Việt Nam là một nước có gần 70% dân số sống ở nông thôn và sinh sống bằng nông nghiệp, hoạt động sản xuất nông nghiệp ở nước ta chủ yếu vẫn là sản xuất truyền thống, ít sử dụng máy móc và công nghệ mới. Hiện nay nước ta đang tiến hành công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước nhưng nông nghiệp vẫn là ngành có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế cũng như giải quyết việc làm cho lượng lớn người lao động ở nông thôn.
85 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1540 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thu hút và sử dụng vốn ODA cho nông nghiệp và phát triển nông thôn ở Việt Nam đến 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Việt Nam là một nước có gần 70% dân số sống ở nông thôn và sinh sống bằng nông nghiệp, hoạt động sản xuất nông nghiệp ở nước ta chủ yếu vẫn là sản xuất truyền thống, ít sử dụng máy móc và công nghệ mới. Hiện nay nước ta đang tiến hành công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước nhưng nông nghiệp vẫn là ngành có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế cũng như giải quyết việc làm cho lượng lớn người lao động ở nông thôn. Do đó, đầu tư vào nông nghiệp và phát triển nông thôn là rất cần thiết, việc đầu tư này không chỉ tác động tới ngành nông nghiệp mà còn có tác động lan toả tới các ngành nghề khác trong xã hội. Trong thời gian qua các nguồn vốn dành cho nông nghiệp và phát triển nông thôn đã mang lại những lợi ích to lớn, trong đó phải kể đến nguồn vốn ODA. Các chương trình, dự án ODA đã đem lại hiệu quả to lớn về mặt kinh tế - xã hội cho nhiều vùng đặc biệt đối với vùng sâu, vùng xa (như dự án cung cấp nước sạch, xoá đói giảm nghèo, cung cấp năng lượng,…). Tuy nhiên quản lý và sử dụng ODA trong thời gian qua còn nhiều bất cập cần phải giải quyết. Việc quản lý và sử dụng ODA hiệu quả nguồn vốn này là rất cần thiết để chúng ta tiếp tục nhận được sự ủng hộ của các nhà tài trợ để phát triển nông nghiệp, nông thôn cũng như phát triển kinh tế- xã hội của đất nước.
Chính vì vậy, em đã chọn đề tài “ Thu hút và sử dụng vốn ODA cho nông nghiệp và phát triển nông thôn ở Việt Nam đến 2010”. Em xin chân thành cảm ơn T.S Từ Quang Phương và chị Nguyễn Thanh An- Chuyên viên Vụ kinh tế đối ngoại - Bộ Kế hoạch & Đầu tư đã tạo điều kiện và giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. Do khả năng còn hạn chế nên chuyên đề không tránh khỏi thiếu, kính mong các thầy cô góp ý và bổ sung.
Những nội dung cụ thể liên quan đến vấn đề thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA cho nông nghiệp và phát triển nông thôn sẽ được trình bày và phân tích qua hai phần sau:
Chương 1: Thực trạng thu hút và sử dụng ODA trong nông nghiệp và phát triển nông thôn ở Việt Nam
Chương 2: Giải pháp nhằm tăng cường thu hút và sử dụng vốn ODA cho nông nghiệp và phát triển nông thôn
Chương 1: Thực trạng thu hút và sử dụng ODA trong nông nghiệp và phát triển nông thôn ở Việt Nam
1.1. Thực trạng thu hút và sử dụng ODA tại Việt Nam
1.1.1. Tình hình thu hút và giải ngân ODA tại Việt Nam
Thứ nhất, tình hình huy động vốn ODA:
Sau khi nối lại quan hệ với cộng đồng tài trợ quốc tế (tháng 11/1993), Việt Nam đã liên tục nhận được những cam kết tài trợ ODA của các nhà tài trợ. Hiện nay có 51 nhà tài trợ ODA cho Việt Nam, trong đó có 28 nhà tài trợ song phương và 23 nhà tài trợ đa phương hoạt động tài trợ ở hầu hết các lĩnh vực ưu tiên phát triển của Việt Nam. Mặc dù, mỗi nhà tài trợ đều có hiến chương và chính sách ODA toàn cầu riêng, quy trình và thủ tục cũng có sự khác biệt, song nhìn chung các nhà tài trợ đều căn cứ vào Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2001-2010, Kế hoạch 5 năm 2001-2005, các quy hoạch và kế hoạch phát triển của các ngành và địa phương, các chương trình quốc gia, nhất là Chiến lược tăng trưởng toàn diện và xoá đói giảm nghèo (CPRGS)… để hỗ trợ quá trình phát triển của Việt Nam.
