Trong điều kiện hiện nay, hoạt động giao tiếp quốc gia trên thế giới trong lĩnh vực kinh tế thương mại ngày càng phát triển mở rộng, mang tính khu vực hóa và toàn cầu hóa một cách mạnh mẽ, đặc biệt là sự hình thành, tồn tại và phát triển và phát triển các liên minh kinh tế thương mại khu vực và của các công ty xuyên quốc gia, trong các thập kỷ qua đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong lịch sử phát triển của quan hệ kinh tế-thương mại quốc tế. Tình hình này làm cho các quốc gia không chỉ bó hẹp hoạt động kinh tế-thương mại trong phạm vi quốc gia mà phải tham gia vào các hoạt động kinh tế-thương mại trong khu vực hoặc toàn cầu nhằm tận dụng lợi thế so sánh của nhau. Trong bối cảnh đó, doanh nghiệp trong nước phải có những chuẩn bị một nền tảng vững chắc cho mình khi đi vào con đường hội nhập. Doanh nghiệp vấp phải sự cạnh tranh nghiệt ngã của thị trường về chất lượng, giá cả và mẫu mã sản phẩm. Do vậy, vấn đề đặt ra là một doanh nghiệp sản xuất hay kinh doanh hàng xuất nhập khẩu muốn hoạt động có hiệu quả phải có tiềm lực về đội ngũ cán bộ nhân viên đủ khả năng và trình độ, có thế mạnh về tài chính và tạo lập được uy tín trên thương trường, lập chiến lược kinh doanh hợp lý và tối ưu nhất
Nhập khẩu từ lâu đã được thừa nhận là một mặt hoạt động cơ bản của kinh tế đối ngoại, là một phương tiện quan trọng để phát triển kinh tế. Nó cho phép khai thác các tiềm năng thế mạnh của đất nước trên thế giới, bổ sung cho các sản phẩm trong nước chưa sản xuất hoặc sản xuất chưa đáp ứng đủ nhu cầu. Bên cạnh đó, nhập khẩu còn có tác dụng thúc đẩy quá trình sản xuất trong nước ngày càng phát triển.
Việc nghiên cứu và tìm hiểu hoạt động nhập khẩu cụ thể của từng doanh nghiệp là điều hết sức cần thiết. Với lý do trên tôi đã chọn đề tài: ”Thúc đẩy hoạt động nhập khẩu của công ty cổ phần xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội GELEXIMCO”. Nội dung của đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận về hoạt động nhập khẩu trong cơ chế thị trường.
Chương II: Phân tích hoạt động nhập khẩu của công ty cổ phần xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội GELEXIMCO.
Chương III: Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động nhập khẩu tại công ty cổ phần xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội GELEXIMCO.
Tôi xin chân thành cảm ơn Thầy giáo PGS.TS Hoàng Minh Đường trực tiếp hướng dẫn, các anh chị cán bộ trong công ty GELEXIMCO đã tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài thực tập.
