Với dân số là 127,46 triệu người và tổng sản phẩm quốc nội (GDP) năm 2006 đạt 5,04 tỷ đôla (tốc độ tăng trưởng năm 2006 là 2,1%), Nhật Bản là quốc gia có nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Nhật Bản có sức mua lớn, nhu cầu nhập khẩu nhiều mặt hàng tiêu dùng của Nhật Bản (trong đó có đồ gỗ) đang ngày càng gia tăng cùng với xu hướng phục hồi nền kinh tế của Nhật Bản hiện nay. Nhu cầu tiêu dùng của Nhật Bản mở ra nhiều triển vọng mới cho các nước xuất khẩu đồ gỗ sang Nhật trong đó có Việt Nam.
117 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2600 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang thị trường Nhật Bản trong điều kiện tham gia WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
I. Tính tất yếu của đề tài nghiên cứu
Với dân số là 127,46 triệu người và tổng sản phẩm quốc nội (GDP) năm 2006 đạt 5,04 tỷ đôla (tốc độ tăng trưởng năm 2006 là 2,1%), Nhật Bản là quốc gia có nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Nhật Bản có sức mua lớn, nhu cầu nhập khẩu nhiều mặt hàng tiêu dùng của Nhật Bản (trong đó có đồ gỗ) đang ngày càng gia tăng cùng với xu hướng phục hồi nền kinh tế của Nhật Bản hiện nay. Nhu cầu tiêu dùng của Nhật Bản mở ra nhiều triển vọng mới cho các nước xuất khẩu đồ gỗ sang Nhật trong đó có Việt Nam. Hiện nay Nhật Bản là nước nhập khẩu lớn thứ hai của Việt Nam (sau Hoa Kỳ). Hàng năm Nhật Bản nhập khẩu khối lượng hàng hoá trị giá khoảng 400 tỷ USD, trong đó nhập khẩu từ Việt Nam khoảng 2,9 tỷ USD.
Các sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam từ nhiều năm nay chỉ có dầu thô, dệt may, thuỷ sản… Vài năm gần đây, sản phẩm gỗ cũng được coi là một mặt hàng xuất khẩu chính, giữ vai trò quan trọng trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam và là một trong 6 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu rất cao. Hơn thế, thị phần đồ gỗ xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Nhật Bản đã tăng từ vị trí thứ tư năm 2004 lên vị trí thứ hai năm 2006 chỉ sau Trung Quốc, hiện đang chiếm trên 8% thị phần nhập khẩu đồ gỗ của Nhật Bản và đang có xu hướng tăng hơn nữa. Với nhu cầu tiêu dùng đồ gỗ đạt khảng 2,2 tỷ USD/năm của người Nhật Bản, sản phẩm gỗ là một mặt hàng có triển vọng rất lớn để tăng kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản năm 2006 và những năm sau nữa.
Tuy nhiên, trong điều kiện toàn cầu hoá và quốc tế hoá đời sống kinh tế ngày càng sâu sắc hiện nay, đặc biệt là trong điều kiện Việt Nam đã là thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), cạnh tranh xuất khẩu nói chung và xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản nói riêng ngày càng gay gắt. Những sản phẩm Việt Nam có lợi thế xuất khẩu sang Nhật Bản cũng là những sản phẩm mà nhiều nước và khu vực khác trên thế giới nhất là các nước ASEAN và Trung Quốc có điều kiện lợi thế để xuất khẩu sang thị trường này. Đó là chúng ta còn chưa nói tới những khó khăn xuất phát từ đặc điểm thị trường Nhật Bản - một thị trường đòi hỏi khắt khe đối với hàng hoá nhập khẩu và có các rào cản thương mại phức tạp vào bậc nhất trên thế giới.
Nghiên cứu và tìm ra giải pháp để thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm gỗ sang Nhật Bản là hết sức cần thiết. Thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường thế giới nói chung và thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang thị trường Nhật Bản nói riêng mang lại rất nhiều lợi ích cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá, cho nền kinh tế đất nước, cho đời sống nhân dân. Thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang thị trường Nhật Bản góp phần thực hiện thắng lợi những mục tiêu và nhiệm vụ đề ra trong chiến lược xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam thời kỳ từ nay đến năm 2020.
