Việt Nam hiện là một trong những nền kinh tế có mức tăng trưởng lớn trên thế giới, là nền kinh tế rất hấp dẫn để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Cùng với đó là quá trình công nghiệp hoá,hiện đại hoá và đô thị hoá ngày càng nhanh chóng kéo theo sự thu hẹp diện tích đất nông nghiệp ở khu vực nông thôn. Nhưng lực lượng lao động nông thôn chiếm phần lớn lực lượng lao động trong cả nước, khoảng 68% lực lượng lao động cả nước (số liệu thống kê năm 2001).
20 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1552 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thị trường lao động nông thôn và giải pháp giải quyết và tạo việc làm ở nông thôn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam hiện là một trong những nền kinh tế có mức tăng trưởng lớn trên thế giới, là nền kinh tế rất hấp dẫn để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Cùng với đó là quá trình công nghiệp hoá,hiện đại hoá và đô thị hoá ngày càng nhanh chóng kéo theo sự thu hẹp diện tích đất nông nghiệp ở khu vực nông thôn. Nhưng lực lượng lao động nông thôn chiếm phần lớn lực lượng lao động trong cả nước, khoảng 68% lực lượng lao động cả nước (số liệu thống kê năm 2001). Vấn đề chuyển dịch cơ cấu lao động còn chậm chưa theo kịp với tốc độ đô thị hoá nên trong khoảng 10năm từ 1990 đến 2001 mới giảm được khoảng 3-4% lao động xã hội hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Tới năm 2010, tức trong khoảng 10năm nữa phấn đấu giảm tỷ lệ lao động xã hội trong lĩnh vực nông nghiệp xuống khoảng 18-19%. Đây là một chỉ tiêu khá cao so với mức đạt được của khoảng thời gian 10năm trước. Trong khi đó bước vào giai đoạn 2001-2010 tỷ lệ tăng dân số cả nước còn ở mức 1,7%/năm và ở nông thôn là 2%/năm. Hàng năm có khoảng 1,5 triệu người bước vào độ tuổi lao động, số người tìm được việc làm là 1,2 triệu người. Như vậy hàng năm trên cả nước số người không có việc làm tăng thêm khoảng 0,3triệu người (hơn 2/3 số này là ở khu vực nông thôn).
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nước ta còn khoảng 50% và quỹ thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn đạt khoảng 80-85%. Việc thực hiện chỉ tiêu chiến lược về lao động nông thôn có ý nghĩa to lớn đối với phát triển kinh tế-xã hội nông thôn nước ta trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại, hoá đất nước.
Trên thực tế, việc hoàn thành những chỉ tiêu chiến lược về lao động và sử dụng quỹ thời gian lao động ở nông thôn nước ta vào năm 2010 có ý nghĩa to lớn xong cũng là nhiệm vụ hết sức khó khăn. Để hoàn thành nhiệm vụ này đòi hỏi phải có những giải pháp vĩ mô đồng bộ và hữu hiệu để thực hiện một cách có kết quả việc phân công lại lao động và tạo thêm nhiều việc làm cho lao động nông nghiệp nông thôn.
I.KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG NÔNG THÔN.
1.Một số khái niệm cơ bản:
Việc làm: Mọi hoạt động tạo ra thu nhập không bị pháp luật ngăn cấm gọi là việc làm. Các hoạt động lao động được xác định là việc làm bao gồm :
Làm các công việc được trả công dưới dạng bằng tiền hoặc hiện vật. Những công việc tự làm để thu lợi nhuận cho bản thân hoặc tạo thu nhập cho gia đình mình, nhưng không được trả công ( bằng tiền hoặc hiện vật ) cho công việc đó.
Người có việc làm: là những người đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân số hoạt động kinh tế mà trong tuần lễ trước điều tra.
Người thất nghiệp: là người đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân số hoạt động kinh tế mà trong tuần lễ trước điều tra không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc.
2.Một số nhận xét khái quát chung:
Thực tiễn quá trình cải cách toàn diện nền kinh tế nói chung, kinh tế nông thôn nói riêng đã và đang đặt ra những vấn đề xã hội nóng bỏng, nhất là về lao động-việc làm. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, biện pháp để thúc đẩy quá trình phân công và sử dụng có hiệu quả lực lượng lao động ở nông thôn, nhưng kết quả đạt được còn rất khiêm tốn, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Vì vậy đánh giá đúng thực trạng, tìm hiểu nguyên nhân làm gia tăng thất nghiệp và thiếu việc làm ở nông thôn, đưa ra giải pháp nhằm hạn chế tình trạng trên là vấn đề rất cấp bách.