Ngoài ra, hơn 600 tổ chức phi chính phủ nước ngoài (NGO) hiện đang hoạt động ở hầu hết các địa phương trên cả nước và trong nhiều lĩnh vực bao gồm cả viện trợ nhân đạo lẫn viện trợ phát triển với trị giá viện trợ khoảng 100 triệu USD/1 năm.
Theo số liệu thống kê, từ năm 1993 đến 2005, số vốn ODA các nhà tài trợ cam kết cho Việt Nam là 33263.8 triệu USD, trong đó số vốn đã giải ngân là 15857 triệu USD.
Bảng 1.1: ODA cam kết và giải ngân giai đoạn 1993-2005
Đơn vị: Triệu USD
Năm
ODA
cam kết
Tốc độ tăng liên hoàn của cam kết (%)
ODA
giải ngân
Tốc độ tăng liên hoàn của giải ngân (%)
1993
1860.8
-
413
-
1994
1958.7
5.26
725
75.54
1995
2311.4
18
737
1.66
1996
2430.9
5.17
900
22.12
1997
2377
-2.217
1000
11.11
1998
2186
-8.035
1242
24.2
1999
2839
29.872
1350
8.7
2000
2400
-15.463
1650
22.22
2001
2356
-1.833
1500
-9.09
2002
2461
4.457
1528
1.87
2003
2839
15.36
1442
-5.63
2004
3441
21.205
1650
14.42
2005
3803
10.52
1720
4.242
Nguồn: Bộ Kế hoạch & Đầu tư
Qua bảng số liệu trên, ta thấy vốn ODA tăng qua các năm nhưng không đều, trung bình mỗi năm lượng vốn ODA các nhà tài trợ cam kết dành cho Việt Nam đạt gần 2.4 tỷ USD, đây là mức cam kết khá cao so với các nước đang phát triển khác. Trong 2 năm đầu, khi vừa nối lại quan hệ với cộng đồng tài trợ quốc tế, lượng ODA cam kết mới chỉ đạt 1860.8 triệu USD (năm 1993) và 2839 triệu USD (năm 1994), nhưng đến năm 1999 đã tăng gần 1.5 lần đạt 2839 triệu USD. Riêng giai đoạn 1997-2000 lượng vốn có sự sụt giảm nhẹ, điều này là do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997. Giai đoạn 2001 -2005, lượng vốn ODA qua các năm liên tục tăng và tăng khá đều, tốc độ tăng cũng khá ổn định và tổng vốn ODA cam kết trong giai đoạn này là 14.9 tỷ USD. Trong 7 tháng đầu năm 2006, tổng vốn ODA thông qua các hiệp định kí kết với các nhà tài trợ đạt tổng giá trị 1.599 tỷ USD, trong đó vốn vay đạt 1.466 tỷ USD và vốn viện trợ khoảng 0.133 tỷ USD.
Những kết quả trên là do Việt Nam đã tạo được sự tin tưởng ở các nhà tài trợ thông qua các chỉ tiêu phát triển kinh tế-xã hội, nhịp độ tăng trưởng kinh tế ổn định trong thời gian dài, tình hình chính trị-xã hội ổn định; đặc biệt là sự thành công của các chương trình xóa đói giảm nghèo.
Thứ hai, tình hình giải ngân vốn ODA
Trong 12 năm qua, cùng với sự gia tăng mức cam kết, mức giải ngân cũng tăng.