Vì vậy tôi đã chọn và nghiên cứu đề tài: “Thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang thị trường Nhật Bản trong điều kiện tham gia WTO” với mục đích góp phần làm phát triển hoạt động xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang Nhật Bản nói riêng và đẩy mạnh hoạt động thương mại của Việt Nam nói chung để phát triển nền kinh tế đất nước.
Trước đề tài này, đã có luận văn tốt nghiệp của sinh viên Hoàng Thị Phong lớp Kinh tế quốc tế 44 nghiên cứu về “Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản”, đề tài đó mới chỉ dừng lại nghiên cứu về hoạt động xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ bao gồm đồ gốm, đồ gỗ, đồ sứ, mây tre đan. Hàng thủ công mỹ nghệ bằng gỗ chỉ là một trong các mặt hàng thuộc sản phẩm gỗ. Hơn thế, đề tài này nghiên cứu hoạt động xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang Nhật Bản trong điều kiện Việt Nam tham gia Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
II. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Mục đích nghiên cứu của đề tài là giúp Nhà nước và các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu sản phẩm gỗ sang thị trường Nhật Bản nói riêng và xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam nói chung tăng cường hoạt động xuất khẩu sản phẩm, mang lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp và phát triển kinh tế đất nước.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Một là, làm rõ đặc điểm và xu hướng nhập khẩu sản phẩm gỗ của Nhật Bản;
Hai là, thống kê, so sánh, tổng hợp, phân tích và đánh giá thực trạng xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam sang Nhật Bản từ năm 1999 đến năm 2006;
Ba là, làm rõ cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm gỗ sang Nhật Bản trong điều kiện Việt Nam tham gia WTO;
Bốn là, đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm gỗ sang Nhật Bản trong điều kiện Việt Nam tham gia WTO.
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam. Nhưng phạm vi nghiên cứu của đề tài là chỉ nghiên cứu hoạt động xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản từ năm 1999 đến năm 2006.
IV. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu trong khoa học xã hội bao gồm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, đối chiếu, phương pháp phân tích và tổng hợp, hệ thống hoá, khái quát hoá, lôgíc và lịch sử, tổng kết thực tiễn.
V. Kết cấu của đề tài:
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục bảng hình, danh mục các từ viết tắt bài viết gồm có ba chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận chung về xuất khẩu và sự cần thiết thúc đẩy xuất khẩu gỗ Việt Nam sang thị trường Nhật Bản trong điều kiện tham gia WTO.
Chương 2. Thực trạng xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang thị trường Nhật Bản từ năm 1999 đến năm 2006 – trong điều kiện tham gia WTO.
Chương 3. Phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang Nhật Bản trong điều kiện tham gia WTO từ năm 2007 đến năm 2020.
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ
XUẤT KHẨU VÀ SỰ CẦN THIẾT THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU SẢN PHẨM GỖ VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN TRONG ĐIỀU KIỆN THAM GIA WTO
1.1. Những vấn đề lý luận chung về xuất khẩu
1.1.1. Khái niệm, hình thức và vai trò của xuất khẩu
1.1.1.1. Khái niệm xuất khẩu
Cùng với sự phát triển kinh tế của các quốc gia, xuất phát từ những sự khác biệt về điều kiện tự nhiên, khí hậu, sự khác biệt về trình độ phát triển sản xuất và từ nhu cầu phong phú đa dạng của mọi tầng lớp dân cư trên thế giới…, nhu cầu buôn bán trao đổi hàng hoá cũng ngày càng phát triển cả về bề rộng và chiều sâu, không những chỉ trao đổi trong nội bộ quốc gia mà còn qua khỏi biên giới quốc gia, lan rộng ra toàn thế giới. Thương mại quốc tế trong xu hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá kinh tế quốc tế hoá hiện nay có vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế một quốc gia, một khu vực và toàn cầu. Xuất khẩu hàng hoá là một hoạt động của thương mại quốc tế. Đã có rất nhiều khái niệm về xuất khẩu được đưa ra, dưới đây, tôi xin đưa ra một số khái niệm xuất khẩu phổ biến nhất:
Xuất khẩu là hoạt động bán hàng hoá và dịch vụ từ nước này sang nước khác.
Xuất khẩu là hoạt động bán hàng hoá (cả hàng hoá hữu hình và hàng hoá vô hình) từ một quốc gia sang phần còn lại của thế giới.
