Đề tài Thiết kế các hoạt động dạy học Hóa học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập bộ môn

Từ khi hình thành kiểu dạy học “thông báo”. Giáo viên quan tâm trước hết đến việc hoàn thành trách nhiệm của mình là truyền đạt cho hết nội dung qui định trong chương trình và sách giáo khoa, cố gắng làm cho mọi học sinh trong lớp hiểu và nhớ những lời thầy giảng. Cũng từ đó hình thành kiểu học thụ động, thiên về ghi nhớ, ít chịu suy nghĩ. Tình trạng này ngày càng được phổ biến, đã hạn chế đến chất lượng, hiệu quả dạy học không đáp ứng được yêu cầu của xã hội. Để khắc phục tình trạng đó, người ta thấy cần phát huy tính cực chủ động học tập của học sinh thông qua quá trình dạy học dưới sự chỉ đạo của giáo viên, người học phải tích cực chủ động chính mình không ai có thể làm thay cho mình được. Tư tưởng nhấn mạnh vai trò tích cực chủ động của người học, xem người học là chủ thể của quá trình học tập đã có từ lâu. Ở thế kỷ XVII, A.Kômenski đã viết “giáo dục có mục đích đánh thức năng lực nhạy cảm, phán đoán, phát triển nhân cách hãy tìm ra phương pháp cho phép giáo viên làm việc ít hơn , học sinh làm việc nhiều hơn ”. Chương trình đổi mới giáo dục trên phạm vi toàn quốc từ gần 10 năm qua vẫn đang là tâm điểm được xã hội quan tâm sâu sắc. Một trong những nhiệm vụ cơ bản của đội ngũ nhà giáo không ngừng cải tiến phương pháp giảng dạy nhằm giáo dục học sinh lĩnh hội kiến thức một cách chủ động và sáng tạo. Việc học hiện nay không chỉ thu nhận kiến thức từ tiết học mà các em cần học cách chiếm lĩnh tri thức để có thể đạt yêu cầu của thời đại. Chính vì điều đó mà người giáo viên trực tiếp giảng dạy biết thiết kế các hoạt động lên lớp một cách hợp lý, cụ thể phù hợp với từng đối tượng của học sinh nhằm khơi dậy niềm say mê sáng tạo và khả năng khám phá thế giới xung quanh.

doc36 trang | Chia sẻ: hongden | Lượt xem: 1270 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thiết kế các hoạt động dạy học Hóa học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập bộ môn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I: MỞ ĐẦU A. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Từ khi hình thành kiểu dạy học “thông báo”. Giáo viên quan tâm trước hết đến việc hoàn thành trách nhiệm của mình là truyền đạt cho hết nội dung qui định trong chương trình và sách giáo khoa, cố gắng làm cho mọi học sinh trong lớp hiểu và nhớ những lời thầy giảng. Cũng từ đó hình thành kiểu học thụ động, thiên về ghi nhớ, ít chịu suy nghĩ. Tình trạng này ngày càng được phổ biến, đã hạn chế đến chất lượng, hiệu quả dạy học không đáp ứng được yêu cầu của xã hội. Để khắc phục tình trạng đó, người ta thấy cần phát huy tính cực chủ động học tập của học sinh thông qua quá trình dạy học dưới sự chỉ đạo của giáo viên, người học phải tích cực chủ động chính mình không ai có thể làm thay cho mình được. Tư tưởng nhấn mạnh vai trò tích cực chủ động của người học, xem người học là chủ thể của quá trình học tập đã có từ lâu. Ở thế kỷ XVII, A.Kômenski đã viết “giáo dục có mục đích đánh thức năng lực nhạy cảm, phán đoán, phát triển nhân cách hãy tìm ra phương pháp cho phép giáo viên làm việc ít hơn , học sinh