Đề tài Thoả ước giải quyết tranh chấp (DSU) và cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO

Hoạt động thương mại là các hoạt động nhằm mục đích lợi nhuận thông qua việc trao đổi mua bán hàng hoá, dịch vụ và các đối tượng trao đổi khác trong thương mại. Cũng như các lĩnh vực khác, hoạt động thương mại quốc tế chịu sự điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luậtvà những nguyên tắc pháp lý nhất định. Đây cũng chính là cơ sở pháp lý hữu hiệu để giải quyết các vấn đề có thể phát sinh trong hoạt động thương mại.

doc25 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1551 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thoả ước giải quyết tranh chấp (DSU) và cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Hoạt động thương mại là các hoạt động nhằm mục đích lợi nhuận thông qua việc trao đổi mua bán hàng hoá, dịch vụ và các đối tượng trao đổi khác trong thương mại. Cũng như các lĩnh vực khác, hoạt động thương mại quốc tế chịu sự điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luậtvà những nguyên tắc pháp lý nhất định. Đây cũng chính là cơ sở pháp lý hữu hiệu để giải quyết các vấn đề có thể phát sinh trong hoạt động thương mại. Tổ chức thương mại quốc tế (WTO) cũng không nằm ngoài xu thế này. Khi có tranh chấp thương mại xảy ra giữa các quốc gia thành viên của WTO thì các quy định của tổ chức này sẽ là căn cứ pháp lý để giải quyết tranh chấp. Để hiểu rõ thêm về cơ chế cũng như thủ tục giải quyết tranh chấp giữa các thành viên của WTO. Em xin chon đề tài “Thoả ước giải quyết tranh chấp (DSU) và cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO” làm bài tiều luận của mình. Do thời gian cũng như kiến thức còn có hạn bài tiểu luận khó có thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Em kính mong thầy cô xem xét và đóng góp ý kiến cho bài tiều tiểu luận của em ngày một hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! NỘI DUNG I. KHÁI QUÁT VỀ THOẢ ƯỚC GIẢI QUYỂT TRANH CHẤP (DSU) CỦA WTO 1. khái quát về thoả ước giải quyết tranh chấp (DSU) của WTO. Việc giải quyết tranh chấp thương mại phát sinh giữa các quốc gia là thành viên của WTO sẽ được thực hiện theo các quy định về giải quyết tranh chấp của tổ chức thương mại thế giới (WTO). Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại giữa các nước là thành viên WTO được hình thành từ sau vòng đàm phán Urugoay và chính thức được áp dụng từ tháng 12-1996. Sau thời gian dài đấu tranh giữa các nước thành viên của hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch (GATT), vòng đàm phán Urugoay kết thúc với việc thành lập tổ chức thương mại thế giới (WTO) và một bộ phận chức năng quan trọng của WTO là cơ chế giải quyết tranh chấp DSB. việc thông qua “thoả thuận về các quy tắc cụng như thủ tục giải quyết tranh chấp” gọi tắt là DSU đã tạo nền tảng, cơ sở pháp lý cho việc giải quyết tranh chấp phát sinh giữa các nước thành viên. Thoả ước DSU quy định các phương pháp, trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp, đảm bảo tính công bằng, thống nhất, khách quan trong thủ tục giải quyết tranh chấp cũng như đưa ra các biện pháp đảm bảo thi hành các khuyến nghị, phán quyết của cơ quan giải quyết tranh chấp. 2.Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO-DSB WTO không thành lập một cơ quan giải quyết tranh chấp hoàn toàn độc lập và tách ròi khỏi cơ cấu của tổ chức chung WTO. khoản 3 Điều IV- Hiệp định thành lập tổ chức thương mại thế giới (gọi tắt là hiệp đinh WTO) quy định về cơ cấu của WTO như sau: “khi cần thiết Đại Hội Đồng sẽ được triệu tập để đảm nhiệm phần trách nhiệm của cơ quan giải quyết tranh chấp được quy định trong thoả thuận về giải quyết tranh chấp. Cơ quan giải quyết tranh chấp có thể có chủ tịch riêng và tự xây dựng ra các quy định về thủ tục mà cơ quan này cho là cần thiết để hoàn thành trách nhiệm của họ”. Như vậy, Đại Hội Đồng WTO vừa là cơ quan thường trực vừa làcơ quan giải quyết tranh chấp (DSB) của WTO. Nghĩa là, thành viên của DSB cũng chính là các đại diện của các nước thành viên trong Đại Hội Đồng. DSB coa một chủ tịch riêng và được hỗ trợ bởi ban thư ký của WTO trong quá trình tiến hành các thủ tục giải quyết tranh chấp. thẩm quyền của DSB Thành lập ban hội thẩm để giải quyết từng tranh chấp cụ thể khi có yêu cầu của nguyên đơn; thành lập và giám sát hoạt động của Cơ quan phúc thẩm; Thông qua các báo cáo của ban Hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm; Đảm bảo và giám sát việc thực thi các phán quyết và khuyến nghị của cơ quan nói trên bằng cách cho phép áp dụng các biện pháp trả đũa hay đình chỉ thi hành những nhượng bộ và các nghĩa vụ khác theo theo các hiệp định có liên quan (khoản 1 Điều 2 thoả thuận DSU). Chức năng của DSB Giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa các nước thành viên theo những nguyên tắc, trình tự và thủ tục quy định trong DSU, đưa ra quyết định cuôí cùng về tranh chấp. đảm bảo thực hiện và giám sát thi hành thoả thuận DSU nhằm tạo dựng và duy trì một cơ chế giải quyết tranh chấp công khai, thống nhất, khách quan, hiệu quả; Xây dựng, ban hành các quy định về thủ tục giải quyết tranh chấp đảm bảo các nghĩa vụ thực thi thoả thuận DSU. DSB là cơ quan giải quyết tranh chấp nhưng không trực tiếp tham gia vào quá trình tổ tụng để giải quyết vụ việc mà chỉ tham gia vào giai đoạn đầu tiên là thành lập ban Hội Thẩm và giai đoạn cuối cùng là thông qua báo cáo,kết luận về giải quyết vụ việc. DSU quy định một hệ thống xét xử hai cấp: Ban Hội thẩm và Cơ Quan Phúc thẩm. Mọi tranh chấp phát sinh sẽ đựơc giải quyết theo trình tự hai cấp này. DSB có trách niệm lập ra ban hội thẩm để giải quyết từng vụ việc cụ thể đồng thời DSB sẽ giám sát các hoạt động thông qua báo cáo cuối cùng về giải quyết vụ viẹc của ban hội thẩm. Nếu có kháng cáo vụ việc sẽ được chuyển lên cơ quan phúc thẩm. Khi báo cáo của ban hội thẩm và cơ quan phúc thẩm được thông qua nó sẽ có giá trị pháp lý ràng buộc các bên có liên quan thực thi. Để bảo tính khả thi của các quyết định của mình, DSB có quyền quyết định áp đặt các biện pháp trả đũa nếu như một bên không chịu thi hành các quyết định của DSB. Các cơ quan trực thuộc DSB Hệ thống các cơ quan giải tranh chấp của WTO được tổ chức theo hai cấp: cấp Ban hội thẩm (Panel) và cấp cao hơn là Cơ quan phúc thẩm. Hai cơ quan này đều do DSB lập nên cũng như chịu sự giảm sát của DSB, có nhiệm vụ DSB thực thi các chức năng của mình trong quá trình giải quyết tranh chấp. Ban hội thẩm (Panel) Theo quy đình của DSU, nếu có yêu cầu bằng văn bản của bên nguyên đơn, Ban Hội thẩm sẽ đựơc thành lập chậm nhất là vào ngày cuộc họp tiếp theo của DSB mà tại đó yêu cầu này lần đầu tiên được đua ra như một đề mục của chương trình nghị sự DSB, trừ khi tại cuộc họp đó DSB quyết định trên cơ sở nhất trí chung không thành lập Ban Hội thẩm (khoản 1 điều 6-DSU). Thông thường, khi bên nguyên đơn yêu cầu, một cuộc họp DSB sẽ được tổ chức trong vòng 15 ngày kể từ khi nhận được yêu cầu, với điều kiện là phải thông báo cuộc họp trước 10 ngày. việc quy định ban hội thẩm được thành lập một cách tự