Nông thôn nước ta là khu vực đông dân nhất, chiếm 80% dân số và 76.88% lực lượng lao động xã hội. Hàng năm, khu vực này được bổ sung thêm khoảng 67 vạn lao động. Đây là lực lượng lao động rất dồi dào phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội.
Thành tựu nổi bật tạo ra bước ngoặt trong phân công sử dụng lao động ở nông thôn những năm qua là: Từng bước giải phóng tiềm năng lao động. Người lao động trở thành người chủ thực sự trong hoạt động sản xuất kinh doanh trên cơ sở lấy hộ gia đình làm đơn vị kinh tế tự chủ. Bên cạnh đó, xuất hiện nhiều hình thức hợp tác tự nguyện, kinh doanh theo hướng tổng hợp, phát triển ngành nghề phi nông nghiệp… Chính vì vậy, phân công lao động đã có những tiền đề đi vào chuyên môn hoá; cơ cấu kinh tế nông thôn từng bước dịch chuyển theo hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, thu hút lực lượng lao động từ ngành nông nghiệp truyền thống sang hoạt động trong lĩnh vực phi nông nghiệp, góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm ở nông thôn. Mặc dù vậy, lao động - việc làm ở nông thôn nước ta vẫn là vấn đề xã hôi lớn, chịu sự tác động của chính những điều kiện chủ quan và khách quan của nền kinh tế.
Lực lượng lao động ở khu vực nông thôn phân bố rất không đều ở các ngành, các vùng(bảng 1)
Sự dịch chuyển chậm chạp trong phân bố lực lượng lao động nông thôn không chỉ thể hiện ở từng ngành kinh tế mà còn rất đậm nét ở hầu khắp các vùng trên phạm vi cả nước, tập trung nhất ở 2 vùng châu thổ sông Hồng và sông Cửu Long.
Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động giảm xuống còn 7.3% (năm 1997). Đây là lực cản lượng lao động nông thôn lớn nhất trong việc bố trí phân công và sử dụng.
Mặc dù tỷ lệ có việc làm ở nông thôn lớn, nhưng tỷ lệ thất nghiệp thiếu việc làm ngày càng gia tăng.
Bảng 1:
Các vùng
Tổng số
Chia theo nhóm ngành kinh tế
Nông,lâm, ngư nghiệp
CN và XD
Dịch vụ
Số lượng
%
Số lượng
%
Số lượng
%
Nông thôn cả nước
27857460
21721150
77,98
1910205
6,85
4196105
15,17
Miền núi và tây nguyên
5500581
5087070
92,48
113630
2,07
299881
5,45
Đồng bằng sông Hồng
5723913
4397281
76,82
458802
8,02
867830
15,16
Khu IV
4021525
319453
82,54
249403
6,20
452669
11,26
Tây Nguyên
1104727
948637
87,33
25630
3,94
94760
8,73
Như vậy lao động thiếu việc làm ở nông thôn nước ta cũng rất phổ biến ở tất cả các vùng, miền trong cả nước.
Nhưng ngay trong lực lượng lao động có việc làm thường xuyên ở nông thôn vẫn có những lao động mong muốn được làm thêm để có thu nhập, bởi vì giá trị ngày công lao động ở nông thôn còn ở mức quá thấp. Hơn nữa, số giờ làm việc thực tế của ngày làm việc trong năm chưa cao. Năm 1997, tỷ lệ quỹ thời gian của lao động nông thôn đã sử dụng mới chiếm 72,11%, và như vậy còn khoảng 27,89% quỹ thời gian bị bỏ phí. Đây là con số thống kê chưa đầy đủ, trên thực tế con số này còn cao hơn. Thẩt nghiệp, thiếu việc làm, một bộ phận dân cư không có hoặc thu nhập bấp bênh sẽ trở nên nghèo đói. Đặc biệt, những đối tượng chính sách xã hội, những người ít vốn hoặc không có để đầu tư vào sản xuất, đời sống vô cùng chật vật. Vì vậy, khoảng cách giàu nghèo có xu hướng giãn cách. Hiện nay, nước ta có tới 1715 xã nghèo. Trong đó có 1000 xã cực nghèo chiếm 2,4triệu hộ, tương đương 12triệu dân. Đây là một thách thức rất lớn đối với quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế đi đôi với bảo đảm công bằng xã hội ở nước ta hiện nay.
