Nền kinh tế nước ta đang đi những bước đầu tiên trên con đường hội nhập, ngay trong năm đầu gia nhập tổ chức thương mại lớn nhất thế giới WTO, nền kinh tế đã có những sự bứt phá rất ngoạn mục, mà điển hình ở đây là sự bùng nổ của thị trường chứng khoán trong cuối năm 2006 đầu năm 2007. Sự phát triển của thị trường chứng khoán chủ yếu là ở thị trường cổ phiếu, còn thị trường trái phiếu nước ta vẫn chưa có những biến chuyển đáng kể nào, chủ yếu vẫn là những trái phiếu chính phủ hoặc của các doanh nghiệp nhà nước lớn, còn trái phiếu công ty thì hầu như chưa được mua bán trao đổi. Đối với các doanh nghiệp nhỏ, ngoài nguồn vốn tự có, họ có thể sử dụng nguồn tín dụng ngân hàng hoặc phát hành trái phiếu, mặc dù trái phiếu có những ưu điểm vượt trội: chi phí cố định, khấu trừ thuế, không bị giám sát, thủ tục phức tạp, nó khắc phục được hầu hết các nhược điểm của các khoản vay ngân hàng. Hiện nay, thực trạng ở hầu hết các doanh nghiệp nói chung và Công ty cổ phần chứng khoán HASECO nói riêng, chưa chú trọng đến việc sử dụng nợ, thiết lập cho mình một cơ cấu vốn tối ưu và các doanh nghiệp đều chưa tiếp cận nguồn vốn từ huy động trái phiếu mà chủ yếu vẫn tìm đến nguồn tín dụng ngân hàng, đây là nguyên nhân của sự phát triển chậm chạp của thị trường trái phiếu doanh nghiệp nước ta. Việc huy động vốn bằng phát hành trái phiếu không những giúp các doanh nghiệp gặp nhiều thuận lợi, thu được lợi ích tối ưu mà còn tạo hàng hoá cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp nước ta phát triển.
57 trang |
Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1451 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thiết lập cơ cấu vốn tối ưu thông qua sử dụng công cụ huy động vốn bằng trái phiếu cho Công ty cổ phần Chứng khoán HASECO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế nước ta đang đi những bước đầu tiên trên con đường hội nhập, ngay trong năm đầu gia nhập tổ chức thương mại lớn nhất thế giới WTO, nền kinh tế đã có những sự bứt phá rất ngoạn mục, mà điển hình ở đây là sự bùng nổ của thị trường chứng khoán trong cuối năm 2006 đầu năm 2007. Sự phát triển của thị trường chứng khoán chủ yếu là ở thị trường cổ phiếu, còn thị trường trái phiếu nước ta vẫn chưa có những biến chuyển đáng kể nào, chủ yếu vẫn là những trái phiếu chính phủ hoặc của các doanh nghiệp nhà nước lớn, còn trái phiếu công ty thì hầu như chưa được mua bán trao đổi. Đối với các doanh nghiệp nhỏ, ngoài nguồn vốn tự có, họ có thể sử dụng nguồn tín dụng ngân hàng hoặc phát hành trái phiếu, mặc dù trái phiếu có những ưu điểm vượt trội: chi phí cố định, khấu trừ thuế, không bị giám sát, thủ tục phức tạp,… nó khắc phục được hầu hết các nhược điểm của các khoản vay ngân hàng. Hiện nay, thực trạng ở hầu hết các doanh nghiệp nói chung và Công ty cổ phần chứng khoán HASECO nói riêng, chưa chú trọng đến việc sử dụng nợ, thiết lập cho mình một cơ cấu vốn tối ưu và các doanh nghiệp đều chưa tiếp cận nguồn vốn từ huy động trái phiếu mà chủ yếu vẫn tìm đến nguồn tín dụng ngân hàng, đây là nguyên nhân của sự phát triển chậm chạp của thị trường trái phiếu doanh nghiệp nước ta. Việc huy động vốn bằng phát hành trái phiếu không những giúp các doanh nghiệp gặp nhiều thuận lợi, thu được lợi ích tối ưu mà còn tạo hàng hoá cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp nước ta phát triển.