động như vậy nhằm đảm bảo cho quá trình tố tụng được diễn ra nhanh chóng. Đối với vụ kiện có nhiều nguyên đơn thì cũng chỉ có một Ban hội thẩm được thành lập để xem xét những đơn kiện có tính đến quyền của tất cả các nước thành viên có liên quan (khoản 1 Điều 9 – DSU). Nêu có hai hoặc nhiều ban Hội Thẩm được thành lập để xem xét nhưng đơn kiện có liên quan đến cùng một vấn đề thì sẽ cố gắng đến mức cao nhất có thể để chon các hội thẩm viên chung cho các ban hội thẩm riêng đó (khoản 3 Điều 9 – DSU). Điều này một mặt giảm bợt thủ tục và chi phí cho việc thành lập Ban hội thẩm riêng đó (khoan 3 Điều 9 – DSU). Điều này một mặt giảm bớt thủ tục và chi phí cho việc thành lập ban hội thẩm, mặt khác đảm bảo tính thống nhất, công bằng trong xử lý các tranh chấp phát sinh có cùng nội dung. Về thành phần Ban hội thẩm, theo điều 8 thoả thuận DSU, ban hội thẩm gồm 3 thành viên. Các bên tranh chấp cũng có thể thoả thuận một Ban hội thẩm gồm 5 hội thẩm viên. Các hội thẩm viên được DSB lựa chon trên cơ sở danh sách các chuyên gia do ban thư ký giới thiệu và được thông báo cho các thành viên của WTO. Để bảo vệ quyền lợi cho các thành viên đang phát triển, DSU quy định trong vụ tranh chấp xảy ra giữa một nước thành viên phát triển và một nước thành viên đang phát triển, nếu có yêu cầu của nước thành viên đang phát triển thì ban Hội thẩm sẽ có ít nhất một hội thẩm viên là công dân nước đang phát triển (khoản 10 Điều 8). Trong quá trình tố tụng, các hội thẩm viên phải tuân thủ nguyên tắc làm việc độc lập, công bằng, vô tư, đồng thời phải tuân thủ đúng các quy định trong các hiệp định của WTO. Chức năng của ban hội thẩm Điều 11 – DSU quy định chức năng của Ban hội thẩm là hỗ trợ DSB làm tròn trách nhiệm theo thoả thuận DSU và các hiệp định có liên quan. Cụ thể là, ban hội thẩm sẽ phải đánh giá một cách khách quan các vấn đề tranh chấp, gồm cả việc đánh giá thực tế vụ việc, khả năng áp dụng, sự phù hợp của các hiệp định có liên quan và tiến hành nững điều tra khác có thể giúp DSB trong viẹc đưa ra các khuyến nghị hoặc phán quyết được quy định trong các hiệp định có liên quan. Trong quá trình tố tụng, ban hội thẩm sẽ đều đăn tham vấn với các bên tranh chấp và tạo cho họ nhưng cơ hội như nhau để đưa ra một giải pháp thoả đáng với cả hai bên. Như vậy, có thể thấu ban hội thẩm không phải là một cơ quan xét xử như trọng tài hay toà án. nhiệm vụ của ban hội thẩm chỉ dừng lại ở việc điều tra thực tế, chỉ ra các biện pháp giải quyết khi cần thiết. Báo cáo này khi đựơc DSB thông qua thì được coi như phán quyết của DSB và có giá trị pháp lý ràng buộc các bên tranh chấp, buộc các bên phải thi hành. Nguyên tắc làm việc của ban hội thẩm Ban hội thẩm làm việc theo các nguyên tắc quy định trong phụ lục 3 của thoả thuận DSU, bao gồm: Ban hội thẩm sẽ họp kín. Các bên tranh chấp và bên thứ 3 có quyền lợi liêm quan sẽ có mặt tại các buổi họp chỉ khi được ban hội thẩm mời trình diện. Giữ bí mật việc nghị án của ban hội thẩm và những tài liệu được đệ trình. tạo quyền bình đẳng ngang nhau cho các bên trong tranh chấp, và tạo cơ hội cho bên thứ ba có quan tâm đến vụ tranh chấp trình bày quan điểm của mình. Cơ quan phúc thẩm Cơ quan phúc thẩm là cấp xét xử thứ hai của hệ thống giải quyết tranh chấp. Khác với ban hội thẩm được thành lập để giải quyết theo từng vụ việc tranh chấp cụ thể sau khi có khiếu nại của một bên tranh chấp, cơ quan phúc thẩm được lập và duy trì hoạt động như một cơi quan thường trực của DSB. Cơ quan phúc thẩm sẽ xem xét các kháng cáo về báo cáo của ban hội