Thất nghiệp và thiếu việc làm ở nông thôn dẫn tới dòng di dân tự do ngày càng gia tăng. Họ di chuyển tới các thành phố lớn, vùng biên giới và các miền đất có tiềm năng canh tác, nhưng kinh tế chậm phát triển như: Tây Nguyên, miền Tây Nam Bộ… làm nảy sinh những vấn đề xã hội bức xúc nơi dân nhập cư tới đó là: Mật độ dân số gia tăng đột biến (cơ học) chẳng hạn từ 1976-1996, Đắc Lắc phải tiếp nhận khoảng 20 vạn dân di cư tự do tới, tại thời điểm hiện nay, Hà Nội có tới 23,44% lao động của thành phố là lao động ngoại tỉnh ( thành phố Hồ Chí Minh là 9,56%). Những địa phương có dân di cư tự do tới thường bị động trong các chương trình, kế hoạch đã định sẵn còn phải đầu tư để giải quyết những vấn đề nảy sinh trước mắt.
Hiện nay 100% dân di cư đều mong muốn có đất canh tác nên họ bất chấp pháp luật, khai thác bừa bãi làm cạn kiệt tài nguyên rừng, biển và đất đai lâm nghiệp, huỷ hoại môi trường sinh thai.
Trẻ em bị thất học, bệnh tật đe doạ. Đặc biệt đã xảy ra những cuộc xung đột giữa dân di cư với người bản địa. Vì vậy, đời sống của đại bộ phận dân nhập cư tự do không ổn định và rất khó khăn về kinh tế trong những năm đầu đến vùng đất mới. Để tồn tại, nhiều người trong số họ chấp nhận làm đủ việc từ buôn bán các chất ma tuý đến mang vác thuê hàng lậu qua biên giới…vv gây căng thẳng về kinh tế, trật tự an toàn xã hội.
3.Thực trạng thị trường lao động nông thôn
3.1.Cung lao động nông thôn:
Dân số ở nông thôn nước ta hàng năm tăng với tốc độ vẫn khá cao, khoảng 2% (năm 2001- 2010) . Có khoảng 1triệu người bước vào độ tuổi lao động mỗi năm. Quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá nhanh trong khi cơ cấu lao động chuyển dịch chậm làm cho lao động nông thôn thiếu việc làm và thất nghiệp tăng nhanh.
Trình độ chuyên môn của lao động nông thôn ở mức rất thấp, phần lớn chưa qua đào tạo.
3.2.Cầu lao động ở khu vực nông thôn:
Khu vực nông thôn kinh tế chưa phát triển, tạo ra ít việc làm, chủ yếu là làm nông nghiệp, đất đai bị thu hẹp do đô thị hoá, sản xuất nông nghiệp cũng giảm dần nên lao động nông thôn thường tồn tại dưới hình thức thất nghiệp trá hình hoặc sử dụng không hết quỹ thời gian lao động trong nông nghiệp. Dịch vụ ở mức thấp do cuộc sống còn khó khăn, người dân ít quan tâm nên khó phát triển.
4.Việc làm ở nông thôn - những vấn đề đặt ra.
Sự phân bố và sử dụng lao động ở nông thôn hiện nay đang làm gia tăng ít nhất ba nghịch lý sau:
Nông nghiệp vẫn còn nhiều tiềm năng cần phải được khai thác (đất trống, đồi núi trọc, các nguồn nước từ ao, đầm, hồ, biển…) và thu hút lao động. Nhưng do thiếu các phương tiện và điều kiện căn bản, lợi thế so sánh về tài nguyên này đang trở thành một nguồn áp lực xã hội.
Trong nông thôn sự thừa và thiếu lao động giả tạo đang là vấn đề nổi cộm. Thừa lao động giản đơn, thiếu lao động được đào tạo có kỹ năng nghề nghiệp cao, nhất là cho các lĩnh vực công nghiệp, chế biến xuất khẩu và các xí nghiệp công nghệ cao.
Một lực lượng lao động đáng kể ở nông thôn, đặc biệt là phụ nữ đang phải làm việc rất vất vả và có nguy cơ thất nghiệp cao.