71 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1281 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thúc đẩy hoạt động nhập khẩu của công ty cổ phần xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội GELEXIMCO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Trong điều kiện hiện nay, hoạt động giao tiếp quốc gia trên thế giới trong lĩnh vực kinh tế thương mại ngày càng phát triển mở rộng, mang tính khu vực hóa và toàn cầu hóa một cách mạnh mẽ, đặc biệt là sự hình thành, tồn tại và phát triển và phát triển các liên minh kinh tế thương mại khu vực và của các công ty xuyên quốc gia, trong các thập kỷ qua đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong lịch sử phát triển của quan hệ kinh tế-thương mại quốc tế. Tình hình này làm cho các quốc gia không chỉ bó hẹp hoạt động kinh tế-thương mại trong phạm vi quốc gia mà phải tham gia vào các hoạt động kinh tế-thương mại trong khu vực hoặc toàn cầu nhằm tận dụng lợi thế so sánh của nhau. Trong bối cảnh đó, doanh nghiệp trong nước phải có những chuẩn bị một nền tảng vững chắc cho mình khi đi vào con đường hội nhập. Doanh nghiệp vấp phải sự cạnh tranh nghiệt ngã của thị trường về chất lượng, giá cả và mẫu mã sản phẩm. Do vậy, vấn đề đặt ra là một doanh nghiệp sản xuất hay kinh doanh hàng xuất nhập khẩu muốn hoạt động có hiệu quả phải có tiềm lực về đội ngũ cán bộ nhân viên đủ khả năng và trình độ, có thế mạnh về tài chính và tạo lập được uy tín trên thương trường, lập chiến lược kinh doanh hợp lý và tối ưu nhất…
Nhập khẩu từ lâu đã được thừa nhận là một mặt hoạt động cơ bản của kinh tế đối ngoại, là một phương tiện quan trọng để phát triển kinh tế. Nó cho phép khai thác các tiềm năng thế mạnh của đất nước trên thế giới, bổ sung cho các sản phẩm trong nước chưa sản xuất hoặc sản xuất chưa đáp ứng đủ nhu cầu. Bên cạnh đó, nhập khẩu còn có tác dụng thúc đẩy quá trình sản xuất trong nước ngày càng phát triển.
Việc nghiên cứu và tìm hiểu hoạt động nhập khẩu cụ thể của từng doanh nghiệp là điều hết sức cần thiết. Với lý do trên tôi đã chọn đề tài: ”Thúc đẩy hoạt động nhập khẩu của công ty cổ phần xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội GELEXIMCO”. Nội dung của đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận về hoạt động nhập khẩu trong cơ chế thị trường.
Chương II: Phân tích hoạt động nhập khẩu của công ty cổ phần xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội GELEXIMCO.
Chương III: Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động nhập khẩu tại công ty cổ phần xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội GELEXIMCO.
Tôi xin chân thành cảm ơn Thầy giáo PGS.TS Hoàng Minh Đường trực tiếp hướng dẫn, các anh chị cán bộ trong công ty GELEXIMCO đã tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài thực tập.
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG KINH NHẬP KHẨU TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG
I. Sự cần thiết và vai trò của hoạt động nhập khẩu trong nền kinh tế quốc dân.
1. Sự cần thiết của hoạt động nhập khẩu.
Thực tiễn hoạt động buôn bán giữa các nước trên thế giới hiện nay đã cho thấy rõ xu hướng tự do hóa thương mại và vai trò của thương mại quốc tế đối với tăng trưởng kinh tế của các nước. Thương mại quốc tế đã trở thành một lĩnh vực quan trọng tạo điều kiện cho các nước tham gia vào phân công lao động quốc tế, phát triển kinh tế và làm giàu cho đất nước.
Thương mại quốc tế ngày nay đã không chỉ mang ý nghĩa đơn thuần là buôn bán mà thể hiện sự phụ thuộc tất yếu của các quốc gia vào phân công lao động quốc tế. Vì vậy, thương mại quốc tế được coi như là một tiền đề, một nhân tố để phát triển kinh tế trong nước trên cơ sở lựa chọn một cách tố ưu sự phân công lao động và chuyên môn hóa quốc tế.
Thương mại quốc tế là quá trình trao đổi hàng hóa, dịch vụ giữa các nước thông qua buôn bán nhằm mục đích kinh tế và lợi nhuận. Trao đổi hàng hóa, dịch vụ là một hình thức của các mối quan hệ kinh tế xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ riêng biệt của các quốc gia.
Thương mại quốc tế vừa được coi là một quá trình phát triển kinh tế là vừa được coi là một ngành kinh tế. Với tư cách là một quá trình phát triển kinh tế, thương mại quốc tế được hiểu là một quá trình bắt đầu từ khâu điều tra nghiên cứu thị trường đến khâu sản xuất-kinh doanh, phân phối lưu thông-tiêu dùng và cuối cùng lại tiếp tục tái diễn với quy mô và tốc độ lớn hơn. Còn với tư cách là một ngành kinh tế thì thương mại quốc tế là một lĩnh vực chuyên môn hóa, có tổ chức, có phân công và hợp tác, có cơ sở vật chất kỹ thuật, lao động, vốn, vật tư, hàng hóa … là một hoạt động chuyên mua bán, trao đổi hàng hóa, dịch vụ với nước ngoài nhằm mục đích kinh tế.