thẩm. điều 17 DSU quy định cơ quan phúc thẩm gồm 7 người và mỗi vụ việc sẽ do 3 người xét xử. DSB sẽ chỉ định người làm việc ở cơ quan phúc thẩm trong nhiệm kì 4 năm và mỗi người có thể tái bổ nhiệm một lần. Tuy nhiên, nhiệm kỳ của 3 trong số 7 người được bổ nhiệm ngay sau khi hiệp định WTO co hiệu lực sẽ hết hạn sau 2 năm. Ngưòi được bổ nhiệm thay thế một người mà nhiệm kỳ chưa hết có thể giữ vị thí đó trong thời gian nhiệm kỳ còn lại của người tiền nhiệm. việc quy định như vậy đảm bảo cơ quan phúc luôn có sự luân phiên giữa người cụ và người mới, qua đó duy trì được quá trình làm việc bình thường của cơ quan phúc thẩm. Thành viên của cơ quan phúc thẩm. Cũng như các hội thẩm viên, các thành viên cơ quan phúc thẩm phải đáp ứng đày đủ các tiêu chuẩn khăt khe do DSU quy định. khoản 3 điều 17thoả thuận DSU yêu cầu: Thành viên cơ quan phúc thẩm phải có uy tín, có kinh nghiệm chuyên môn về pháp luật, thương mại quốc tế và những lĩnh vực thuộc diện điều chỉnh của WTO. Họ không được liên kết với bất kỳ một chính phủ nào. với tư cách là thành viên của cơ quan phúc thẩm họ sẽ đại diện rộng rãi cho tất cả các nước thành viên WTO. Sẵn sàng tham gia làm việc bất cứ lúc nào. Trong quá trình làm việc, mọi thành viên đều bình đẳng như nhau. Không giống như ban hội thẩm là thành viên không đựơc là công dân của các nước đang có tranh chấp hay quyền lợi liên quan đến tranh chấp, việc lựa chon ba thành viên để thành lập ban phúc thẩm tuân theo nguyên tắc lựa chon ngẫu nhiên, tạo cơ hội cho tất cả các thành viên trong cơ quan phúc thẩm được tham gia, bất chấp họ thuộc quốc tịch nào (quy tắc 6 - thủ tục phúc thẩm do cơ quan phúc thẩm soạn thảo). Tuy nhiên, đối với các vụ tranh chấp có thể tạo ra xung đột quyền lợi trực tiếp hay gián tiếp với một thành viên trong cơ quan phúc thẩm thì thành viên này không được tham gia xem xét vụ việc đó. II. CƠ CHẾ VÀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA WTO 1. Các nguyên tắc giải quyết tranhchấp của WTO Khi giải quyết tranh chấp phát sinh giữa các nước thành viên của WTO, DSB phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản nhất, đó là nguyên tắc không phân biệt đối xử, nguyên tắc công khai và thúc đảy cạnh tranh lành mạnh, nguyên tắc bảo hộ thông qua thuế quan, nguyên tắc tiếp cận thị trường, nguyên tắc bảo hộ và phòng ngừa bất trắc. Ngoài các nguyên tắc chung nói trên, khi giải quyết tranh chấp, DSB dựa trên những nguyên tắc cụ thể sau: Nguyên tắc bình đẳng giữa các thành viên tranh chấp. Theo nguyên tắc này các nước thành viên tranh chấp dù lớn hay nhỏ, phát triển, hay chậm phát triển đều bình đẳng như nhau trong việc giải quyết tranh chấp phát sinh. Nguyên tắc này chi phối tất cả các giai đoạn của quá trình giải quyết tranh chấp: bình đẳng khi tham vấn; bình đẳng khi đưa tranh chấp ra ban hội thẩm, trong quá trình kháng cáo, khi thi hành khuyến nghị, phán quyết của DSB. Nguyên tắc bình đẳng cũng chi phối hoạt động của các hội thẩm viên, các thành viên cơ quan phúc thẩm trong quá trình giải quyết tranh chấp các hội thẩm viên, các thành viên cơ quan phúc thẩm hoàn toàn bình đẳng với nhau trong việc đưa ra ý kiến, quan điểm về các vấn đề cần giải quyết. Nguyên tắc bí mật. Các cuộc họp của bản hội thẩm, của cơ quan phúc thẩm là các cuộc họp kín, không công khai, các bên tranh chấp chỉ được mới tham dự khi cần thiết. Như vậy nội dung các cuộc họp của ban hội thẩm, cơ quan phúc thẩm là bí mật đối với các nước thành viên thư ba. Nguyên tắc bí mật phần nào cũng thể hiện trong giai đoạn tham vấn, đó là nội