5.Nguyên nhân làm gia tăng tình trạng thất nghiệp:
Tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn chậm chạp dẫn tới chưa giải quyết được một cách cơ bản và đồng bộ tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm ở nông thôn. Lực lượng lao động nông thôn vốn đã dư thừa, nay do tác động của cơ chế thị trường càng trở nên trầm trọng. Từ năm 1990-1997, tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm 3,5%, bình quân mỗi năm giảm được 0,5%. Số hộ hoạt động trong ngành nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn.
Bảng 2:
Cả nước
Miền núi trung du
Đồng bằng trung du
Khu VI cũ
Tây nguyên
Tổng số
100
100
100
100
100
Hộ nông nghiệp
80,6
91,2
92,2
75,6
77,9
Phi nông nghiệp
19,4
8,8
7,8
24,4
22,1
Quá trình đô thị hoá nhanh chong, những vùng ven đô phát triển rầm rộ các khu công nghiêp, khu chế xuất đã chiếm mất một phần đất nông nghiệp làm cho diện tích đất canh tác bị thu hẹp, nông dân mất đất trở nên thất nghiệp hoặc thiếu việc làm.
Mặt khác, do cơ cấu lại nông nghiêp và kinh tế nông thôn chưa nhận được sự hỗ trợ đúng mức về vốn, tín dụng, thuế, thị trường… Vì vậy, làm cho sự phục hồi các làng nghề truyền thống, hình thành và phát triển nghề mới để công nghiệp hoá nông thôn, mà đặc biệt là công nghiệp chế biến chậm và hạn chế phát triển.
Do vậy, không thể có tác động mạnh và thu hút một bộ phận đáng kể lao động dư thừa ở nông thôn. Hơn nữa, họ hầu như không nhận được bất cứ sự đào tạo kỹ thuật hoặc ngành nghề nào. Họ rất ít có cơ hội để tìm việc làm mới, nâng cao thu nhập và cải thiện điều kiện sống.
Ngoài ra lao động nông thôn vẫn chưa thích nghi với quan hệ cung cầu của cơ chế thị trường. Thị trường nông thôn còn mang tính tự phát, kém năng động và không theo kịp với tốc độ tăng trưởng kinh tế và phân công lại lao động.
II. GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VÀ TẠO VIỆC LÀM Ở NÔNG THÔN
1.Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá:
Phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn toàn diện và vững chắc gắn với công nghiệp chế biến và thị trường xuất khẩu nông sản. Muốn vậy, cần đổi mới quan điểm và nhận thức về vai trò và vị trí của mặt trận nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế quốc dân thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH, phải gắn phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, ngư nghiệp với chuyển đổi cơ cấu sản xuất ngành này.
Tăng đầu tư cho nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Trong cơ cấu đầu tư dành tỷ lệ hợp lý cho nội dung dạy nghề cho nông dân, bao gồm đào tạo nghề mới, đào tạo lại, bồi dưỡng ngắn hạn kiến thức và kinh nghiệm làm ăn bằng cac ngành nghề nông nghiệp và dịch vụ.
Hoàn thiện quy hoạch tổng thể về sản xuất nông nghiệp và công nghiệp chế biến nông sản làm cơ sở cho kế hoạch đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn. Ưu tiên các vùng miền núi, vùng có nhiều trang trại, vùng sản xuất tập trung cây công nghiệp, cây ăn quả.
Đây là giải pháp hết sức quan trọng, có ý nghĩa thiết thực và lâu dài. Trong quy hoạch cần quan tâm đến các vùng sản xuất nông sản hàng hoá lớn phục vụ xuất khẩu, các nghành công nghiệp chế biến nông sản và những ngành công nghiệp phục vụ nông nghiệp như điện, cơ khí, chế biến nông, lâm thuỷ sản, quy hoạch hệ thống trạm, trại nghiên cứu thực phẩm và chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp, nông dân. Thực hiện các biện pháp khuyến công, khuyến lâm, khuyến ngư, khuyến nông.