Xuất khẩu đã được thừa nhận là một hoạt động rất cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại, là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
1.1.1.2. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu
Một là, hình thức xuất khẩu trực tiếp:
Hình thức xuất khẩu trực tiếp là hình thức, trong đó người bán (người sản xuất, người cung cấp, người xuất khẩu) và người mua (người nhập khẩu) quan hệ trực tiếp với nhau (bằng cách gặp mặt, qua thư từ, điện tín) để bàn bạc thoả thuận về hàng hoá, giá cả và các điều kiện giao dịch khác.
Hai là, hình thức xuất khẩu qua trung gian:
Xuất khẩu qua trung gian là hình thức bán hàng được thực hiện nhờ sự giúp đỡ của trung gian thứ ba. Người thứ ba này được hưởng một khoản tiền nhất định. Người trung gian phổ biến trong phương thức này là đại lý và môi giới.
Ba là, hình thức xuất khẩu buôn bán đối lưu:
Buôn bán đối lưu hay còn gọi là hình thức xuất khẩu liên kết là phương thức trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng trao đổi với nhau có gía trị tương đương nhau. Mục đích xuất khẩu ở đây không phải nhằm thu ngoại tệ mà thu về một hàng hoá khác có giá trị tương đương.
Các loại hình buôn bán đối lưu chủ yếu: Hàng đổi hàng, trao đổi bù trừ, mua đối lưu, chuyển nợ, mua bán bình hành, mua lại.
Bốn là, hình thức gia công xuất khẩu:
Là một phương thức giao dịch kinh doanh quốc tế trong đó một bên (bên đặt gia công) giao cho bên kia vật tư, nguyên liệu nhằm nhập về những thành phẩm sau khi trả cho bên kia một khoản lệ phí (phí gia công).
Các hình thức gia công xuất khẩu: (1) Căn cứ vào sự chuyển giao quyền sở hữu: Hình thức giao nguyên liệu nhận thành phẩm, hình thức mua nguyên liệu bán thành phẩm. (2) Căn cứ vào cách thức thanh toán phí gia công: Hợp đồng thực thanh thực chi, hợp đồng khoán. (3) Căn cứ vào chủ thể tham gia gia công: gia công hai bên, gia công nhiều bên.
Năm là, hình thức tái xuất khẩu:
Là hình thức xuất khẩu những mặt hàng ngoại nhập trước đây mà bản chất hàng hoá đó không thay đổi nhiều qua quá trình gia công lưu thông nhằm tăng giá trị của hàng hoá đó
Các hình thức tái xuất khẩu: Tái xuất thông thường, tam nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập.
Sáu là, hình thức xuất khẩu tại chỗ:
Xuất khẩu tại chỗ là hình thức xuất khẩu mà người bán (người xuất khẩu) bán hàng hoá hay dịch vụ trong phạm vi biên giới quốc gia của mình.
Hình thức: Bao gồm các hoạt động như: Bán hàng tại hội chợ, triển lãm quốc tế, cung cấp hàng hoá dịch vụ cho các ngoại giao đoàn, cho khách du lịch quốc tế…
1.1.1.3. Vai trò của xuất khẩu
Xuất khẩu là một hoạt động không thể thiếu trong thương mại quốc tế. Xuất khẩu có những vai trò sau:
Thứ nhất, xuất khẩu tạo điều kiện cho các quốc gia tận dụng được lợi thế so sánh của mình.
Thứ hai, xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu công nghệ, máy móc và những nguyên nhiên vật liệu cần thiết phục vụ cho sự nghệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Thứ ba, xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy phát triển sản xuất sản phẩm.
Thứ tư, xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, cải thiện đời sống nhân dân.
Thứ năm, xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại, tăng cường vị thế của mỗi quốc gia trên trường quốc tế.
1.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu
1.1.2.1. Hệ thống pháp luật và chính sách của Nhà nước
Tuỳ vào từng thời điểm khác nhau, tình hình biến động kinh tế xã hội, chính trị khác nhau mà mỗi quốc gia sẽ theo đuổi một chính sách riêng để đạt mục tiêu chung là phát triển đất nước. Bởi vậy, chính sách quản lý của từng quốc gia có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu của quốc gia đó.