dung tham vấn giữa các nước thành viên tranh chấp không được thông báo cho các thành viên WTO biết. Nguyên tắc “đồng thuận phủ quyết” (hay “đồng thuận nghich”). Theo Điều 2.4, Điều 6.1, Điều 16.4 và Điều 17.14, việc ra quyết định thành lập ban hội thẩm và cơ quan phúc thẩm đều dựa trên nguyên tắc đồng thuận phủ quyết (hay đồng thuận nghích), nghĩa là trong mọi trường hợp, ban hội thẩm sẽ được thành lập để giải quyết tranh chấp và các báo cáo của ban hội thẩm, của cơ quan phúc thẩm sẽ được thông qua, trừ khi DSB quyết định trên cơ sở đồng thuận không thành lập ban hội thẩm hay không thông qua các báo cáo này. Điều này dẫn tới việc hầu như ban hội thẩm được thành lập một cách tự động khi có yêu cầu bằng văn bản của nguyên đơn và các báo cáo cũng đựơc thông qua một cách tự động. Đây cũng là một điểm độc đáo và tiến bộ trong cơ chế giải quyết tranh chấp cuả WTO so với GATT 1947 trước đây.trong cơ chế của GATT 1947, nguyên tắc đồng thuận được hiểu rằng ban hội thẩm chỉ được thành lập và một báo cáo chỉ được thông qua khi có sự nhất trí của tất cả các thành viên trong hội đồng GATT. Vì vây, khi một bên tranh chấp không có thiện chí có thể gây ra tình trạng trì trệ trong việc thông qua do một hay một số bên không chấp nhận những đề xuất trong báo cáo. -Nguyên tắc đối xử ưu đãi với các nước đang phát triển và chậm phát triển nhất việc đối xử ưu đãi với các nước đang phát triển chỉ thể hiện ở chỗ ban thư ký dành hỗ trợ về mặt pháp lý cho các nước này, có thể kéo dài một số thời gian trong quá trình giải quyết tranh chấp, quyền lợi và tình hình kinh tế của các nước này sẽ được chú ý tói trong các giai đoạn của quá trình giải quyết tranh chấp, quyền lợi và tình hình kinh tế của các nước này sẽ được chú ý tới trong các giai đoạn của quá trình giải quyết tranh chấp. 2. Quy trình, thủ tục giải quyết tranh chấp theo cơ chế của WTO Thủ tục giải quyết tranh chấp theo cơ chế của WTO thương trải qua các giai đoạn: tham vấn, hội thẩm, kháng cáo và phúc thẩm, thi hành phán quyết. Tuy nhiên, không phải bất kỳ tranh chấp nào cũng đều phải trải qua tất cả các giai đoạn này. Tuỳ thuộc vào nội dung của tranh chấp, thiện chí của các bên mà một tranh chấp có thể được giải quyết tại giai đoạn tham vấn, hoặc tại giai đoạn hội thẩm. Giai đoạn tham vấn Giai đoan đầu tiên của việc giải quyết tranh chấp theo cơ chế của WTO là tham vấn. Tham vấn là việc các nước tranh chấp tiến hành đàm phán với nhau để đưa ra một thoả thuận thống nhất về việc giải quyết tranh chấp. Tham vấn là thủ tục bắt buộc các bên phải tiến hành , chỉ khi các bên đã tham vấn hay đàm phán với nhau mà không đạt được hiệu quả thì mới tiến hành các quy trình tiếp theo của cơ chế giải quyết tranh chấp. Quy định này nhằm tránh sự đối đầu giữa các thành viên của WTO khi giảiquyết các tranh chấp phát sinh. Bước đầu tiên trong giai đoạn tham vấn là khi một nước thành viên của WTO (gọi tắt là nước khiếu nại) thấy một nước thành viên khác (gọi là nước bị khiếu nại) tiến hành một hay một số hành vi trái với các quy định của hiệp định hay thoả thuận của WTO. Trong yêu cầu tham vấn phải thể hiện rõ biện pháp để tiến hành tham vấn, cơ sở pháp lý để khiếu nại có quyền yêu cầu tham vấn (không đáp ứng yêu cầu này, thành viên yêu cầu tham vấn sẽ mất quyền được lập ban hội thẩm để giải quyết tranh chấp nếu tham vấn không thành công). điều này đã được quy định trong điều 4.4 của thoả thuận DSU: “bất cứ yêu cầu tham vấn nào cũng sẽ phải đệ trình lên bằng văn bản và đưa ra yêu cầu , kể cả việc xác định mức độ của vấn đề