Thực hiện giải pháp kích cầu bằng các chính sách khoán sức dân ở nông thôn, trong đó bỏ thuế sử dụng đất nông nghiệp là việc nên làm. Trước mắt, năm 2000 Nhà nước cần miễn thuế sử dụng đất cho toàn bộ hộ nông dân ở tất cả các vùng có quy mô đất nông nghiệp bằng mức hạn điền của luật đất đai năm 1993. Mở rộng diện miễn giảm thuế cho các cơ sở sản xuất công nghiệp chế biến nông sản, lâm sản và thuỷ sản. Thu hút vốn FDI vào lĩnh vực này để tạo cầu cho lao động nông nghiệp.
Hoàn thiện cơ chế, chính sách của Nhà nước về nông nghiệp, nông thôn nông dân và gắn nông nghiệp với công nghiệp chế biến theo hướng tích cực hơn và hiệu quả hơn. Nhân rộng mô hình sản xuất nông nghiệp kiểu mới, nhất là mô hình kinh tế trang trại, tổ hợp tác tự nguyện của các hộ, tổ hợp công nghiệp chế biến nông sản, liên doanh với nước ngoài về chế biến nông sản.
Phát triển nông nghiệp theo hướng đa canh và chuyên canh, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp. Hiện nay, ngành nông nghiệp nước ta vẫn còn mang nặng tính độc canh cây lương thực mà chưa thật sự chú trọng vào phát triển các loại cây con khác có giá trị kinh tế cao. Vì vậy, cần quy hoạch cụ thể từng vùng trọng điểm, hướng dẫn nông dân cải tạo vườn, và thuyết phục họ trồng các vùng cây mới như: cây ăn trái, hoa – cây cảnh… theo hướng sản xuất hàng hoá. Đồng thời nghiên cứu cải tiến giống mới một cách hoàn thiện trên cơ sở xem xét những lợi thế tiềm năng cho phép ở từng vùng, thúc đẩy nông nghiệp phát triển theo hướng kinh doanh tổng hợp, mở rộng thị trường hàng hoá nông sản cả trong và ngoài nước.
Phát triển công nghiệp nông thôn, hướng ngành này vào phục vụ sản xuất nông nghiệp là chính như: Sản xuất máy móc, công cụ sản xuất nông nghiệp, phát triển công nghiệp, chế biến sản phẩm sau thu hoạch. Đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động, trên cơ sở cân nhắc kỹ lưỡng về đất đai, lao động, vùng nguyên liệu… như: công nghiệp mía đường, công nghiệp xi măng, công nghiệp hàng tiêu dùng,…Nên chăng hình thành những xí nghiệp công nghiệp vệ tinh sản xuất phụ tùng hoặc gia công cho các nhà máy lớn.
Phát triển dịch vụ nông thôn, không chỉ chú trọng phát triển các dịch vụ truyền thống, như dịch vụ nông nghiệp, dịch vụ hàng tiêu dùng mà cần đẩy mạnh phát triển các loại dịch vụ khác như dịch vụ việc làm, dịch vụ cho vay vốn… đồng thời nâng cao chất lượng các loại dịch vụ thúc đẩy sản xuất phát triển và nâng cao đời sống nhân dân.
2.Tiếp tục ban hành bổ sung và hoàn thiện các chính sách kinh tế vĩ mô.
Tiếp tục ban hành, bổ sung và hoàn thiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Đây là công việc rất quan trọng quyết định sự tăng, giảm chỗ làm việc trong từng thời kỳ. Có những chính sách lại tác động theo cả hai hướng trái ngược nhau: vừa tạo chỗ làm việc mới, vừa làm mất chỗ làm việc, như: chính sách khoa học – công nghệ, chính sách tín dụng, đầu tư. Vì vậy, cần thiết phải:
Tổ chức nghiên cứu, phân tích, đánh giá các yếu tố tác động tới việc tăng, giảm chỗ làm việc ở từng vùng cụ thể để hoạch định, bổ sung, điều chỉnh các chính sách kinh tế vĩ mô, bảo đảm gắn mục tiêu tăng trưởng kinh tế với mục tiêu giải quyết việc làm. Tổng kết, đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, quá trình chuyển đổi và tích tụ, tập trung ruộng đất, phân tích sự tác động của những hiện tượng kinh tế này tới vấn đề lao động - việc làm để từ đó có phương thức xử lý linh hoạt mền dẻo, định hướng cho quá trình này phát triển theo đúng quy luật khách quan.
