứ với loại phần cứng vật lý nào. Chuẩn giao thức mở: bộ giao thức chuẩn TCP/IP có thể thực thi trên các loại hệ điều hành khác nhau nên nó thích hợp dùng cho các mạng có nhiều loại phần cứng và phần mềm khác nhau ví dụ như mạng INTERNET . Định vị địa chỉ tổng quát: mỗi máy trên mạng TCP/IP có một địa chỉ duy nhất để có thể liên lạc với bất kỳ máy nào khác trên mạng. Dịch vụ ban đầu của mạng ARPANET là login từ xa Telnet, truyền tập tin FTP và thư điện tử SMTP. Khi ARPANET phát triển, nó được chia thành hai mạng MILNET (còn gọi là DDN) và DARPANET (Còn gọi là DARPA). Đến 1985, mạng DARPA đổi tên thành Internet ngày nay. Tổ chức Internet thế giới còn có tên gọi tắt là InterNIC, có trụ sở tại Mỹ với chức năng quản lý và cấp phát địa chỉ IP, tên miền các quốc gia hoặc các tổ chức tham gia Internet. Ngoài ra InternetNic còn đảm nhiệm vai trò nghiên cứu, ban hành các tiêu chuẩn, các khuyến nghị kĩ thuật cho các thành viên mạng. InterNic chia thành các ban chuyên tránh như sau: - IAB (Internet Activities Board): Đại diện cho Hội đồng quản trị mạng, nghiên cứu và ban hành các RFC, các tiêu chuẩn áp dụng cho Internet. - IRTF (Internet Research Task Force): Nhóm nghiên cứu phát triển Internet. - IETF (Internet Engineering Task Force): Nhóm kĩ thuật hệ thống mạng. Về sau InterNic thành lập các trung tâm khu vực chịu trách nhiệm cấp phát và quản lý địa chỉ IP và Domain cho các quốc gia nằm trong khu vực đó. Ví dụ trung tâm ApNIC là đơn vị trực thuộc InterNic có văn phòng tại Tokyo-Nhật Bản, phụ trách khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. 1.5.2.. Sự tương quan của mô hình TCP/IP với mô hình OSI. TCP/IP thực chất là một họ giao thức cùng làm việc với nhau để cung cấp phương tiện truyền thông liên mạng, hổ trợ các phương thức giao tiếp chuẩn trên mạng cũng như liên mạng . Họ giao thức TCP/IP được ứng dụng rộng rãi và rất đặc biệt trở thành một chuẩn không thể thiếu cho mạng toàn cầu Internet. Khác với mô hình OSI 7 lớp , họ (bộ)giao thức TCP/IP có kiến trúc gồm 4 lớp như hình 1.8. Hình1.8. Bộ giao thức TCP/IP trong tương quan với OSI. Mỗi lớp gồm có một hoặc một số giao thức thực hiện các chức năng riêng đảm bảo việc truyền dữ liệu trên mạng và liên mạng. Đơn vị tin của lớp 4 là Message, của lớp 3 là Segment(hoặc Packet cho UDP), của lớp 2 là Datagram và lớp 1 là Frame. Tin tức của người sử dụng từ lớp 4 xuống được thêm vào phần header ở lớp 3 tạo nên các Segment, các segment sau khi được chuyển xuống lớp 2 và header của lớp 2 được thêm vào tạo thành Datagram. Tại lớp 1, các datagram tại lớp 2 được thêm Header và chuyển lên đường truyền đến trạm thu. Tại trạm thu các giao thức tại các lớp tuần tự thực hiện tách các Header và thu lại thông tin cần trao đổi. Mỗi lớp có một cấu trúc dữ liệu độc lập nhau, tức là một lớp khi hoạt động không cần biết cấu trúc dữ liệu của các lớp trên và dưới nó là gì. Thực ra cấu trúc dữ liệu của một lớp luôn được thiết kế tương thích với các lớp lân cận và điều này giúp đảm bảo hiệu suất cũng như chất lượng thông tin trên mạng và liên mạng. TCP/IP chứa tập hợp các giao thức con nằm rải rác từ lớp 3 đến lớp 7 của mô hình OSI. Hình 1.9. Kiến truc TCP/IP . Lớp truy cập mạng( Network Interface Layer) và các giao thức. Là lớp thấp nhất trong mô hình 4 lớp của bộ giao thức TCP/IP. Các giao t
Tài liệu liên quan