làm việc nhiều hơn ”. Chương trình đổi mới giáo dục trên phạm vi toàn quốc từ gần 10 năm qua vẫn đang là tâm điểm được xã hội quan tâm sâu sắc. Một trong những nhiệm vụ cơ bản của đội ngũ nhà giáo không ngừng cải tiến phương pháp giảng dạy nhằm giáo dục học sinh lĩnh hội kiến thức một cách chủ động và sáng tạo. Việc học hiện nay không chỉ thu nhận kiến thức từ tiết học mà các em cần học cách chiếm lĩnh tri thức để có thể đạt yêu cầu của thời đại. Chính vì điều đó mà người giáo viên trực tiếp giảng dạy biết thiết kế các hoạt động lên lớp một cách hợp lý, cụ thể phù hợp với từng đối tượng của học sinh nhằm khơi dậy niềm say mê sáng tạo và khả năng khám phá thế giới xung quanh. Nhiệm vụ cơ bản của việc giảng dạy môn Hóa học cũng như các môn học khác trong nhà trường phổ thông là đảm bảo cho học sinh nắm vững kiến thức được truyền thụ, làm cho học sinh hiểu đúng bản chất của kiến thức ấy, gắn được chúng với những điều đã tiếp thu từ trước và vận dụng vào thực tiễn. Trong các năm gần đây Bộ Giáo Dục – Đào tạo đã và đang từng bước tiến hành thay sách trong cả nước ở lớp 10, 11 và lớp 12. Sự đổi mới chương trình sách giáo khoa bắt buộc thay đổi cả phương pháp truyền thụ kiến thức của giáo viên lẫn phương pháp học tập của học sinh. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương pháp hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh. Hóa học đóng vai trò rất quan trọng trong giáo dục cũng như trong sản xuất. Xuất phát từ mục tiêu đào tạo của nhà trường và phát triển con người toàn diện theo yêu cầu của xã hội. Trong những năm gần đây, giáo dục được coi là ngành then chốt trong chiến lược đào tạo thế hệ trẻ góp phần làm cho dân giàu, nước mạnh dân chủ và văn minh. Ta có thể khẳng định rằng môn hóa học ở trường phổ thông nói chung và phương pháp hình thành kỹ năng thiết kế một bài dạy hóa học vừa chú ý rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo hóa học và phát huy được tính tích cực học tập của học sinhTrong phương pháp dạy học Hóa học ở trường THPT ở mọi lĩnh vực để thực hiện đúng kỹ năng tự chiếm lĩnh tri thức. Học sinh phải trau dồi kiến thức và phải nắm vững phương pháp, thuật ngữ Hóa học. Do sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, đặc biệt là công nghệ thông tin trên toàn thế giới chúng ta cần nhìn thẳng vào những vấn đề tồn tại của ngành giáo dục làm thế nào đưa ngành giáo dục nước nhà tiến nhanh và đuổi kịp với các nước trên thế giới. Để dạy tốt bộ môn Hóa học nhằm góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy trong nhà trường, theo tôi ngoài việc chú tâm xây dựng đầu tư chuyên sâu vào nội dung kiến thức cần truyền tải đến học sinh thì việc đầu tư cho một tiết dạy trên lớp đạt hiệu quả cao không phải là một sớm một chiều, nhất là đối với các em học sinh đang ở độ tuổi mới lớn tư tưởng và tâm sinh lí bị ảnh hưởng rất nhiều bởi các yếu tố bên ngoài xã hội do vậy cần nhanh chóng tạo sự hứng thú cho các em trong học tập nói chung và môn Hoá nói riêng là việc làm cấp bách và cần thiết ngay từ lúc các em bước vào THPT. Xuất phát từ những vấn đề trên trong giảng dạy nói chung và giảng dạy Hóa học nói riêng tôi đã tìm tòi phương