Với lý do đó em đã chọn đề tài: “Thiết lập cơ cấu vốn tối ưu thông qua sử dụng công cụ huy động vốn bằng trái phiếu cho Công ty cổ phần Chứng khoán HASECO”, làm chuyên đề tốt nghiệp.
Nội dung của chuyên đề gồm 3 phần:
Chương I: Lý thuyết chung về cơ cấu vốn tối ưu và công cụ huy động vốn bằng trái phiếu của doanh nghiệp.
Chương II: Thực trạng cơ cấu vốn tại công ty cổ phần chứng khoán HASECO
Chương III: Thiết lập cơ cấu vốn tối ưu thông qua sử dụng công cụ huy động vốn bằng trái phiếu cho công ty cổ phần chứng khoán HASECO
Tuy nhiên, do thời gian và trình độ có hạn, kinh nghiệm thực tiễn chưa nhiều nên bài viết không thể tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và bạn đọc.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo hướng dẫn TS Lê Thị Xuân, các đồng chí lãnh đạo và các anh chị em cán bộ công ty cổ phần chứng khoán HASECO, đã hướng dẫn, giúp đỡ em hết sức nhiệt tình, tạo điều kiện thuận lợi cho em trong suốt thời gian qua để hoàn thành chuyên đề này.
Sinh Viên
Hà Thị Giang
CHƯƠNG I : LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠ CẤU VỐN TỐI ƯU VÀ CÔNG CỤ HUY ĐỘNG VỐN BẰNG TRÁI PHIẾU
1.1. Cơ cấu vốn của doanh nghiệp
1.1.1 .Khái niệm cơ cấu vốn
Cơ cấu vốn
“Cơ cấu vốn là quan hệ về tỷ trọng giữa nợ và vốn chủ sở hữu, bao gồm vốn cổ phần ưu đãi và vốn cổ phần thường trong tổng số nguồn vốn của công ty.”
Đã có rất nhiều nghiên cứu của các nhà kinh tế về vấn đề cơ cấu vốn, đến nay đã có những lý thuyết về cơ cấu vốn khá nổi tiếng như mô hình của Mordigliani và Miller (thường được viết tắt là mô mình M-M ), lý thuyết cơ cấu vốn tối ưu, lý thuyết về lợi nhuận hoạt động ròng. Có nhiều giả định được đưa ra, tuy nhiên những giả định này được cho là không có trong thực tế và không phù hợp với thực tế. Ngày nay, với một thị trường tài chính phát triển doanh nghiệp có thể dễ dàng huy động các nguồn vốn khác nhau, với chi phí khác nhau để điều chỉnh, cân đối cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp, tuy vậy một cơ cấu vốn thế nào là hợp lý và tối ưu còn phụ thuộc vào trình tình hình thị trường tài chính, trình độ quản lý và nhiều yếu tố khác.
Cơ cấu vốn tối ưu
Cơ cấu vốn tối ưu là cơ cấu đồng thời tối đa hoá giá cổ phiếu và tối thiểu hoá chi phí vốn của doanh nghiêp. Việc sử dụng nợ giúp doanh nghiệp có vốn để tiến hành hoạt động kinh doanh và lãi từ sử dụng nợ không bị tính thuế làm tăng thêm thu nhập cho cổ đông, dẫn đến giá cổ phiếu của doanh nghiệp tăng lên. Tuy vậy, việc sử dụng nợ quá nhiều sẽ tạo áp lực trả nợ và rủi ro phá sản đối với công ty, chính vì thế mà sử dụng nợ cũng có thể làm giảm giá cổ phiếu. Hơn nữa, nếu doanh nghiệp tìm đến nguồn vốn vay của ngân hàng sẽ phải tuân thủ những nguyên tắc tín dụng cũng như đòi hỏi của ngân hàng về tài sản thế