Không thể phủ nhận vai trò cần thiết của thương mại quốc tế đối với sự phát triển kinh tế của các nước hiện nay. Có thể nói rằng thương mại quốc tế có ý nghĩa sống còn đối với các nước tham gia vì nó cho phép các quốc gia tiêu dùng các mặt hàng với số lượng nhiều hơn và chủng loại phong phú hơn mức có thể tiêu dùng với ranh giới của đường giới hạn khả năng sản xuất trong điều kiện đóng của nền kinh tế của nước đó. Hay nói cách khác là thương mại quốc tế giúp mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước. Bên cạnh đó, nó cũng cho phép các quốc gia thay đổi cơ cấu các ngành nghề kinh tế, cơ cấu vật chất của sản phẩm theo hướng phù hợp với đặc điểm sản xuất của mình hơn.
Vì vậy, không ngừng đẩy mạnh trao đổi hàng hoá, tăng cường các hoạt động thương mại quốc tế mà nhập khẩu là một bộ phận, một nhu cầu không thể thiếu được của đời sống kinh tế và là một tất yếu khách quan của thời đại dù đó là nước lớn hay nhỏ, nước công nghiệp phát triển hay kém phát triển, nước tư bản chủ nghĩa hay nước xã hội chủ nghĩa.
Từ sau đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam toàn quốc lần thứ VI, chính sách mở cửa nền kinh tế đã đưa Việt Nam đi vào con đường cải cách triệt để, thoát khỏi cơ chế kế hoạch hoá tập trung cứng nhắc. Với nhận thức về một đất nước có tiềm năng to lớn về lao động và tài nguyên chỉ thông qua con đường phát triển thương mại quốc tế, Việt Nam mới có thể phát huy được lợi thế so sánh của mình, góp phần nhanh chóng thực hiện được quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
2. Khái niệm và vai trò kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp:
Xuất nhập khẩu nói chung, nhập khẩu nói riêng là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế. Nó không phải là những hành vi buôn bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán trong một nền thương mại có tổ chức cả bên trong và bên ngoài nhằm mục đích đẩy mạnh sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong nước, ổn định và từng bước nâng cao mức sống của nhân dân. Do đó xuất nhập khẩu nói chung, nhập khẩu nói riêng là hoạt động kinh tế đối ngoại quan trọng của ngoại thương, nó tác động một cách trực tiếp đến sản xuất trong nước.
Trong xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa, các doanh nghiệp mở rộng địa bàn ra nước ngoài là một xu thế khách quan không thể đảo ngược. Khi nghiên cứu sự phát triển “tư bản” Các Mác đã định nghĩa thương mại quốc tế(ngoại thương) là sự mở rộng thương mại ra khỏi phạm vị một nước. Thương mại quốc tế đóng vai trò to lớn với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, vì nó mở rộng khả năng tiêu dùng và sản xuất của mỗi nước, gắn quá trình kinh tế trong nước với kinh tế khu vực và thế giới, làm thay đổi cơ cấu kinh tế giúp cho việc sự dụng hiệu quả hơn nguồn lực của mỗi quốc gia, là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế chủ yếu thông qua xuất khẩu và nhập khẩu các hàng hóa, dịch vụ.
Kinh doanh thương mại quốc tế là hình thức mua bán hàng hóa, dịch vụ giữa các cá nhân, tập thể, doanh nghiệp của các quốc gia khác nhau nhằm thu được lợi nhuận.
Nhập khẩu có thể bổ sung các hàng hoá trong nước không thể sản xuất được hoặc sản xuất không đáp ứng nhu cầu hoặc là nhập khẩu để thay thế hàng hoá sản xuất trong nước có chi phí sản xuất cao hơn. Hai mặt nhập khẩu bổ sung và thay thế nếu được thực hiện tốt sẽ tác động tích cực đến sự phát triển cân đối nền kinh tế quốc dân trong đó cân đối trực tiếp ba yếu tố của sản xuất : Công cụ lao động, đối tượng lao động và lao động.