Biểu đồ 1.1: Mức ODA giải ngân giai đoạn 1993-2005
Đơn vị: triệu USD
Nguồn: Bộ Kế hoạch & Đầu tư
Ta thấy mức giải ngân qua các năm tăng dần, trung bình đạt 1.2 tỷ USD/ năm. Trong giai đoạn 1993-2000, mức giải ngân tăng liên tục, năm 2000 đạt 1650 triệu USD. Năm 2001, 2002, 2003 mức giải ngân có giảm so với năm 2000 nhưng vẫn cao hơn so với giai đoạn 1993-1999; đó là do một số dự án đang đi vào giai đoạn cuối nên tiến độ giải ngân nhanh hơn, ngoài ra có một số dự án đưa vào danh mục được thực hiện. Tuy nhiên mức giải ngân chỉ bằng 91% so với kế hoạch đề ra năm 2001, 85% kế hoạch năm 2002, 95% kế hoạch năm 2003.
Thực tế, ta thấy mức giải ngân tuy có tăng qua các năm nhưng rất thấp so với mức cam kết. Khoảng cách giữa hai mức này cho thấy năng lực xây dựng và quản lý các chương trình, dự án còn nhiều bất cập. Trong giai đoạn 1993-1999 là giai đoạn mở đầu của thời kì đổi mới, do hạn chế về khả năng xây dựng và quản lý các chương trình, dự án mà mức giải ngân ODA còn thấp, trung bình 33%. Trong thời gian gần đây, mức giải ngân đã cao hơn, trung bình 68%. Nguyên nhân của tình trạng này là do:
- Đặc điểm của việc sử dụng nguồn vốn ODA, ODA là nguồn vốn đầu tư phát triển, tức là cần có thời gian cần thiết từ khi cam kết cho tới khi xây dựng, phê duyệt, thực hiện dự án. Khi dự án được thực hiện mới có thể xem xét việc chi tiêu trên thực tế và tiến hành giải ngân.
- Các mô hình cung cấp ODA, các quy trình thủ tục ODA của các nhà tài trợ không giống nhau. Do đó, Chính Phủ cũng như các nhà tài trợ cần có thời gian để hài hoà các quy trình thủ tục, yêu cầu của cả hai phía.
- Quản lý nguồn vốn ODA ngay từ khi tiếp nhận đến khi thực hiện còn nhiều bất cập không chỉ ở địa phương mà ngay từ Trung ương. Tình trạng tham nhũng nguồn vốn này còn xảy ra ở nhiều nơi một phần do việc không chấp hành các văn bản pháp lý về nguồn vốn ODA, một phần do có những suy nghĩ cho rằng đây là nguồn vốn của Nhà nước.
1.1.2. Thực trạng sử dụng ODA tại Việt Nam
1.1.2.1. Cơ cấu sử dụng ODA theo ngành, lĩnh vực
Trong giai đoạn 1993-2005, nguồn vốn ODA được sử dụng tập trung vào khôi phục và phát triển cơ sở hạ tầng xã hội.