và việc chỉ ra cơ sở pháp lý cho việc khiếu kiện”. Nội dung tham vấn giữa các bên được giữ bí mật và việc tham vấn không làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các nước trong các giai đoạn sau của quá trình giải quyết tranh chấp. Theo quy định, nước bị khiếu nại phải trả nước khiếu nại về yêu cầu tham vấn trong vòng 10 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu tham vấn và các bên tranh chấp sẽ tiến hành tham vấn một cách thiện chí trong thời hạn 30 ngày sau ngày nhận được yêu cầu với quan điểm có gắng đạt được giải pháp thoả đáng cho các bên, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác. Nếu nước bị khiếu nại khong trả lời trong thời hạn 10 ngày sau ngày nhận được yêu cầu hoặc không tiến hành tham vấn trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận đựơc yêu cầu tham vấn, hoặc một thời hạn khác do các bên thoả thuận sau ngày nhận đựơc yêu cầu, thì khi đó nước khiếu nại có thể trực tiếp yêu cầu DSB thành lập ban hội thẩm. Nếu việc tham vấn không giải quyết được tranh chấp của các bên trong vòng 60 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu tham vấn, hoặc một thời hạn 60 ngày kể trên nếu các bên tham vấn cũng cho rằng việc tham vấn không thể giải quyết được tranh chấp thì các bên khiếu nại có thể yêu cầu DSB lập ban hội thẩm. Trong trường hợp khẩn cấp, cung như trong trường hợp có liên quan đến hàng dễ hư hỏng, các thành viên phải tiến hành tham vấn trong thời gian không quá 10 ngày sau khi nhận được yêu cầu tham vấn. Nếu việc tham vấn không giải quyết được tranh chấp trong thời hạn 20 ngày sau ngày nhận được yêu cầu, bên khiếu nại có thể yêu cầu thành lập ban hội thẩm. Nếu trong giai đoạn tham vấn, các nước tranh chấp thống nhất đựơc giải pháp cho vụ tranh chấp thì tranh chấp đã được giải quyết. Nếu các nước tranh chấp không thoả thuận được giải pháp thoả đáng cho việc tranh chấp thì việc giải quyết tranh chấp sẽ được tiến hành ở bước tiếp theo tại ban hội thẩm. Giai đoạn hội thẩm Thủ tục tố tụng tại ban hội thẩm là giai đoạn thứ hai của tiến trình giải quyết theo cơ chế của WTO. Khi có yêu cầu thành lập ban hội thẩm của nước khiếu nại, DSB sẽ nhóm họp để xem xétyêu cầu này. Ban hội thẩm sẽ được thành lập vào phiên họp tiếp theo của DSB, trừ khi DSB quyết định trên cơ sở nhất trí không thành lập Ban hội thẩm. Nhiệm vụ của ban hội thẩm là đánh giá khách quan vấn đề tranh chấp, bao gồm cả các tình tiết thực tế, khả năng áp dụng các hiệp định, thoả thuận có liên quan của WTO và tìm hiểu điều tra thêm để hỗ trợ DSB đưa ra các khuyến nghị hoặc phán quyết. Yêu cầu thành lập ban hội thẩm phải được lập thành văn bản. Văn bản yêu cầu này phải ghi rõ thủ tục tham vấn đã được tiến hành nhưng tranh chấp chưa được giải quyết, xác đỉnhõ các biện pháp cụ thể đang được bàn cãi và cung cấp tóm tắt ngắn gọn về cơ sởpháp lý của đơn kiện và trình bày vấn đề một cách rõ ràng. Trong trường hợp bên nộp đơn yêu cầu thành lập ban hội thẩm với với các điều kiện khác với các điều khoản tham chiếu chuẩn thì văn bản yêu này sẽ kèm theo văn bản đề xuất về các điều khoản tham chiếu đặc biệt. Khi thành lập ban hội thẩm, DSB có thể uỷ quyền cho Chủ tịch DSB soạn thảo các điều khoản tham chiếu của ban hội thẩm có sự tham vấn với các bên tranh chấp. Các điều khoản tham chiếu được soạn thảo như vậy sẽ được gửi tới các thành viên. nếu các bên thoả thuận điều khoản tham chiếu khác với điều khoản tham chiếu chuẩn thì bất kỳ thành viên nào cũng có thể nêu vấn đề liên quan đến các điều khoản đó với
Tài liệu liên quan