chấp, dự án kinh doanh, giám sát,… Nhà đầu tư thì luôn đòi hỏi tỷ lệ lợi tức yêu cầu cao hơn so với lãi vay hoặc lãi suất trái phiếu do họ phải gánh chịu mọi rủi ro trong hoạt động sản suất kinh doanh, càng dùng nợ nhiều thì rủi ro càng lớn làm chi phí vốn chủ tăng lên, vì vậy làm chi phí vốn của doanh nghiệp ngày càng tăng. Cơ cấu vốn tối ưu làm cân bằng tác động của rủi ro và lợi tức, tuy nhiên việc xác định cơ cấu vốn tối ưu một cách chính xác là cực kỳ khó khăn, tuy vậy vẫn xác định được các nhân tố có thể ảnh hưởng đến nó
1.1.2. Nguyên tắc xác định cơ cấu vốn tối ưu và hoạt động của doanh nghiệp
Cơ cấu vốn của doanh nghiệp gồm hai phần là các nguồn vốn nợ và nguồn vốn chủ sở hữu, chi phí sử dụng mỗi nguồn vốn là khác nhau, việc sử dụng nguồn vốn nào cho phù hợp với tình hình tài chính của doanh nghiệp, nguồn nào có lợi cho các cổ đông là một công việc khá khó khăn và phức tạp. Ngày nay, với một tình hình tài chính phát triển thì doanh nghiệp có thể tiếp cận được các nguồn vốn một cách khá dễ dàng, tuy nhiên, sự biến động của thị trường luôn làm thay đổi chi phí, giá cả của các nguồn vốn đó vì thế mà việc xác nhận là rất khó khăn. Dựa trên những thông tin từ thị trường mà doanh nghiệp có thể tính toán được cơ cấu vốn mục tiêu của mình và theo đuổi nó. Dựa trên sự phân tích ảnh hưởng của đòn bẩy kinh doanh, đòn bẩy tài chính, đánh giá các mặt lợi thế và bất lợi của từng hình thức tài trợ, các nhà kinh tế khuyến cáo rằng, để tạo một cơ cấu vốn hợp lý, giúp doanh nghiệp có thể đạt các mục tiêu đặt ra, việc tài trợ và đầu tư phải tuân thủ 5 nguyên tắc cơ bản về hoạch định cơ cấu vốn dưới đây:
Nguyên tắc thứ nhất: Hoạch định cơ cấu vốn phải đảm bảo sự phù hợp giữa thời gian đáo hạn các nguồn tài trợ với chu kỳ sinh lời của tài sản đầu tư. Nguyên tắc này được xây dựng dựa trên một thực tế là các nguồn tài trợ có thời gian đáo hạn rất khác nhau, trong khi thời gian tạo ra các nguồn tiền của các loại tài sản cũng không giống nhau. Vì vậy, để đảm bảo doanh nghiệp có khả năng thanh toán ở bất kỳ thời điểm nào, giảm thiểu rủi ro về tài chính thì việc tài trợ và cơ cấu vốn cần có sự tương thích giữa thời gian được quyền sử dụng vốn với chu kỳ sinh lời của tài sản đầu tư. Nguyên tắc này yêu cầu các nguồn vốn tài trợ cho doanh nghiệp phải có thời gian hoàn trả vốn gốc và lãi phù hợp với chu kỳ sinh lời của những tài sản đầu tư vào doanh nghiệp. Với yêu cầu như vậy, tài sản cố định và tài sản lưu động thường xuyên có thời gian hoàn vốn lâu dài cần được tài trợ bằng các nguồn vốn ổn định là vốn chủ sở hữu và các nguồn tài trợ dài hạn khác. Còn tài sản lưu động tạm thời cần được tài trợ bằng các nguồn vốn ngắn hạn, nhằm giảm thiểu rủi ro mất khả năng thanh toán, lành mạnh hoá tình hình tài chính doanh nghiệp.