Bảng 1.2: Cơ cấu ODA theo ngành, lĩnh vực giai đoạn 1993-2005
Đơn vị: Triệu USD
Ngành, lĩnh vực
Hiệp định ODA kí kết 2001-2005
Giải ngân ODA
2001-2005
Tổng
Tỷ lệ %
Tổng
Tỷ lệ %
1. Nông nghiệp và phát triển nông thôn kết hợp xoá đói, giảm nghèo
1818
16
1641
21
2. Năng lượng và công nghiệp
1802
16
1375
17
3. Giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, cấp, thoát nước và phát triển đô thị, trong đó:
- Giao thông vận tải, bưu chính viễn thông
- Cấp, thoát nước và phát triển đô thị
3801
2753
1048
34
25
9
2559
2040
519
32
25
7
4. Y tế, giáo dục đào tạo, môi trường, khoa học kĩ thuật, ngành khác:
- Y tế, Giáo dục đào tạo
- Môi trường, khoa học kĩ thuật
- Các ngành khác
3785
1171
351
2263
34
11
3
20
2332
554
361
1417
30
7
5
18
Tổng
11206
100
7907
100
Nguồn: Bộ Kế hoạch & Đầu tư
Trong cơ sở hạ tầng, ngành Giao thông vận tải – Bưu chính viễn thông được ưu tiên cao nhất với số vốn ODA 2753 triệu USD, trong đó chủ yếu là vốn vày ưu đãi, vốn ODA không hoàn lại chỉ chiếm gần 5%. Nhờ nguồn vốn ODA, nhiều công trình giao thông đã được cải tạo và xây dựng mới góp phần quan trọng cho tăng trưởng kinh tế và xoá đói giảm nghèo như hệ thống đường bộ 1A, 3, 18, 9, đường xuyên Á, cảng nước sâu Cái Lân, cải tạo và nâng cấp cảng Hải Phòng, cảng Tiên Sa (Đà Nẵng), cảng Sài Gòn, nhà ga quốc tế sân bay Tân Sơn Nhất, các cầu Mỹ Thuận, Cần Thơ, Thanh Trì,… Trong lĩnh vực bưu chính viễn thông nguồn vốn ODA tập trung vào các dự án tăng cường cơ sở vật chất kĩ thuật như dự án cung cấp cáp quang ven biển, dự án đưa điện thoại tới các nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Trong khi đó, lĩnh vực cấp thoát nước và phát triển đô thị số vốn ODA là 1048 triệu USD. ODA đã được sử dụng để xây dựng hệ thống cấp nước sinh hoạt, thoát nước và xử lý rác thải ở hầu hết các thành phố lớn và ở nhiều thị xã, góp phần cải thiện môi trường hiện đang là nhu cầu bức bách hiện nay của các đô thị và khu dân cư tập trung.
Trong giai đoạn 1993-2005, ngành công nghiệp – năng lượng được đầu tư 1802 triệu USD vốn ODA để cải tạo, nâng cấp và phát triển mới khoảng hơn 3400MW công suất (nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ 1 công suất 475MW, Phú Mỹ 2 công suất 288MW, nhà máy nhiệt điện Phả Lại II công suất 600MW, nhà máy thuỷ điện Đại Ninh công suất 360MW,…). Bên cạnh đó nguồn vốn ODA còn được sử dụng để cải tạo và phát triển lưới điện quốc gia, mạng phân phối truyền tải điện cho các thành phố, khu công nghiệp lớn, đáp ứng nhu cầu phụ tải, xây dựng các trạm biến áp, đường dây tải điện 500KV và thực hiện các chương trình điện khí hoá nông thôn.
Ngành nông nghiệp, phát triển nông thôn và xoá đói giảm nghèo được đầu tư 1818 triệu USD, trong đó khoảng hơn 26% vốn không hoàn lại. Nguồn vốn này được sử dụng cho phát triển nông nghiệp (39%), phát triển lâm nghiệp (33%), xây dựng thuỷ lợi (18%), phát triển nông nghiệp tổng hợp (10%). Thông qua các dự án ODA, cơ sở hạ tầng nông thôn đã được cải thiện đáng kể về thuỷ lợi, lưới điện nông thôn, trường học, trạm y tế, giao thông nông thôn, cấp nước sinh hoạt, tín dụng nông thôn quy mô nhỏ…; góp phần phát triển nông thôn tổng hợp, xoá đói giảm nghèo.