pháp giúp học sinh học tập tốt. Một trong các phương pháp đó là “Thiết kế các hoạt động dạy học Hóa học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập bộ môn” B. CỞ SỞ THỰC TIỄN VÀ LÝ LUẬN Việc đổi mới phương pháp dạy học theo chương trình thay sách giáo khoa hiện nay là: Đổi mới phương pháp giảng dạy. Đổi mới cách soạn bài. Đổi mới trong từng bài giảng. Đổi mới cách đánh giá. Khi viết mục tiêu bài học, giáo viên phải hình dung rõ là sau khi học xong bài đó, học sinh của mình có được kiến thức, kỹ năng, trình độ gì? Mức độ như thế nào? Thay đổi thói quen suy nghĩ tập trung vào những điều giáo viên phải đạt được sau khi học xong bài đó. Theo hướng phát huy vai trò chủ thể tích cực chủ động của người học thì mục tiêu đề ra là cho học sinh, do học sinh thực hiện, chính học sinh thông qua các hoạt động học tập tích cực phải đạt những mục tiêu ấy. Giáo viên là người chỉ đạo, tổ chức, hướng dẫn, trợ giúp học sinh nắm được kiến của bài học. Việc giảng dạy hóa học trong nhà trường phổ thông không nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức mà còn phát huy ở các em tư duy sáng tạo, hình thành ở học sinh kỹ năng, kỹ xảo: Quan sát, nghiên cứu, chứng minh các thí nghiệm hóa học, tự làm các thí nghiệm hóa học, tập dượt, làm quen phương pháp nghiên cứu để có hiểu biết thực tế về đời sống con người, gần gũi nhất là hiểu biết về chính bản thân mình. Phát triển năng lực trí tuệ và khả năng tự học của học sinh trong giờ học, học sinh không chỉ được trang bị kiến thức trong sách giáo khoa mà còn hình thành phẩm chất của người lao động mới trong thời đại phát triển 1. Đối với giáo viên - Thiết kế giáo án bao gồm các hoạt động của giáo viên và học sinh theo những mục tiêu cụ thể của mỗi bài học hóa học mà học sinh cần đạt được. Thiết kế hệ thống câu hỏi và bài tập để định hướng cho học sinh hoạt động. - Tổ chức các hoạt động trên lớp để học sinh hoạt động cá nhân hoặc theo nhóm như: nêu vấn đề cần tìm hiểu, tổ chức các hoạt động tìm tòi, phát hiện tri thức và hình thành kỹ năng ... - Định hướng điều chỉnh các hoạt động của học sinh: chính xác hóa các khái niệm hóa học, các kết luận về các hiện tượng, bản chất hóa học mà học sinh tự tìm tòi được. - Thiết kế và việc thực hiện việc sử dụng các phương tiện trực quan, hiện tượng thực tế, thí nghiệm là nguồn để học sinh khai thác, tìm kiếm, phát hiện những kiến thức, kỹ năng về hóa học. - Tạo điều kiện để học sinh được vận dụng nhiều hơn những tri thức của mình để giải quyết một số vấn đề có liên quan tới hóa học trong đời sống, sản xuất. 2. Đối với học sinh - Tự phát hiện vấn đề hoặc nắm bắt vấn đề do giáo viên nêu ra. - Hoạt động cá nhân hoặc hợp tác theo nhóm nhỏ để tìm tòi, giải quyết các vấn đề đặt ra. Các hoạt động có thể là: + Dự đoán: Tính chất của chất, hiện tượng thí nghiệm, phản ứng có xảy ra hay không? + Làm thí nghiệm, quan sát, mô tả hiện tượng, giải thích và rút ra kết luận + Phán đoán, suy luận. + Đề ra giả thuyết. + Trả lời câu hỏi. + Giải bài toán hóa học. + Quan sát sơ đồ, hình ảnh, tranh vẽ rút ra nhận xét. + Tham gia thảo luận theo nhóm: Trình bày quan điểm của mình, lắng nghe, nhận xét ý kiến của người khác + Báo cáo kết quả hoạt động của cá nhân hoặc nhóm. + Rút ra kết luận. + Lắng nghe, quan sát, nhận xét kết qủa của học sinh khác và bổ sung ý kiến - Vận dụng kiến thức kỹ năng đã biết để giải thích một số hiện tượng hóa học xảy ra trong đời sống sản xuất. - Tự học, tự đánh gía và đánh gía việc nắm bắt kiến thức kỹ năng của bản thân và nhóm. Trong tình hình cụ thể hiện nay, việc đổi mới phương pháp dạy học hóa học phải làm cho học sinh: C Phát huy tính tích cực tự giác sáng tạo của người học. C Chuyển trọng tâm từ hoạt động của thầy sang hoạt động của trò. C Hứơng tới hoạt động chủ động, chống thói quen học tập thụ động, học sinh tích cực chiếm lĩnh kiến thức và kỹ năng thu thập, xử lý, trình bày trao đổi thông tin thông qua các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức hướng dẫn. C Tăng cường hoạt động theo nhóm và học tập cá nhân. C Giảm trình bày lý thuyết, tăng thực hành vận dụng. C. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và khách thể nghiên cứu - Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào việc thiết kế các hoạt động dạy học và sử dụng phương tiện trức quan nhằm phát huy tinh tích cực của học sinh trong học tập bộ môn Hóa học ở cấp THPT. - Khách thể nghiên cứu: Học sinh khối 10, 11 trường THPT Nam Phù Cừ 2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp phân tích, thống kê, so sánh, tổng hợp, đánh giá... 3. Thời gian nghiên cứu Năm học 2012 – 2013, 2013 - 2014 PHẦN II: NỘI DUNG A. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Phân tích, so sánh, đánh giá hiệu quả của việc thiết kế các hoạt động dạy học, sử dụng các dụng cụ trực quan kết hợp với công nghệ thông tin trong dạy học môn Hóa học ở cấp THPT. Tạo sự hứng thú trong học tập, phát huy tính tích cực của học sinh dưới tác dụng của các hoạt động dạy học và thiết bị trực quan. Xây dựng khả năng làm việc nhóm qua đó tạo sự đoàn kết, biết giúp đỡ và học hỏi lẫn nhau trong học tập bộ môn Hóa học. Vận dụng các kiến thức đã học để giá và giải thích các hiện tượng trong tự nhiên có liên quan. B. CÁC GIẢI PHÁP Với những thực trạng nêu trên tôi đã đưa ra những giải pháp cụ thể trong việc thiết kế nội dung hoạt động học tập cho bộ môn hóa học nhằm phát huy trí lực học sinh gồm các yêu cầu cụ thể sau: - Lựa chọn phương pháp khi thảo luận. - Sử dụng đồ dùng dạy học, mô hình, hình vẽ, sơ đồ, tin học ứng dụng hiện đại. - Dùng phiếu học tập, bài tập thảo luận. - Sử dụng bài tập thực tiễn trong giảng dạy hóa học. - Cung cấp thông tin. - Chọn cách ghi bảng. 1. Lựa chọn phương pháp khi thảo luận * Phương pháp hoạt động nhóm: Học tập hợp tác theo phương pháp này trong dạy học hóa học được thực hiện khi: + Thỏa thuận để tìm ra lời giải, một nhận xét, một kết luận nào đó. + Cùng thực hiện một việc giáo viên giao cho. Để phát huy tính tích cực hợp tác theo nhóm, cần đảm bảo một số yêu cầu sau đây: Phân nhóm nhóm trưởng và thư ký: Nhóm trưởng có nhiệm vụ phân công trách nhiệm và yêu cầu mỗi thành viên thực hiện đúng trách nhiệm của mình. Thư ký có trách nhiệm ghi kết quả thảo luận, cử đại diện thành viên của nhóm báo cáo kết quả của mình Những bài học có kiến thức khó đòi hỏi khả năng tư duy