Nguyên tắc thứ hai: Hoạch định cơ cấu vốn phải tính đến ảnh hưởng của đòn bẩy tài chính và đòn bẩy kinh doanh. Nguyên tắc này được xây dựng dựa trên sự phân tích tác động có tính chất đòn bẩy của chi phí cố định và nợ vay. Nếu như mọi yếu tố khác được đánh giá trong cùng một mặt bằng thì hệ số về đòn bẩy tài chính và đòn bẩy kinh doanh còn tượng trưng cho độ lớn của rủi ro mà doanh nghiệp có thể gặp phải. Tác động đòn bẩy kinh doanh và đòn bẩy tài chính tạo nên hiệu ứng đòn bẩy tổng hợp, đó là sự ảnh hưởng theo cấp số nhân. Tác động này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến lợi ích của chủ sở hữu, nếu doanh nghiệp đi vay nhiều, đồng thời lại sử dụng tiền vay để đầu tư tài sản cố định. Tác động này có tính hai mặt: nó có thể tạo ra những bước phát triển nhảy vọt nhưng cũng có thể đưa doanh nghiệp mau chóng đến bờ vực phá sản. Nguyên tắc này yêu cầu phải có sự suy xét thận trọng giữa lợi nhuận và rủi ro trước khi quyết định cơ cấu vốn theo hướng tăng tỷ trọng vốn vay và sử dụng tiền vay để mua sắm tài sản cố định cho dự án của doanh nghiệp. Tuân thủ nguyên tắc này, muốn thiên về an toàn, giảm thiểu rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính thì nhà quản trị phải giảm tỷ trọng nợ vay, số tiền huy động nên ưu tiên cho những tài sản tạm thời, những tài sản có khả năng thanh khoản cao. Việc cơ cấu lại vốn, gia tăng các khoản nợ nhằm phát huy ảnh hưởng của hiệu ứng đòn bẩy chỉ nên sử dụng khi sản lượng được đánh giá là có thể vượt xa điểm hoà vốn với độ tin cậy thật cao. Có thể tóm gọn trong một câu đối với nguyên tắc này là: "Cần phải biết phân biệt đầu tư với đánh bạc nếu muốn lành mạnh hoá tình hình tài chính doanh nghiệp".
Nguyên tắc thứ ba: Hoạch định cơ cấu vốn phải đảm bảo duy trì quyền kiểm soát doanh nghiệp. Cơ sở của nguyên tắc này là ở chỗ, chủ sở hữu luôn có mục tiêu nắm quyền kiểm soát doanh nghiệp. Quyền kiểm soát tỷ lệ thuận với số vốn góp. Vì vậy, đảm bảo nguyên tắc này, việc tái cơ cấu vốn phải thực hiện theo hướng gia tăng tỷ trọng vốn chủ sở hữu, đảm bảo cho vốn chủ sở hữu đủ lớn để doanh nghiệp có thể độc lập về mặt tài chính, chủ sở hữu có thể chủ động quyết định những vấn để quan trọng trong sản xuất kinh doanh, không phụ thuộc vào người khác. Trên thực tế, để nắm quyền kiểm soát doanh nghiệp, người ta có thể thực hiện bằng nhiều cách khác nhau. Thông qua cơ cấu vốn - gia tăng tỷ lệ vốn góp cũng là một cách để người ta thay đổi quyền kiểm soát doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp tư nhân - doanh nghiệp một chủ, vấn đề này thường không cần phải đặt ra. Nhưng đối với doanh nghiệp đa sở hữu thì quyền kiểm soát lại là một vấn đề lớn. Nguyên tắc này yêu cầu, để duy trì quyền kiểm soát, doanh nghiệp phải huy động vốn bằng cách vay, thuê, phát hành trái phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi nếu các nguồn vốn chủ sở hữu hiện hành không đủ tài trợ cho dự án mới. Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng cách huy động vốn như trên để duy trì quyền kiểm soát không phải lúc nào cũng đúng. Doanh nghiệp hay chủ sở hữu có thể bị mất toàn bộ quyền kiểm soát nếu huy động vốn vay vượt khả năng chi trả các khoản nợ. Do vậy, hy sinh một phần kiểm soát để đổi lấy một sự an toàn về mătự tài chính cũng là một yêu cầu cần được xem xét khi tăng tỷ trọng nợ vay trong cơ cấu vốn.