Về cơ sở hạ tầng xã hội, ODA được ưu tiên sử dụng hỗ trợ phát triển giáo dục, y tế, xã hội với tổng số vốn là 1171 triệu USD. Trong lĩnh vực giáo dục, nguồn vốn ODA đã được sử dụng để tăng cường cơ sở vật chất, kĩ thuật công tác dạy và học của tất cả các cấp học (dự án giáo dục tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, giáo dục đại học, dạy nghề,…), đào tạo giáo viên, tăng cường năng lực công tác kế hoạch và quản lý giáo dục, gửi sinh viên ra nước ngoài đào tạo đại học và sau đại học, cử cán bộ, viên chức ra nước ngoài học tập về các lĩnh vực kinh tế, khoa học, công nghệ và quản lý. Trong lĩnh vực y tế, vốn ODA không hoàn lại chiếm tỷ trọng cao, 62% trong tổng vốn ODA dành cho y tế. Nguồn vốn ODA được sử dụng để tăng cường cơ sở vật chất, kĩ thuật cho công tác khám chữa bệnh (xây dựng và tăng cường trang thiết bị y tế cho một số bệnh viện tuyến tỉnh và thành phố, các bệnh viện huyện và trạm y tế xã), xây dựng cơ sở sản xuất thuốc kháng sinh, trung tâm truyền máu quốc gia, tăng cường công tác dân số và sức khoẻ sinh sản, phòng chống HIV- AIDS và các bệnh truyền nhiễm như lao, sốt rét,..; đào tạo cán bộ y tế; hỗ trợ xây dựng chính sách và nâng cao năng lực cán bộ quản lý.
Bên cạnh đó, ODA đã góp phần đáng kể để tiếp nhận khoa học công nghệ hiện đại và kinh nghiệm quản lý tiên tiến và tăng cường nguồn lực con người, phát triển thể chế. Ngoài các dự án đầu tư bằng nguồn vốn ODA trực tiếp tạo cơ sở vật chất, kĩ thuật cho công tác nghiên cứu khoa học, công nghệ (các phòng thí nghiệm ở các trường đại học, các viện nghiên cứu khoa học, xây dựng trạm viễn thám,…), thông qua các dự án ODA các công nghệ mới, kĩ năng và kinh nghiệm quản lý đã được chuyển giao (công nghệ làm đường, làm cầu, bảo vệ môi trường,...).
1.1.2.2. Cơ cấu sử dụng ODA theo vùng
Phân theo nhóm vùng thì Bắc Trung Bộ, duyên hải miền Trung và vùng kinh tế trọng điểm miền Trung chiếm tỷ trọng lớn nhất là 31.22% vốn ODA; đứng thứ hai là Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam chiếm 30.86%. Trong khi đó vùng đồng bằng sông Cửu Long chiếm 7.45%, thấp nhất là Tây Nguyên chỉ chiếm 3.7%.
Bảng 1.3: Cơ cấu vốn ODA kí theo vùng do địa phương trực tiếp thụ hưởng thời kỳ 2001-2005
Đơn vị: triệu USD
Vùng
ODA đã ký
Tỷ trọng
Trung du miền núi Bắc Bộ
358.57
13.97%
Đồng bằng sông Hồng và vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ
328.47
12.8%
Bắc Trung Bộ, duyên hải miền Trung và vùng kinh tế trọng điểm miền Trung
800.96
31.22%
Tây Nguyên
95.04
3.7%
Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
791.87
30.86%
Đồng bằng sông Cửu Long
191.01
7.45%
Tổng
2565.92
100%
Nguồn: Bộ Kế hoạch & Đầu tư
Vùng trung du miền núi Bắc Bộ: đứng thứ ba về số vốn ODA kí kết chiếm tỷ lệ 13.97%, nguồn vốn này tập trung thực hiện các chương trình và dự án trong các lĩnh vực như phát triển lâm nghiệp bền vững; tiếp cận các dịch vụ cơ sở hạ tầng bao gồm điện, thủy lợi, nước sạch và giao thông nông thôn; phát triển dân tộc thiểu số; xây dựng các trường dân tộc nội trú và tăng cường trang thiết bị cho các trường học; tăng cường trang thiết bị cho bệnh viện tuyến tỉnh và hình thành các trung tâm y tế; phát triển cơ sở hạ tầng; tăng cường năng lực quản lý hành chính các cấp.
Vùng đồng bằng sông Hồng và khu vực kinh tế trọng điểm phía Bắc: đứng thứ tư về vốn ODA kí kết với 12.8%, do đây là vùng kinh tế phát triển, mức sống tương đối cao và tỷ lệ hộ nghèo thấp. Nguồn vốn này tập trung để hỗ trợ thực hiện trong các lĩnh vực như cơ sở hạ tầng, hỗ trợ đa dạng hóa thu nhập cho các hộ nông dân; tăng cường trang thiết bị cho hệ thống bệnh viện tuyến tỉnh, thành phố; phòng, chống ô nhiễm môi trường.
Vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung: là vùng mà các tỉnh đều giáp biển, điều kiện tự nhiên khó khăn cho sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn. Số vốn ODA cho vùng này là lớn nhất 800.96 triệu USD chiếm 31.22%. ODA tập trung thực hiện các chương trình, dự án trong các lĩnh vực như quản lý bền vững tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên rừng; các hệ thống thủy lợi; giảm thiểu thảm hoạ thiên tai; giao thông nông thôn; hỗ trợ ngư dân ven biển và đồng bào thiểu số; phát triển cơ sở hạ tầng để thúc đẩy thương mại với các vùng khác trong nước và quốc tế; phát triển hệ thống y tế; tăng cường năng lực quản lý hành chính các cấp.
Vùng Tây Nguyên: đây là vùng có mật độ dân thưa, kinh tế còn nhiều khó khăn, tuy nhiên vốn ODA cho vùng này chỉ có 95.04 triệu USD chiếm 3.7%. ODA chủ yếu tập trung cho các lĩnh vực như trồng rừng và bảo vệ các vườn quốc gia; xây dựng các công trình thủy lợi; phòng chống thiên tai, dịch bệnh; nâng cấp các quốc lộ nối các tỉnh duyên hải miền Trung, cải thiện khả năng tiếp cận các cơ sở hạ tầng nông thôn.
Vùng đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam: đứng thứ hai về ODA với 791.87 triệu USD chiếm 30.86%. Sở dĩ nguồn vốn ODA cho vùng này lớn là do các dự án chủ yếu thực hiện trong các lĩnh vực như hỗ trợ về khoa học, công nghệ để phát triển nông nghiệp; đặc biệt là xây dựng hệ thống giao thông bao gồm các đường vành đai quanh thành phố Hồ Chí Minh, hiện đại hoá hệ thống đường sắt và đường thủy, xây dựng cảng hàng không quốc tế mới và hệ thống giao thông công cộng ở thành phố Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó ODA còn ưu tiên cho hoàn thiện và xây dựng hệ thống cấp và thoát nước nhằm cải thiện môi trường đô thị; tăng cường trang thiết bị y tế cho các bệnh viện tỉnh.
Vùng đồng bằng sông Cửu Long: ODA sử dụng cho các lĩnh vực như quản lý bền vững tài nguyên thiên nhiên; các hệ thống thủy lợi; giao thông nông thôn; phát triển giao thông đường thủy; khôi phục tuyến đường sắt thành phố Hồ Chí Minh đi Mỹ Tho; phát triển cơ sở hạ tầng thành phố Cần Thơ; phát triển cơ sở hạ tầng môi trường; đầu tư vào phát triển nông thôn tổng hợp; cải thiện các dịch vụ y tế, giáo dục; tăng cường năng lực quản lý hành chính các cấp.
1.1.2.3. Cơ cấu sử dụng ODA theo nhà tài trợ
Hiện nay ở Việt Nam có 51 nhà tài trợ song phương và đa phương, trong đó có 28 nhà tài trợ song phương và 23 nhà tài trợ đa phương hoạt động tài trợ ở hầu hết các lĩnh vực ưu tiên của Việt Nam. Trong đó Nhật Bản là đối tác lớn nhất, riêng vốn ODA của Nhật Bản chiếm tới 42.31% tổng ODA của Việt Nam, tiếp đến là ngân hàng thế giới (WB) với 26.61% và ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) với 14.49%. Xét riêng các nhà tài trợ song phương thì Nhật Bản đứng đầu với 77.18%, tiếp theo là Pháp (6.17%), Đức (3.6%). Xét các nhà tài trợ đa phương thì WB và ADB là hai đối tác lớn nhất, trong giai đoạn 1993-2005 thì vốn ODA của WB cho Việt Nam đạt 5329.82 triệu USD, ADB là 2900.97 triệu USD.