cao và tập trung, giáo viên nên cho thảo luận nhóm lớn (2 bàn ghép lại ) Nội dung kiến thức vừa phải không cần tập trung nhiều học sinh để tư duy thì có thể cho thảo luận nhóm nhỏ (2 học sinh ) Chú ý: Khi thảo luận nhóm quy định về thời gian và đánh gía thảo luận theo parem điểm của giáo viên đưa ra. Ví dụ : Hướng dẫn học sinh hoạt động để giải bài tập sau: Hoạt động của thầy Hoạt động của trò Ví dụ 1: Tính thể tích ôxi ( ở đktc ) cần dùng để đốt cháy hết 3,1 g phốt pho . Biết sơ đồ phản ứng như sau : P+O2 ® P2O5 Tính khối lượng của hợp chất tạo thành sau phản ứng : Hỏi : Đề bài cho biết gì ? tính gì ? — Gợi ý : - Muốn tìm thể tích khí oxi (đktc) thì ta áp dụng công thức nào? - Vậy số mol oxi biết chưa ? - Muốn tìm số mol oxi ta làm như thế nào ? - Tính số mol của phốt pho -Lập PTHH * Cho HS thảo luận nhóm trong vòng 7 phút - Các nhóm nộp bảng phụ - Cho các nhóm nhận xét và bổ sung . GV sữa chữa sai ( nếu có) Học sinh đọc đề bài - Học sinh đứng tại chỗ nêu tóm tắt đề bài : Tóm tắt đề bài : mP = 3,1 g V = ? m = ? v = n.22,4 - HS thảo luận nhóm lớn, làm vào bảng phụ. - Nhóm trưởng điều hành -Cử 1 thư ký ghi chép - Cử 1 bạn nhận xét kết quả của nhóm khác Số mol của Photpho là: nP = Lập phương trình hóa học 4P + 5 O2 ® 2P2O5 Theo PT: 4mol 5mol 2 mol TheoĐB: 0,1mol x y Số mol oxi là : n Số mol P là : n Thể tích khí oxi cần dùng là : V = n x 22,4 = 0,125 x 22,4 = 2,8 (l) Khối lượng của chất tạo thành m = 142 x 0,05 = 7,1 ( g) * Phương pháp đàm thoại, nêu vấn đề để dạy học môn hóa học tích cực Lựa chọn những kiến thức đang được nghiên cứu, có nhiều quan điểm, nhiều cách lý giải để các em có cơ hội khẳng định khả năng tư duy, đánh giá vấn đề. Dạy học nêu vấn đề luôn chứa các yếu tố tích cực, nhưng ở nhiều mức độ khác nhau. Cần dạy học nêu vấn đề một cách linh hoạt và phối hợp với các phương pháp khác để đổi mới phương pháp dạy học như sau: Đối với giáo viên : Nêu vấn đề cần tìm hiểu, gợi mở để học sinh phát hiện vấn đề. Yêu cầu học sinh giải quyết vấn đề. Học sinh báo cáo kết qủa. Lắng nghe nhận xét bổ sung. Đối với học sinh : Nhận thức vấn đề hoặc phát hiện vấn đề như: + Thực hiện thí nghiệm hóa học, hình ảnhthu thập và xử lý thông tin sách giáo khoa. + Thực hiện các nhiệm vụ được giao: Trả lời câu hỏi, quan sát, nhận xét rút ra kết luậntừ đó rút ra kết luận tính chất chung và tính chất cụ thể, công thức, khái niệm Kiểu dạy học nêu vấn đề sẽ đạt được hiệu quả cao khi học sinh được rèn luyện có thói quen tích cực chủ động trong giờ học. Từ những câu hỏi, gợi ý do giáo viên đưa ra kích thích sự tò mò, ham hiểu biết, tạo nhu cầu hứng thú học tập bô môn tham gia thảo luận tính tích cực, tự giác trong giờ học. * Phương pháp vấn đáp tìm tòi : Trong dạy học hóa học học sinh nhận thức các hiện tượng hóa học không chỉ bằng mất màu mà còn bằng các giác quan như: Nghe, ngửi, sờ và một số ít trường hợp nếm nữa. Đó chính là nguồn thông tin về sự vật và hiện tượng đó làm cơ sở lĩnh hội trực tiếp nhờ các giác quan những kiến thức kỹ, năng, kỹ xảo về các phương tiện được nghiên cứu đều gọi là các phương tiện trực quan. Nó bao gồm: + Thí nghiệm biểu diễn của giáo viên. + Thí nghiệm thực hành của