Nguyên tắc thứ tư: Hoạch định cơ cấu vốn phải đảm bảo tính linh hoạt trong tài trợ vốn. Tính linh hoạt trong tài trợ vốn là khả năng điều chỉnh tăng, giảm nguồn vốn cho phù hợp với sự thay đổi về nhu cầu vốn qua các thời kỳ kinh doanh. Nguyên tắc này được đưa ra dựa trên nhận định rằng: Nhu cầu vốn chịu ảnh hưởng bởi tính "mùa vụ" của sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp muốn mở rộng sản xuất song nhiều khi cũng muốn thu hẹp quy mô đầu tư. Do vậy để đảm bảo nâng cao được tính linh hoạt trong việc điều động vốn, việc cơ cấu vốn phải được xây dựng trên cơ sở giúp doanh nghiệp tăng được khả năng mặc cả với các nhà cấp vốn trên thị trường. Tuân thủ nguyên tắc này, có thể thấy rằng, việc ưu tiên gia tăng tỷ trọng các khoản nợ, nhất là nợ ngắn hạn, có thể cho phép các nhà quản trị những cơ hội thuận lợi để điều chỉnh linh hoạt nguồn vốn. Ngoài ra, việc đa dạng hoá các hình thức tài trợ bằng cách bổ sung thêm các điều khoản về khả năng thu hồi trước hạn đối với trái phiếu và cổ phiếu ưu đãi cũng giúp cho doanh nghiệp có thể chủ động điều chỉnh cơ cấu vốn một cách kịp thời khi cần thiết.
Nguyên tắc thứ năm: Hoạch định cơ cấu vốn phải tối thiểu hoá chi phí sử dụng vốn. Nguyên tắc này được xây dựng trên quan điểm cho rằng, chi phí sử dụng vốn hay giá vốn là giá của thị trường. Mỗi nguồn tài trợ có yêu cầu về chi phí sử dụng vốn-giá vốn khác nhau. Giá vốn của mỗi hình thức tài trợ cũng biến động theo chu kỳ kinh tế. Vì vậy, xây dựng cơ cấu vốn cho doanh nghiệp phải đảm bảo tối thiểu hoá chi phí sử dụng vốn, nhằm tối đa hoá lợi ích cho chủ sở hữu doanh nghiệp.Tuân thủ nguyên tắc này, đòi hỏi nhà quản trị doanh nghiệp phải đánh giá được xu thế biến động về giá vốn trên thị trường để lựa chọn thời điểm huy động vốn thích hợp. Mặt khác, cơ cấu vốn phải nghiêng về các nguồn tài trợ có thời gian đáo hạn ngắn, thời gian hoàn trả vốn gốc và lãi có thể điều chỉnh một cách linh hoạt, như cổ phiếu ưu đãi, trái phiếu có thể chuyển đổi thành cổ phiếu, và các nguồn tài trợ khác.
Trên đây là các nguyên tắc cơ bản hoạch định cơ cấu tài trợ vốn đối với doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Trong các nguyên tắc đó, không có nguyên tắc nào quan trọng hơn các nguyên tắc còn lại, thứ tự ưu tiên đối với các nguyên tắc là tuỳ thuộc vào quyền quyết định của Giám đốc tài chính. Trong nhiều trường hợp, các yếu tố ảnh hưởng đến việc tuân thủ nguyên tắc có thể mang tính khách quan và bất khả kháng, nằm ngoài sự chi phối của Giám đốc tài chính. Do vậy, để vận dụng tốt, lãnh đạo doanh nghiệp nhất thiết phải đặt chúng trong môi trường cụ thể của hoạt động kinh doanh, đặc điểm nền kinh tế, đặc điểm ngành kinh doanh và đặc điểm của doanh nghiệp.
1.1.3. Nhân tố ảnh hưởng tới các quyết định về cơ cấu vốn tối ưu của doanh nghiệp
Chính sách cơ cấu vốn bao hàm sự đánh đổi giữa rủi ro và lợi tức. Sử dụng thêm nợ là tăng mức độ rủi ro của các dòng thu nhập của doanh nghiệp. Tuy nhiên hệ số nợ cao dẫn tới mức lợi tức kỳ vọng cao hơn. Cơ cấu vốn tối ưu tạo nên sự cân bằng tối ưu giữa rủi ro và lợi tức và qua đó tối đa hoá giá cổ phiếu. Có bốn nhân tố cơ bản tác động tới các quyết định về cơ cấu vốn:
Rủi ro kinh doanh: đây là rủi ro mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng phải đối mặt và chống chọi lại nếu muốn tiếp tục phát triển, rủi ro kinh doanh lớn nhất là ở các doanh nghiệp không sử dụng nợ, việc sử dụng nợ càng ít thì rủi ro kinh doanh mà chủ doanh nghiệp phải chịu là càng nhiều, hệ số nợ tối ưu của doanh nghiệp càng thấp.
Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp cũng ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc sử dụng nợ do đây là yếu tố tác động đến ưu thế của việc sử dụng nợ, sử dụng nợ giúp cho doanh nghiệp tiết kiệm được một phần chi phí vì lãi vay là khoản khấu trừ thuế. Vì vậy, thuế suất càng cao thì lợi thế của việc sử dụng nợ đối với doanh nghiệp càng cao.
Sự linh hoạt về mặt tài chính. Đó là khả năng huy động vốn với những điều khoản hợp lý. Mức độ biến động trong tương lại của vốn và hậu quả của việc thiếu hụt vốn có ảnh hưởng lớn tới cấu trúc vốn mục tiêu.
Sự thận trọng hay năng động trong quản lý ảnh hưởng tới cơ cấu vốn mục tiêu mà doanh nghiệp theo đuôi trong thực tế.
1.2. Công cụ huy động vốn bằng trái phiếu
1.2.1. Khái niệm và các loại trái phiếu
Trái phiếu là một loại giấy tờ có giá, nó giúp cho người sử dụng nó có quyền được đòi lại khoản vốn và lãi đối với tổ chức đã phát hành ra nó vào ngày đáo hạn của trái phiếu. Thông tin về tỉ lệ lãi suất, mệnh giá, ngày đáo hạn,… được ghi trên mặt của tờ trái phiếu. Trái phiếu có thể được mua bán trên thị trường chứng khoán mà không phụ thuộc vào mệnh giá của nó, thị giá của trái phiếu được quyết định bởi lãi suất của trái phiếu, loại trái phiếu (trái phiếu chuyển đổi) và chủ thể phát hành trái phiếu.
Với những doanh nghiệp lớn và có uy tín trên thị trường thì việc phát hành trái phiếu sẽ ít mạo hiểm hơn là các doanh nghiệp nhỏ. Những công ty lớn có uy tín sẽ được công chúng, các nhà đầu tư chào đón trái phiếu, càng uy tín thì càng nhiều người tìm mua trái phiếu, vì họ nghĩ rằng công ty này có khả năng chi trả khoản vay cùng lãi vay đúng hạn và có thể sinh nhiều lợi nhuận cho họ trong tương lai (đặc biệt là loại trái phiếu chuyển đổi, nắm giữ loại trái phiếu này thì nhà đầu tư có thể trở thành cổ đông của doanh nghiệp trong tương lai ). Ngược lại, việc phát hành của các công ty nhỏ lẻ sẽ gặp nhiều khó khăn hơn, những công ty này có thể được xếp hạng tín dụng ở mức thấp, vì thế mà để bù đắp phần rủi ro cho người sở hữu trái phiếu thì lãi suất của trái phiếu của các công ty này phải cao hơn. Việc phát hành trái phiếu có đạt hiệu quả hay không còn phụ thuộc vào mệnh giá, lãi suất, kỳ hạn, thị trường, thời điểm phát hành…
Mệnh giá của trái phiếu càng cao thì khả năng việc sở hữu nó chỉ dành cho một số nhà đầu tư có khả năng về tài chính. Tuy nhiên, phải bỏ ra một khoản tiền lớn để đầu tư vào một doanh nghiệp chưa đáng tin cậy thì rất khó và vì vậy mà việc phát hành trái phíêu có mệnh giá lớn có phần khó khăn, mệnh giá nhỏ giúp cho quảng đại các nhà đầu tư có thể nắm giữ trái phiếu đó một cách dẽ dàng, ít rủi ro hơn.
Lãi suất thể hiện chi phí của việc sử dụng vốn, lãi suất càng cao thì càng thu hút nhiều nhà đầu tư hơn, tuy nhiên lãi suất cao còn tiềm ẩn rủi ro lớn, lãi suất cao làm chi phí sản xuất của doanh nghiệp tăng, ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn. Lãi suất thấp không thu hút được nhà đầu tư, mức lãi suất tối thiểu của một trái phiếu cũng phải cao hơn tỉ lệ lạm phát dự kiến hoặc phải cao hơn lãi suất huy động tiền gửi của ngân hàng thương mại.