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay vai trò quan trọng của nhập khẩu được thể hiện trên các khía cạnh sau:
- Trước hết, nhập khẩu là cơ hội để bổ sung hàng hoá trong nước không sản xuất được hoặc sản xuất không đáp ứng đủ nhu cầu. Nhập khẩu còn là để thay thế những hàng hoá mà sản xuất không có lợi bằng nhập khẩu. Nhờ nhập khẩu đời sống nhân dân được cải thiện và nâng cao, có điều kiện tiêu dùng nhiều loại hàng hoá phong phú và đa dạng, phù hợp với thị hiếu.
- Nhập khẩu có tác động chuyển dịch cơ cấu kinh tế :
+ Nhập khẩu đòi hỏi sự đồng bộ về kỹ thuật sẽ tạo ra dây chuyền hiện đại, kéo theo sự đổi mới trong đội ngũ cán bộ kỹ thuật quản lý, tạo ra kỷ luật lao động chặt chẽ trong đội ngũ công nhân, gây dựng ý thức lao động hiệu quả góp phần đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước.
+ Nhập khẩu góp phần phát triển các ngành có mối quan hệ bổ sung với ngành hàng được công nghệ hoá nhờ nhập khẩu.
- Nhập khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất quyết tình trạng thiếu nguyên liệu và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Đồng thời thông qua nhập khẩu,các doanh nghiệp trong nước phải không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
- Nhập khẩu có vai trò tích cực đến thúc đẩy xuất khẩu : việc nhập khẩu các máy móc thiết bị với công nghệ tiên tiến và hiện đại sẽ nâng cao chất lượng hàng hoá bảo đảm các tiêu chuẩn quốc tế để xuất khẩu, đồng thời giảm bớt các hao phí tiết kiệm nguyên liệu đầu vào giảm giá thành phẩm và nâng cao sức cạnh tranh trên thương trường
Ngoài ra nhập khẩu còn thể hiện ưu thế trên những mặt sau :
+ Kinh doanh hàng nhập khẩu đặc biệt là các loại vật tư nguyên liệu thúc đẩy cạnh tranh giữa các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cũng như các doanh nghiệp sản xuất trong nước, tạo ra sự kiểm soát theo dõi chặt chẽ lẫn nhau. Nhờ sự cạnh tranh này mà chất lượng hàng hoá trong nước được nâng cao, môi trường cạnh tranh được cải thiện hơn.
+ Nhập khẩu trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần còn dẫn đến việc thành lập các liên doanh liên kết giữa các chủ thể kinh doanh trong và ngoài nước một cách tự giác xuất phát từ lợi ích của cả hai bên, tạo ra sức mạnh cho các chủ thể trong nước một cách thiết thực.
+ Hoạt động nhập khẩu với những khó khăn tồn tại và thành tựu đạt được đã góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý xuất nhập khẩu của Nhà nước cũng như các địa phương thông qua những đòi hỏi hợp lý của các chủ thể tham gia hoạt động nhập khẩu.
Đối với Việt Nam, từ một xuất phát điểm thấp trong công cuộc phát triển nền kinh tế, hoạt động nhập khẩu có máy móc thiết bị công nghệ hiện đại... cùng với kinh nghiệm và kỹ năng quản lý có một vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Đất nước.