Ban hành bổ sung hoàn thiện chính sách trực tiếp tác động tới giải quyết việc làm ở nông thôn, như: chính sách trực tiếp tác động tới giải quyết việc làm ở nông thôn, như: Chính sách dịch vụ việc làm, chính sách cho vay vốn và hỗ trợ tài chính giải quyết việc làm. Đặc biệt, tạo ra những tiền đề tiến tới hình thành quỹ bảo hiểm việc làm cho lực lượng lao động ở nông thôn trên cơ sở Nhà nước và nhân dân cùng làm.
Giải quyết việc làm ở nông thôn nước ta trong giai đoạn hiên nay không chỉ là vấn đề kinh tế hay vấn đề xã hội đơn thuần mà là một quá trình tổng hợp và rất phức tạp. Vì vậy, cần phải giải quyết nó trên phạm vi rộng, bao gồm những vấn đề liên quan đến quá trình phát triển nguồn nhân lực cũng như sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực ở nông thôn.
3.Giải pháp phân bố nguồn lao động
Với đặc điểm của sản xuất nông nghiệp và hoàn thành thực tế của nông thôn hiện nay, việc nâng cao tỷ xuất sử dụng lao động trước hết phải hướng vào những ngành, những hoạt động quan trọng, có vai trò quyết định đối với sự phát triển nông nghiệp, nông thôn, vào việc khai thác những nguồn lao động có chất lượng cao, lao động được đào tạo, ưu tiên lao động tại chỗ và chú ý tỷ suất sử dụng thời gian lao động trong những thời điểm nông nhàn. Những giải pháp chủ yếu có thể là:
Thứ nhất, giảm thiểu lao động trong khu vực nông thôn:
Số lao động trong độ tuổi lao động hiện nay khoảng 7triệu người( chiếm gần 50% tổng dân số trong vùng). Để duy trì mật độ dân số cũng như chỉ tiêu về diện tích đất nông nghiệp bình quân nhân khẩu, số lượng lao động nông nghiệp cần được giữ ở mức ổn định khoảng 7-8 triệu người bằng các biện pháp:
Giảm tỷ lệ sinh đẻ để từ đó giảm thiểu số lượng lao động trong vòng 15-20 năm sau.
Di chuyển bớt lao động ra khỏi vùng bằng hai cách chủ yếu: di cư lao động đến những vung thiếu lao động đặc biệt là các tỉnh Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, giải phóng bớt số lao động trẻ ra làm việc tại các khu công nghiệp, đô thị.
Để thực hiện việc rút bớt sức lao động theo cách này, trong những năm trước mắt, cần hết sức coi trọng giáo dục và đào tạo lao động trẻ.
Thứ hai, tạo thêm nhiều việc làm cho khu vực nông thôn.
Tạo thêm nhiều việc làm trong chính nội bộ ngành nông nghiệp bằng các biện pháp:
Thay đổi chuyển dịch cơ cấu cây trồng:
Mặc dù là nước có ngành sản xuất nông nghiệp khá phát triển, nhưng về cơ bản vẫn là nông nghiệp thuần nông, cây lúa vẫn là chủ đạo trong cơ cấu cây trồng. Vì vậy, lao động nông thôn trong vốn đã dư thừa lại càng có nguy cơ dư thừa nhiều hơn khi việc canh tác lúa nước và những cây lương thực ngắn ngày như khoai lang, khoai tây, rau đậu càng ngày càng đòi hỏi ít lao động thủ công hơn; hệ thống cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ sản xuất, trình độ cơ giới hoá, thuỷ lợi hoá, hoá học hoá và áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật đã tương đối hoàn chỉnh. Chính vì vậy, để phá thế thuần nông, độc canh, thực hiện đa dạng hoá nền nông nghiệp, tạo thêm việc làm vho lao động nhất là những lao động lớn tuổi có kinh nghiệm nhưng không được đào tạo, việc chuyển đổi dù rất ít – cơ cấu cây trồng cũng là một giải pháp tốt.
Thực hiện thâm canh, chuyên môn hoá nông sản hàng hoá mũi nhọn:
Nước ta vốn có lực lượng lao động dồi dào, giàu kinh nghiệm, thâm canh không phải là vấn đề quá mới mẻ. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh dư thừa lao động, ngành nghề tạm thời chưa phát triển, chuyển đổi cơ cấu cây trồng hạn chế… việc nâng cao trình độ thâm canh, thực hiện chuyên môn hoá cao đối với một số cây trồng, một số sản phẩm cũng là một biện