Thời điểm phát hành cũng tác động đến sức hút của trái phiếu đối với các nhà đầu tư. Trong điều kiện nền kinh tế ổn định, lạm phát được kiểm soát ở mức thấp, thị trường chứng khoán ổn định, lãi suất huy động trên thị trường thấp, rất thích hợp cho việc phát hành trái phiếu. Phát hàng trái phiếu cũng phải xem xét tham khảo mệnh giá, lãi suất,.. của các trái phiếu khác trên thị trường. Việc phát hành trái phiếu ít khi bị cổ đông cá nhân phản đối, nhưng một số cổ đông lớn, đặc biệt các pháp nhân, băn khoăn. Với những đơn vị không có nhu cầu cấp bách về nguồn vốn, việc sử dụng hiệu quả ngay lập tức một khoản vốn lớn huy động thêm không phải lúc nào cũng thực hiện được. Mặt khác, tính thanh khoản của trái phiếu so với cổ phiếu kém hơn, việc chuyển nhượng giữa các trái chủ có thể sẽ không thuận lợi như mong muốn, nhất là với trái phiếu ghi danh. Dù vậy, trái phiếu chuyển đổi vẫn được xem như một bước đệm thí điểm đáng tiến hành trong quá trình tăng năng lực tài chính của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, phát hành trái phiếu là đồng nghĩa doanh nghiệp tăng nợ, tăng hệ số nợ (nợ dài hạn/vốn chủ sở hữu) nên khi doanh nghiệp đã có hệ số nợ cao thì việc phát hành trái phiếu để đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh sẽ làm hệ số nợ càng tăng cao và ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp, đặc biệt là khả năng thanh toán lãi vay. Dấu hiệu rủi ro tài chính đã xuất hiện khi doanh nghiệp sử dụng nợ. Trong chính sách tài chính ở các nước phát triển, hệ số nợ không nên vượt giới hạn nhất định, chính những tiêu chuẩn đó của sự khôn ngoan, thận trọng về tài chính của các doanh nghiệp sẽ quyết định những giới hạn sử dụng nợ phát hành trái phiếu ở doanh nghiệp .
Nguồn tài trợ trái phiếu có đặc điểm: Chi phí trả lãi vay ổn định và rất thấp so với lợi tức cổ phiếu thường, bảo lãnh phát hành với chi phí thấp dễ bán, không phát sinh quyền quản lý kiểm soát công ty, lãi trái phiếu được hạch toán vào chi phí hoạt động tài chính để xác định lợi nhuận trước thuế .
Các loại trái phiếu
Trái phiếu có lãi suất cố định: là trái phiếu có ghi mức lãi suất trên bề mặt của trái phiếu, ngày đáo hạn. Lãi suất cố đinh được sử dụng phổ biến trong những điều kiện ổn định của thị trường, lạm phát và lãi suất thực ở các ngân hàng ít biến động, có thể dự đoán được.
Trái phiếu có lãi suất thay đổi: là trái phiếu có lãi suất được xác định trong ngày đáo hạn, dựa vào một lãi suất tham chiếu khác cộng với một phần lãi suất đã được thoả thuận từ trước, ví dụ: tỷ lệ lạm phát, tốc độ tằng trưởng GDP,..thường được dùng trong các giai đoạn thị trường bất ổn, đến ngày đáo hạn, lãi suất được xác định.
Trái phiếu chuyển đổi : đây là loại trái phiếu đặc bịêt, nó có thể chuyển đổi thành cổ phiếu theo một tỷ lệ nhất định vào ngày đáo hạn, biến quyền đòi nợ thành quyền sở hữu đối với tài sản của doanh nghiệp, loại trái phiếu này thu hút được sự quân tâm đáng kể của các nhà đầu tư và được mua bán sôi động trên trị trường, thị giá của nó có thể lên xuống cao hơn hoặc thấp hơn mệnh giá của trái phiếu, đây là phương thức tăng vốn điều lệ thích hợp về mặt thời gian, song lại không phải chịu áp lực trả cổ tức. Vấn đề là làm sao xây dựng được phương án phát hành hiệu quả, và thực tế.
Trái phiếu kèm quyền mua cổ phiếu: là loại trái phiếu cho phép người sở hữu trái phiếu được quyền mua thêm một số lượng cổ phiếu