II. Nội dung của hoạt động nhập khẩu hàng hoá.
Hoạt động nhập khẩu được tổ chức thực hiện với nhiều nghiệp vụ, nhiều khâu từ điều tra nghiên cứu thị trường nhập khẩu đến nghiên cứu thị trường bán hàng nhập khẩu, lựa chọn hàng hoá nhập khẩu, đối tác, tiến hành giao dịch,đàm phán, kí kết hợp đồng, tổ chức thực hiện hợp đồng cho đến khi hàng hoá đến cảng. Sau đó chuyển giao quyền sở hữu cho người mua và hoàn thành các thủ tục thanh toán. Mỗi khâu nghiệp vụ phải được chọn lọc kỹ lưỡng và có quan hệ lẫn nhau, tranh thủ nắm bắt được lợi thế, bảo đảm cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu đạt hiệu quả cao nhất. Để thực hiện nhập khẩu hàng hóa, các doanh nghiệp thường tiến hành các hoạt động theo trình tự sau:
1. Xác định nhu cầu cụ thể về hàng hóa cần nhập khẩu:
Các doanh nghiệp nhập khẩu hàng hóa là để bán lại cho người tiêu dùng, vì thế trước tiên phải xác định nhu cầu cụ thể về mặt hàng, quy cách chủng loại, số lượng, thời hạn tiêu dùng, giá cả mà người tiêu dùng chập nhận. Sau đó, doanh nghiệp sẽ tổng hợp các nhu cầu của khách hàng, cân đối với lượng hàng hóa tồn kho, để quyết định lượng hàng hóa cần nhập khẩu theo công thức:
Yêu cầu hàng = Nhu cầu hàng hóa + Nhu cầu dự trữ hàng
hóa nhập khẩu của khách hàng - hóa của DNTM
Yêu cầu các mặt hàng cần nhập khẩu sẽ là căn cứ để lý hợp đồng nhập khẩu với nước ngoài.
2. Nghiên cứu thị trường nước ngoài, chọn đối tác kinh doanh:
Một loại hàng hóa nào đó sẽ có nhiều thị trường(các nước) khác nhau cùng sản xuất, mỗi nước lại có nhiều hãng, ở mỗi hạng có thể sản xuất, kinh doanh nhiều loại sản phẩm, mà kết quả kinh doanh lại phụ thuộc vào từng đối tác cụ thể. Bởi vậy, doanh nghiệp phải nắm được không chỉ khái quát về từng thị trường mà còn thông hiểu địa vị pháp lý, sức mạnh tài chính, quan điểm, triết lý kinh doanh và các sản phẩm hàng đầu của hãng để đặt hàng.
3. Tiến hành giao dịch, đàm phán và ký kết hợp đồng nhập khẩu hàng hóa:
Muốn tiết kiệm chi phí đi lại, thăm dò khảo sát thị trường nước ngoài, doanh nghiệp phải lập kế hoạch giao dịch, tìm hình thức và biện pháp đàm phán phù hợp để ký hợp đồng nhập khẩu hàng hóa.
Trình tự giao dịch mua bán hàng hóa, dịch vụ trên thị trường quốc tế .
Người mua: Hỏi giá đặt hàng Hoàn giá Chấp Xác
Người bán: Chào hàng (mặc cả) nhận nhận
Bước xác nhận cần thiết cho những thương vụ đàm phán kéo dài và để phân biệt thỏa thuận cuối cùng với những thỏa thuận trước đó, làm tăng tính chắc chắn.
Hợp đồng có thể được ký thông qua các hình thức đàm phán:
Qua thư từ
Qua điện thoại, điện báo
Gặp gỡ trực tiếp
Do khác nhau về ngôn ngữ, phong tục tập quán và luật pháp giữa các quốc gia nên hoạt động nhập khẩu thường được xác định cụ thể bằng hợp đồng mua bán. Hợp đồng là cơ sở xác định của các bên, làm căn cứ phân xử khi xảy ra tranh chấp, vi phạm hợp đồng. Bởi vậy phải xác định những nội dung cơ bản .
Ngoài những thông tin về hai bên đối tác, các hợp đồng mua bán thường gồm những nội dung cơ bản sau:
Tên hàng
Điều kiện phẩm chất
Điều kiện về số lượng
Điều kiện về bao bì
Điều kiện về giá cả
Thời gian, địa điểm giao hàng, điều kiện giao hàng
Điều kiện thanh toán
Điều kiện khiếu nại và xử phạt hợp đồng
Và những điều kiện khác mà hai bên thỏa thuận với nhau
Hợp đồng này được ký kết là căn cứ quan trọng để tiến hành bước tiếp theo.