học sinh. Những PPDH trên đây thường được sử dụng đặc trưng cho môn hóa học tuỳ theo loại kiến thức sẽ áp dụng PPDH cho thích hợp và phát huy tính tích cực của HS. Tóm lại, giáo viên phải biết vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy - học để dạy và học hoá học tích cực hơn. Sau đây là những nhận định cần thiết về vấn đề này. a. Dạy – Học không phải là một phương pháp mà là một quan điểm sư phạm b. Tất cả các phương pháp đã biết đều có thể sử dụng theo hướng tích cực hóa hoạt động của HS. Cần lựa chọn phối hợp các phương pháp một cách linh hoạt, sáng tạo phù hợp với nội dung hóa học để tạo điều kiện cho học sinh tích cực, chủ động độc lập sáng tạo khám phá, tìm tòi xây dựng kiến thức mới từ kinh nghiệm, kiến thức đã biết dưới sự tổ chức hướng dẫn của giáo viên. c. Các phương pháp đặc trưng của bộ môn hóa học phải được ưu tiên sử dụng trong dạy học hóa học tích cực: - Sử dụng thí nghiệm hóa học theo hướng nghiên cứu, hạn chế hướng minh họa . - Sử dụng phương tiện dạy và học nhằm vận dụng nguồn kiến thức để học sinh linh hoạt hơn. - Vận dụng linh hoạt phương pháp nêu vấn đề trong mỗi bài học hóa học. - Sử dụng bài tập hóa học như những vấn đề cần giải quyết hoặc những nguồn kiến thức 2. Đồ dùng hóa học và ứng dụng công nghệ thông tin a. Sử dụng thí nghiệm hóa học theo hướng khoa học tích cực giáo viên cần chuẩn bị đầy đủ, đúng, chuẩn xác để giới thiệu cho học sinh trực quan. Khi giới thiệu tránh lan man, ôm đồm, không lựa chọn và gây phân tán khi sử dụng. + Khi giới thiệu đồ dùng dạy học giáo viên cần đưa ra mục tiêu cụ thể để học sinh vận dụng phương pháp trực quan vào bài học có hiệu quả cao nhất. Cụ thể như sau: Thí nghiệm về điều chế khí Cl2 trong phòng thí nghiệm Một số dụng cụ và hóa chất Bài thực hành thí nghiệm hóa học, sử dụng một cách tích cực như : - Học sinh phải nắm được mục đích của thí nghiệm. - Học sinh biết cách sử dụng dụng cụ hoá chất để tiến hành thí nghiệm. - Quan sát mô tả hiện tượng thí nghiệm do giáo viên hoặc do nhóm thực hiện - Giải thích hiện tượng, xác định chất tạo thành và viết phương trình hóa học. b. Sử dụng phương tiện dạy học theo hướng tích cực của học sinh: Băng hình, đĩa nén, máy chiếu, máy chiếu vật thể, phần mềm dạy học các phương tiện này sẽ giúp cho hoạt động của giáo viên và học sinh tích cực hơn, sinh động hơn. Việc ứng dụng công nghệ thông tin để đổi mới phương pháp dạy học hiện nay chưa thành yêu cầu bắt buộc nên còn mang tính tự phát và có nhiều vấn đề cần phải quan tâm.Vì vậy khi sử dụng công nghệ thông tin cần đảm bảo các yêu cầu sau: Bảo đảm tính mục đích: Sử dụng máy tính và các phần mềm hóa học là phương tiện giúp giáo viên tổ chức và học sinh thực hiện các hoạt động hoá học theo hướng: học sinh tích cực, chủ động xây dựng kiến thức và rèn luyện kỹ năng hoá học - Bảo đảm hiệu quả: Không coi máy tính và phần mềm hóa học chỉ là công cụ trình chiếu mà thực sự giúp học sinh tìm tòi, vận dụng kiến thức. - Đảm bảo tính thiết thực và phù hợp: Chỉ sử dụng máy tính và phầm mềm đa phương tiện phù hợp với nội dung, hình thức và phương pháp cụ thể ở mỗi bài, mỗi chương, không sử dụng tràn lan. Ví dụ: Một số thí nghiệm hóa