Khi quốc gia thực hiện chính sách hướng về xuất khẩu thì quốc gia đó sẽ thực hiện tất cả các biện pháp để có thể thúc đẩy xuất khẩu của quốc gia. Ngược lại, khi quốc gia thực hiện chính sách bảo hộ nền kinh tế, hạn chế nhập khẩu thì hoạt động xuất khẩu cũng sẽ bị hạn chế rất nhiều.
Mặt khác, hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia cũng cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động xuất khẩu. Hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, minh bạch, các thủ tục hành chính đơn giản, gọn nhẹ không rườm rà, phức tạp thì các doanh nghiệp có thể tận dụng được nhiều cơ hội hơn trong kinh doanh và xuất khẩu. Thêm vào đó, khi hệ thống luật pháp ổn định rõ ràng tạo điều kiện thu hút đầu tư nước ngoài, đồng thời tiếp thu được những công nghệ tiên tiến, phục vụ cho hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu.
1.1.2.2. Các yếu tố đầu vào sản xuất, nguyên liệu, vốn, lao động
Các yếu tố này có mối quan hệ tỷ lệ thuận với khả năng xuất khẩu của một quốc gia. Khi tiềm lực các yếu tố này càng mạnh thì khả năng xuất khẩu hàng hoá của quốc gia này sang thị trường nước ngoài càng cao, sản phẩm của quốc gia này càng dễ dàng thâm nhập vào thị trường nước ngoài và ngược lại. Ví dụ, khi một quốc gia sản xuất hàng xuất khẩu, nguyên liệu để sản xuất phải nhập khẩu từ nước khác sẽ dẫn đến tình trạng khả năng xuất khẩu hàng hoá của quốc gia đó sẽ bị phụ thuộc vào tình hình biến động nguyên liệu đầu vào của thị trường khác. Khi giá nguyên liệu đầu vào tăng làm cho giá sản phẩm xuất khẩu tăng, dẫn đến sức cạnh tranh về giá của sản phẩm đó trên thị trường nước ngoài sẽ giảm, làm hạn chế xuất khẩu mặt hàng đó.
1.1.2.3. Tỷ giá hối đoái
Khi tỷ giá hối đoái tăng lên có tác động khuyến khích xuất khẩu, vì lúc này, đồng nội tệ có giá trị giảm xuống so với đồng ngoại tệ nên cùng một lượng ngoại tệ có thể có thể đổi được nhiều hơn đồng nội tệ, hàng xuất khẩu rẻ hơn, dễ cạnh tranh hơn trên thị trường quốc tế. Ngược lại, khi tỷ giá hối đoái giảm xuống sẽ có tác động hạn chế xuất khẩu vì cùng một lượng ngoại tệ thu được do xuất khẩu sẽ đổi được ít đồng nội tệ hơn nên không khuyến khích các nhà sản xuất đầu tư nhiều cho hoạt động xuất khẩu.
1.1.2.4. Sức cạnh tranh hàng hoá
Khi sức cạnh tranh hàng hoá trên thị trường nước ngoài lớn, đáp ứng được những nhu cầu và yêu cầu của người tiêu dùng ở thị trường nước ngoài thì thì thị phần của hàng hoá đó sẽ chiếm rất lớn ở nước ngoài, nhiều hơn so với các hàng hoá cùng loại của nước khác, sẽ thúc đẩy xuất khẩu nhiều hơn sang thị trường này.
Nếu sức cạnh tranh của hàng hoá đó càng tăng dẫn đến thị phần của hàng hoá đó trên thị trường nước ngoài càng lớn sẽ tất yếu dẫn đến xuất khẩu hàng hoá nhiều hơn sang thị trường này.
1.1.2.5. Nhu cầu của thị trường nước ngoài
Cho dù là sản xuất cho tiêu dùng trong nước hay sản xuất để xuất khẩu, nhu cầu vẫn luôn là yếu tố quyết định đến sản lượng. Khi nhu cầu về một hàng hoá nào đó của một quốc gia trên thị trường nước ngoài tăng thì các nhà sản xuất sẽ tập trung mở rộng quy mô sản xuất để có thể sản xuất ra nhiều hàng hoá để đáp ứng nhu cầu, tất nhiên sẽ khuyến khích xuất khẩu nhiều hơn sang thị trường này.