4. Thực hiện hợp đồng nhập khẩu bao gồm:
Xin giấy phép nhập khẩu
Mở L/C theo yêu cầu của bên bán
Thuê phương tiện vận chuyển
Mua bảo hiểm hàng hóa
Làm thủ tục hải quan
Giao nhận hàng hóa với tàu
Kiểm tra số lượng. chất lượng hàng nhập khẩu
Giao hàng cho đơn vị nhận hàng trong nước
Làm thủ tục thanh toán
Khiếu nại với người bán, người vận chuyển, người bảo hiểm(nếu có)
5. Đánh giá kết quả hoạt động nhập khẩu và tiếp tục hoạt động buông bán
Các chỉ tiêu thường được dùng để so sánh, đánh giá hoạt động là:
Số lượng thực hiện nhập khẩu so với đơn hàng
Chủng loại mặt hàng thực hiện so với kế hoạch
Tiến độ nhập hàng so với hợp đồng đã ký
Doanh số mua và bán hàng hóa
Chi phí kinh doanh
Lợi nhuận đạt được so với kế hoạch và cùng kỳ năm trước
III. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu.
1. Các chế độ chính sách, luật pháp trong nước và quốc tế.
Đây là những yếu tố mà các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu buộc phải nắm rõ, tuân thủ một cách vô điều kiện.Hoạt động nhập khẩu được tiến hành giữa các chủ thể ở các quốc gia khác nhau bởi vậy nó chịu tác động của các chính sách, chế độ, luật pháp ở mỗi quốc gia. Bên cạnh đó, nó cũng phải tuân theo những quy định luật pháp quốc tế chung. Luật pháp quốc tế buộc các nước vì lợi ích chung phải thực hiện đầy đủ trách nhiệm và nghĩa vụ của mình trong hoạt động nhập khẩu. Do đó tạo được sự tin tưởng trong quan hệ thương mại quốc tế.
2. Tỷ giá hối đoái.
Nhân tố này quyết định trong việc xác định mặt hàng, bạn hàng, phương án kinh doanh, quan hệ kinh doanh của không chỉ một doanh nghiệp xuất nhập khẩu mà tới tất cả các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung. Sự biến đổi của nhân tố này sẽ gây ra những biến đổi lớn trong tỷ trọng giữa xuất khẩu và nhập khẩu.
3. Nền sản xuất ,kinh doanh thương mại của các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Sự phát triển sản xuất của những doanh nghiệp sản xuất trong nước tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ với sản phẩm nhập khẩu. Nếu như sản xuất kém phát triển, không sản xuất được những mặt hàng đòi hỏi kỹ thuật cao thì nhu cầu về hàng nhập khẩu tăng lên do đó ảnh hưởng tới hoạt động nhập khẩu.
Ngược lại sự phát triển của nền sản xuất ở nước ngoài làm tăng khả năng của sản phẩm nhập khẩu tạo ra sản phẩm mới thuận tiện, hiện đại, hấp dẫn nhu cầu nhập khẩu sẽ thúc đẩy hoạt động nhập khẩu. Tuy nhiên không phải là lúc nào sản xuất trong nước phát triển thì hoạt động nhập khẩu bị thu hẹp mà nhiều khi để tránh sự độc quyền, tạo ra cạnh tranh, hoạt động nhập khẩu lại được khuyến khích phát triển, tương tự như vậy,để bảo vệ quyền sản xuất trong nước khi nền sản xuất nước ngoài phát triển thì hoạt động nhập khẩu càng bị thu hẹp và kiểm soát gắt gao.