học có điều kiện giáo viên làm hoặc học sinh thực hiện được thì không nên sử dụng hình ảnh thí nghiệm trong bài. Việc sử dụng công nghệ thông tin chỉ khuyến khích các giáo viên ở những trường có điều kiện thực hiện. Bên cạnh sử dụng những phương tiện dạy học hóa học tích cực trên, trong quá trình soạn giáo án chúng tôi luôn cố gắng đầu tư cho hệ thống câu hỏi: Số lượng câu hỏi không cần nhiều nhưng phải chọn lọc để câu hỏi mang tính tổng hợp trong quá trình tái hiện kiến thức cũ, gợi mở dẫn dắt đến kiến thức mới từ thông tin trong sách giáo khoa, cố gắng hạn chế đến mức tối đa những câu hỏi vụn vặt và những câu hỏi mà học sinh chỉ dựa vào sách giáo khoa để trả lời. 3. Phiếu học tập, bài tập thảo luận trên lớp Đây là công việc rất quan trọng nhằm tạo ra hứng thú, say mê học tập của học sinh nhằm đạt đến mục tiêu cuối cùng là phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh. Bài tập hóa học không chỉ giúp HS củng cố, vận dụng, khắc sâu kiến thức mà còn là nguồn tri thức là nguồn phương tiện giúp HS chiếm lĩnh kiến thức mới. Thông qua giải một số bài tập còn giúp học sinh nhận thức được kiến thức mới về qui luật, tính chất về mối quan hệ về chất Nếu nội dung câu lệnh trong sách giáo khoa còn chung chung, khó hiểu, HS rất dễ bỏ sót khi thảo luận, thì giáo viên nên bám sát vào nội dung đó nhưng ở dạng cụ thể bằng bảng để HS điền cụm từ cần tìm. Trường hợp nội dung câu lệnh dễ dẫn đến kết quả học sinh có những đáp án thực tế lan man, khó đưa ra những kiến thức cơ bản trọng tâm, người dạy cần thiết kế chúng ở dạng bài tập ghép cột hoặc lựa chọn câu trả lời phù hợp. Ví duï : Tiết 54: Bài 32: HIĐRO SUNFUA – LƯU HUỲNH ĐIOXIT LƯU HUỲNH TRIOXIT Ghép các ý cột A và Cột B sao cho phù hợp với nhau Cột A Cột B Trả lời A1 : S B1 : Chỉ có tính oxi hóa B1 ghép với A2 : SO2 B2 : Chỉ có tính khử B2 ghép với A3 : H2S B3 : Có tính oxi hóa và tính khử B3 ghép với A4 : H2SO4 B4 : Không có tính oxi hóa và tính khử B4 ghép với A5 : SO3 Đáp án : B1 ghép với A4 B2 ghép với A3 B3 ghép với A1 , A2 B4 ghép với A5 Nếu nội dung lệnh đã rõ ràng cụ thể thì giáo viên nên sử dụng bảng phụ để học sinh dễ dàng hơn trong báo cáo, trao đổi với nhau. Đôi khi để kiểm tra học sinh thu nhận thông tin có sẵn, giáo viên cần đưa ra dạng bài tập ngay trong bài bằng câu trắc nghiệm điền khuyết hoặc chọn câu đúng nhất để có cơ sở nhận định việc lĩnh hội kiến thức của học sinh. Ví dụ: Cho các phản ứng sau: (1) SO2 +NaOH   → NaHSO3.   (2) SO2 + 2H2S   → 3S + 2H2O (3) 2SO2 + O2   2SO3 (4) SO2 + Br2 + 2H2O  → H2SO4 + 2HBr Các phản ứng mà SO2 có tính khử là A. (3), (4)                  B. (1), (2), (4)                C. (1), (3)                         D. (1), (4) Đáp án: A 4. Sử dụng bài tập thực tiễn trong giảng dạy hóa học     Với đặc điểm đa dạng và phong phú của bài tập thực tiễn, việc truyền đạt cho học sinh những kiến thức thực tiễn có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau, thông qua nhiều hình thức khác nhau, có thể đưa vào khi giảng bài mới thông qua các câu hỏi, cách đặt vấn đề, hay một bài tập nhỏ, và cũng có thể giáo viên thông tin cho học sinh, cũng có thể đưa vào trong các
Tài liệu liên quan