Bảng 1.4: 10 nhà tài trợ chính của Việt Nam (1993-2005)
Đơn vị: Triệu USD
Nhà tài trợ
Tổng giá trị ODA
Tỷ trọng
EU
269.83
1.35%
Autralia
282.32
1.4%
Trung Quốc
301.08
1.5%
Thuỵ Điển
412.83
2.06%
Đan Mạch
549.48
2.74%
Đức
597.35
2.98%
Pháp
912.26
4.56%
ADB
2900.97
14.49%
WB
5329.82
26.61%
Nhật Bản
8469.73
42.31%
Nguồn: Bộ Kế hoạch & Đầu tư
Nhật Bản là đối tác lớn nhất của Việt Nam, trong đó Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản (JBIC) chiếm 36% tổng dự án tương đương 83% tổng vốn giải ngân (7029.87 triệu USD). Trong số các dự án của Nhật Bản 47% là cho cơ sở hạ tầng với 6688.11 triệu USD hay 78.96% tổng ODA của Nhật Bản cho Việt Nam.
WB là nhà tài trợ lớn thứ hai với các dự án sử dụng vốn ODA tập trung chủ yếu cho hỗ trợ chính sách (chiếm 58% tổng số vốn giải ngân và 60% tổng vốn vay). Tiếp theo là phát triển cơ sở hạ tầng với 30% tổng vốn giải ngân, 24% tổng vốn vay.
ADB là nhà tài trợ lớn thứ ba, chiếm 14.49% tổng vốn ODA. Các dự án của ADB tập trung nhiều nhất vào đầu tư cho cơ sở hạ tầng 1276.42 triệu USD với 44% tổng vốn giải ngân và 22% tổng số dự án; tiếp theo là phát triển nông thôn với 26% tổng vốn giải ngân, 20% tổng dự án; thứ ba là hỗ trợ chính sách với 24% tổng vốn giải ngân.
1.2. Thực trạng thu hút và sử dụng ODA cho nông nghiệp và phát triển nông thôn ở Việt Nam
1.2.1. Thu hút ODA cho NN&PTNT ở Việt Nam
Việt Nam với hơn 70% dân số sống ở nông thôn và một lượng lớn lao động tham gia sản xuất nông nghiệp, do đó nông nghiệp rất cần những nguồn vốn để phát triển. Tuy nhiên nguồn vốn ODA dành cho nông nghiệp và phát triển nông thôn lại thấp so với các ngành khác của cả nước.
Bảng 1.5: ODA cam kết chung theo lĩnh vực giai đoạn 1993-2005
Đơn vị: triệu USD
Ngành, lĩnh vực
ODA cam kết
% ODA
1. Nông nghiệp và phát triển nông thôn kết hợp xoá đói giảm nghèo
2575
16.2
2. Năng lượng và công nghiệp
2559.1
16.1
3. Giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, cấp, thoát nước và phát triển đô thị
5388.43
33.9
4. Y tế, giáo dục đào tạo, môi trường, khoa học kĩ thuật và ngành khác.
5372.53
33.8
Tổng
15895.1
100
Nguồn: BộKế hoạch & Đầu tư
Trong giai đoạn 1993-2005, số vốn ODA dành cho nông nghiệp và phát triển nông thôn là 2575 triệu USD, chỉ lớn hơn so với số vốn dành cho ngành năng lượng và công nghiệp, nhưng lớn hơn không đáng kể 15.9 triệu USD. Trong khi đó số vốn ODA dành cho ngành giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, cấp, thoát nước và phát triển đô thị là lớn nhất chiếm 33.9% tổng vốn ODA của cả nước. Vốn ODA cho ngành này thường tập trung cho các dự án lớn như đường xuyên Á, quốc lộ 1A, cầu Mỹ Thuận, cảng Cái Lân,… So với ngành này thì các dự án trong nông nghiệp và phát triển nông thôn có quy mô vốn nhỏ, c