Ngược lại, nếu nhu cầu về hàng hoá nào đó của một quốc gia trên thị trường nước ngoài giảm sẽ không khuyến khích các nhà sản xuất đầu tư để mở rộng quy mô sản xuất, thậm chí còn thu hẹp quy mô sản xuất, dẫn đến hạn chế xuất khẩu hàng hoá đó.
1.1.2.6. Yếu tố khác
Ngoài các yếu tố cơ bản tác động tới xuất khẩu như trên, còn có rất nhiều các yếu tố khác ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động xuất khẩu. Sau đây là một số yếu tố khác:
Một là, trình độ quản lý, nếu nhà quản lý không có trình độ hay trình độ kém thì không thể nhận ra được tiềm năng của thị trường, từ đó sẽ không thực hiện các biện pháp để nâng cao khả năng xuất khẩu hàng hóa sang thị trường đó.
Hai là, quan hệ giữa nước nhập khẩu và nước xuất khẩu: Quan hệ này nếu tiến triển tốt đẹp, hợp tác hai bên cùng có lợi thì chắc chắn nước này sẽ giành cho nước kia những ưu đãi về thuế nhập khẩu, hạn ngạch… thông qua các hiệp định song phương và đa phương, khiến cho hoạt động xuất khẩu hàng hoá giữa hai quốc gia sẽ diễn ra dễ dàng thuận lợi, tạo được sức cạnh tranh của hàng hoá nước này từ đó thúc đẩy xuất khẩu giữa hai quốc gia. Ngược lại, nếu quan hệ giữa hai quốc gia không tốt, thì hai bên sẽ không dành cho nhau những ưu đãi, mà còn tạo ra những hạn chế để nước này không thể dễ dàng thâm nhập vào thị trường nước kia, dẫn đến hạn chế xuất khẩu giữa hai nước. Nếu một trong hai nước có nền kinh tế phát triển mạnh trên thế giới thì đôi khi còn có thể tạo ra những cấm vận để nước còn lại không những không thể xuất khẩu sang quốc gia mình mà còn hạn chế cả xuất khẩu sang quốc gia khác.
Ngoài ra, những biến động tình hình kinh tế - xã hội như khủng hoảng, đình công,… sẽ làm cho nền kinh tế trong nước phải chịu những tổn thất, ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất trong nước. Do vậy cũng ảnh hưởng gián tiếp đến xuất khẩu ra nước ngoài. Hơn nữa, lúc này quốc gia đang gặp phải những biến động vì vậy mọi giải pháp trước mắt đều tập trung nhằm hạn chế ảnh hưởng của những biến động này tới nền kinh tế, nên hoạt động xuất khẩu sẽ gặp nhiều khó khăn, rủi ro hơn.
1.2. Khái quát nền kinh tế Nhật Bản và Chính sách nhập khẩu hàng hoá của Nhật Bản, hệ thống phân phối hàng hoá tại Nhật Bản
1.2.1. Khái quát nền kinh tế Nhật Bản
Với dân số là 127,46 triệu người, với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) năm 2006 đạt 5,2 tỷ USD, Nhật Bản là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới chỉ sau Mỹ, với sức mua lớn, nhu cầu phong phú đa dạng, nhu cầu nhập khẩu nhiều mặt hàng tiêu dùng của Nhật Bản đang ngày càng gia tăng và còn tiếp tục tăng cùng với xu hướng phục hồi nền kinh tế của Nhật Bản hiện nay.
Nền kinh tế Nhật Bản đã trải qua nhiều thăng trầm. Trong những năm đầu bị chiếm đóng sau chiến tranh, kinh tế Nhật Bản chìm đắm trong lạm phát, thiếu thốn. Nhưng cùng với những cải cách về chính trị-xã hội, các chính sách ổn định và phát triển kinh tế năm 1949-50 đã đặt cơ sở cho sự trở lại thị trường thế giới của Nhật Bản. Tiếp đó, Nhật bước vào thời kỳ tăng trưởng cao kéo dài cho đến những năm đầu 1970. Tốc độ tăng trưởng trung bình ngày càng cao: giai đoạn 1955-1960 là 8,5%; giai đoạn 1960-1965 là 9,8%; và giai đoạn 1965-1971 đạt 11,2%. GNP năm 1970 đạt 199,8 tỷ USD tăng hơn 8,3 lần so với 23,9 tỷ USD của năm 1955. Tổng kim ngạch ngoại thương tăng 25 lần trong 20 năm (1950-70). Nhưng chính sự thần kỳ của nền kinh tế Nhật cũng làm nẩy sinh nhiều vấn đề lớn: phụ thuộc ngày càng tăng vào thị trường và nguồn nguyên nhiên liệu bên ngoài; ô nhiễm môi trường nặng nề. Đặc biệt là mâu thuẫn thương mại với các bạn hàng, nhất là Mỹ, ngày càng gay gắt.