Sự phát triển của hoạt động thương mại trong và ngoài nước, của các doanh nghiệp kinh doanh thương mại quyết định đến sự chu chuyển, lưu thông hàng hoá trong nền kinh tế hay giữa các nền kinh tế bởi vậy tạo thuận lợi cho công tác nhập khẩu. Mặt khác, do chủ thể của hoạt động nhập khẩu chính là các doanh nghiệp thương mại xuất nhập khẩu, sự phát triển của những doanh nghiệp này đồng nghĩa với việc thực hiện một cách có hiệu quả các hoạt động nhập khẩu. Trong một nước mà các doanh nghiệp thương mại không được tự chủ phát triển, bị sự can thiệp quá sâu của Nhà nước thì hoạt động nhập khẩu cũng không thể phát huy được, không thể vươn mạnh ra nước ngoài, tạo ra sự bí bách cho nền kinh tế.
4. Sự biến động thị trường trong nước và ngoài nước
Hoạt động nhập khẩu là cầu nối thông thương giữa hai nước và tạo ra sự gắn bó tác động qua lại giữa hai thị trường, phản ánh sự biến động của mỗi thị trường. Cụ thể là sự tồn đọng hàng hoá, giá cả giảm, nhu cầu về mặt hàng ở thị trường trong nước sẽ làm giảm lượng hàng nhập khẩu. Cũng như vậy, thị trường ngoài nước quyết đính sự thoả mãn các nhu cầu trên thị trường trong nước, sự biến động của nó về khả năng cung cấp, về sản phẩm mới. Sự đa dạng của hàng hoá và dịch vụ được phản ánh qua nhập khẩu để tác
động vào thị trường nội địa.
5. Hệ thống tài chính ngân hàng.
Hiện nay hệ thông tài chính ngân hàng đã phát triển hết sức lớn mạnh, can thiệp tới tất cả các doanh nghiệp trong nền kinh tế dù lớn hay nhỏ, dù ở thành phần kinh tế nào bởi vai trò rất to lớn của nó trong quản lý, cung cấp vốn, đảm trách việc thanh toán một cách thuận tiện, nhanh chóng, chính xác cho các doanh nghiệp. Hoạt động nhập khẩu sẽ không được thực hiện nếu không có sự phát triển của hệ thống ngân hàng, dựa trên các quan hệ, uy tín nghiệp vụ thanh toán. Nên ngân hàng tạo điều kiện thuận tiện cho các doanh nghiệp tham gia hoạt động nhập khẩu, đảm bảo cho họ về mặt lợi ích. Và cũng nhiều trường hợp do có lòng tin với ngân hàng mà các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu có thể được ngân hàng đứng ra bảo lãnh hay cho vay với số lượng vốn lớn, kịp thời tạo kiều kiện cho doanh nghiệp nắm bắt được những cơ hội
6. Các nhân tố thuộc môi trường kinh doanh của doanh nghiệp.
Mỗi doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường đều có một môi trường kinh doanh nhất định, nó tạo ra những tiền đề thuận lợi cho việc kinh doanh đồng thời nó cũng có những tác động xấu đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Hoạt động kinh doanh nhập khẩu là một hoạt động phức tạp với sự chi phối của nhiều yếu tố cũng như với nhiều hình thức, nghiệp vụ đa dạng, vì vậy cần có một đội ngũ cán bộ có năng lực thực sự để tiến hành hoạt động này. Những người làm công tác nhập khẩu phải là những người có chuyên môn được đào tạo bài bản, có kinh nghiệm và sự hiểu biết sâu rộng về các lĩnh vực có liên quan.
Bên cạnh đó là tình hình tài chính của doanh nghiệp. Đây là một trong những nhân tố có ảnh hưởng lớn nhất đến hoạt động nhập khẩu. Một doanh nghiệp có vốn lớn thì sẽ có thể nhập khẩu những lô hàng lớn, những máy móc thiết bị công nghệ hiện đại, điều mà chắc chắn các doanh nghiệp có vốn nhỏ không thực hiện được.
Hiện nay Nhà nước ta đã đa dạng hoá thành phần kinh tế, tự do buôn bán kinh doanh xuất nhập khẩu trong khuôn khổ pháp luật. Một đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu phải cạnh tranh với các đơn vị kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế khác. Chính vì thế luôn có sự cạnh tranh thực sự giữa các doanh nghiệp. Yếu tố này buộc các doanh nghiệp ngoại thương phải linh hoạt nhạy bén để n