Cuộc khủng hoảng dầu mỏ 1973-74 là nhân tố chủ yếu kết thúc sự thần kỳ Nhật Bản. Nhưng đây chỉ là đòn quyết định đánh vào kinh tế Nhật, làm bộc lộ những mâu thuẫn đã tích tụ sau kỷ nguyên tăng trưởng cao. Lạm phát đã bùng nổ ngay sau khi dầu mỏ tăng giá. Tình hình đã buộc Nhật phải đẩy mạnh cải cách cơ cấu kinh tế nhằm hạn chế tác động của các nhân tố tiêu cực, bước vào thời kỳ tăng trưởng ổn định và quốc tế hoá nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng trong những năm 1974-85 chỉ còn trung bình 4,3%, chưa bằng một nửa của thời kỳ trước đó nhưng vẫn cao nhất trong các nước OECD. Thời kỳ này Nhật chú trọng phát triển các ngành công nghệ mới, ít tiêu hao nguyên liệu, năng lượng; thúc đẩy lĩnh vực dịch vụ. Chính vì vậy đã chủ động đối phó được với cuộc khủng hoảng dầu mỏ lần thứ hai (1979-80): kinh tế không hỗn loạn, lạm phát được kiểm soát, giá cả ổn định và tăng trưởng kinh tế giữ được ở mức khoảng 3%.
Do xuất khẩu vẫn giữ vai trò trung tâm của sự phát triển, đồng Yên yếu càng thúc đẩy xuất khẩu. Thêm nữa, đầu những năm 1980 kinh tế toàn cầu suy thoái, nhu cầu dầu mỏ giảm xuống buộc OPEC từ năm 1983 phải giảm giá dầu. Các yếu tố này làm cho thặng dư mậu dịch của Nhật ngày càng lớn và mâu thuẫn với các bạn hàng nhất là Mỹ và EU càng gay gắt. Hiệp định Plaza tháng 9/1985 đã nhất trí thoả thuận giảm giá đồng đôla và đồng yên đã lên giá gấp đôi, từ chỗ 260 Yên/1USD năm 1985 lên 130 Yên/1USD năm 1987.
Đồng Yên lên giá có làm kinh tế Nhật suy thoái trong 2 năm 1985 và 1986 nhưng không làm giảm khả năng xuất khẩu của Nhật Bản mà lại dẫn tới cạnh tranh quốc tế gay gắt hơn theo hướng giành hiệu quả cao. Nhật chuyển các cơ sở sản xuất có giá trị gia tăng thấp ra nước ngoài bằng đầu tư trực tiếp (1982: 7,7 tỷ USD; 1988: 44 tỷ USD; 1990: 56,9 tỷ USD), tạo ra những địa bàn sản xuất với giá thành thấp. Ở trong nước đổi mới kỹ thuật hơn nữa để chuyển sang sản xuất những sản phẩm có giá trị gia tăng cao.
Các biện pháp cải cách kinh tế theo hướng mở cửa thị trường, thúc đẩy nhập khẩu và kiềm chế xuất khẩu quá mức, giảm thuế thu nhập, kích cầu trong nước, tăng đầu tư công trình công cộng.... cũng đồng thời được thực hiện. Thành công về tổng thể của những cố gắng này đã giúp kinh tế Nhật phục hồi từ cuối năm 1987 và duy trì được mức phát triển trung bình 5,3% cho đến năm 1990.
"Kinh tế bong bóng" chính là nền kinh tế tăng trưởng cực nhanh của Nhật Bản vào cuối thập niên 80, song đó không phải là tăng trưởng thực sự từ sự phát triển các hoạt động sản xuất của cải vật chất như các thời kỳ trước đó, mà chủ yếu tăng trưởng giả tạo do sự đầu cơ vào mua bán bất động sản, trái phiếu, các hàng hoá nghệ thuật có giá trị lớn. Đồng thời với hiện tượng đầu cơ này về phía Ch