Từ trước đến nay, tranh chấp quốc tế luôn được xác định là một trong những vấn đề thời sự rất được nhiều quốc gia cũng như toàn thể nhân loại quan tâm. Vì thế. Việc thiết lập và duy trì hệ thống các cơ quan chuyên môn về vấn đề giải quyết tranh chấp là một nhu cầu quan trọng được đặt ra trong đời sống quố tế hiện nay. Ta có thể nhận thấy các tranh chấp quốc tế ngày càng được giải quyết theo nhiều cách thức và biện pháp khác nhau, và cũng đạt được nhiều thành tựu lớn. Điển hình cho 1 trong các phương thức giải quyết đó là quá trình thông qua vai trò của các cơ quan tài phán quốc tế. Với tầm quan trọng như trên của quá trình giải quyết tranh chấp quốc tế bởi các cơ quan tài phán quốc tế, cho nên việc đi sâu vào nghiên cứu sẽ mang một ý nghĩa vô cùng to lớn.
Từ quá trình học tập nghiên cứu lí luận, cùng với việc tìm hiểu về thực tiễn về các cơ quan tài phán quốc tế trong quá tình giải quyết tranh chấp. Nhận thấy đây là một vấn đề quốc tế lớn nhưng vẫn còn rất mới mẻ. Vì thế, tôi đã quyết định lựa chọn đề tài về “Thực tiễn giải quyết các tranh chấp quốc tế thông qua các cơ quan tài phán quốc tế” để hoàn thành bài luận cuối kì môn luật công pháp quốc tế của mình.
Trong quá trình hoàn thành bài nghiên cứu này, tôi xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo giảng viên khoa Luật quốc tế_ Trường đại học Luật Hà Nội đã giúp đỡ tôi rất nhiều để tôi có thể hoàn thành bài luạn của mình.
9 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1866 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thực tiễn giải quyết các tranh chấp quốc tế thông qua các cơ quan tài phán quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. PHẦN MỞ ĐẦU:
Từ trước đến nay, tranh chấp quốc tế luôn được xác định là một trong những vấn đề thời sự rất được nhiều quốc gia cũng như toàn thể nhân loại quan tâm. Vì thế. Việc thiết lập và duy trì hệ thống các cơ quan chuyên môn về vấn đề giải quyết tranh chấp là một nhu cầu quan trọng được đặt ra trong đời sống quố tế hiện nay. Ta có thể nhận thấy các tranh chấp quốc tế ngày càng được giải quyết theo nhiều cách thức và biện pháp khác nhau, và cũng đạt được nhiều thành tựu lớn. Điển hình cho 1 trong các phương thức giải quyết đó là quá trình thông qua vai trò của các cơ quan tài phán quốc tế. Với tầm quan trọng như trên của quá trình giải quyết tranh chấp quốc tế bởi các cơ quan tài phán quốc tế, cho nên việc đi sâu vào nghiên cứu sẽ mang một ý nghĩa vô cùng to lớn.
Từ quá trình học tập nghiên cứu lí luận, cùng với việc tìm hiểu về thực tiễn về các cơ quan tài phán quốc tế trong quá tình giải quyết tranh chấp. Nhận thấy đây là một vấn đề quốc tế lớn nhưng vẫn còn rất mới mẻ. Vì thế, tôi đã quyết định lựa chọn đề tài về “Thực tiễn giải quyết các tranh chấp quốc tế thông qua các cơ quan tài phán quốc tế” để hoàn thành bài luận cuối kì môn luật công pháp quốc tế của mình.
Trong quá trình hoàn thành bài nghiên cứu này, tôi xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo giảng viên khoa Luật quốc tế_ Trường đại học Luật Hà Nội đã giúp đỡ tôi rất nhiều để tôi có thể hoàn thành bài luạn của mình.
B. PHẦN NỘI DUNG.
* Cơ sở lí luận: trong bài nghiên cứu khoa học này, tôi đã viện dẫn và sử dụng nhưng văn bản pháp luật quốc tế sau làm căn cứ pháp lí cho những nhận định của mình:
+ Hiến chương Liên hợp quốc 1945.
+ Quy chế Tòa án quốc tế về luật biển kèm theo Công ước của Liên hợp quốc về luật biển 1982.
+ Hiến chương ASEAN.
+ Nghị định thư Manila1996
+ Quy chế tòa án công lí quốc tế 1946.
+ Các hiệp định Thương mại WTO...
I. Khái quát chung về tranh chấp quốc tế và giải quyết tranh chấp quốc tế thông qua các cơ quan tài phán quốc tế.
I.1. Tranh chấp quốc tế.
I.1.1. Khái niệm.
Căn cứ vào thực tiễn của pháp luật quốc tế hiện nay. Ta có thể hiểu một cách chung nhất về tranh chấp quốc tế như sau: “Tranh chấp quốc tế là hoàn cảnh thực tế mà trong đó các chủ thể tham gia có những quan điểm trái ngược nhau hoặc mâu thuẫn với nhau, và có những yêu cầu,hay đòi hỏi cụ thể trái ngược nhau. Đó là sự không thỏa thuận được với nhau về quyền hoặc sự kiện, đưa đến sự mâu thuẫn, đối lập nhau về quan điểm pháp lí hoặc quyền giữa các bên chủ thể luật quốc tế với nhau”.
I.1.2. Phân loại.
Căn cứ vào nhiều tiêu chí khác nhau mà có thể phân loại tranh chấp quốc tế như sau.
- Căn cứ vào số lượng chủ thể tham gia: bao gồm tranh chấp song phương và tranh chấp đa phương.
- Cưn cứ vào tính chất của vụ tranh chấp: tranh chấp mang tính chất chính trị và tranh chấp có tính pháp lí.
- Căn cứ vào đối tượng tranh chấp thì có tranh chấp về kinh tế về thực hiện nghĩa vụ thành viên về điều ước quốc tế hoặc tổ chức quốc tế…
I.1.3. Phương thức giải quyết tranh chấp quốc tế hiện nay.
Hiến chương Liên hợp quốc đã quy định rất nhiều biện pháp hòa bình, tạo ra điều kiện cho các chủ thể luật quốc tế lựa chọn trong giải quyết tranh chấp quốc tế. xuất phát từ những đặc trưng cơ bản của Luật quốc tế: Chủ thể, đối tượng điều chỉnh… vì thế mà thẩm quyền giải quyết tranh chấp trong luật quốc tế cũng có những đặc điểm rất khác biệt so với luật quốc gia. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp quốc tế là do các chủ thể luật quốc tế quyết định
Thực tiễn giải quyết tranh chấp quốc tế từ trước tới nay thường vẫn áp dụng các phương thức giải quyết tranh chấp cơ bản sau.
+ Giải quyết trực tiếp tranh chấp
+ Giải quyết tranh chấp thông qua bên thứ ba;
+ Giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ các tổ chức quốc tế và các hiệp định khu vực.
+ Giải quyết tranh chấp thông qua các cơ quan tài phán quốc tế.
I.2. Các cơ quan tài phán quốc tế.
I.2.1. Khái niệm.
Như ta đã biết, tài phán quốc tế là những hình thức, cách thức hòa bình để giải quyết tranh chấp quốc tế bằng phương pháp, thủ tục tư pháp, do các quốc gia lựa chọn . Vì thế, trong quan hệ quốc tế, thẩm quyền giải quyết tranh chấp quốc tế của các cơ quan tìa phá quốc tế thường phụ thuộc bởi ý chí của các bên tranh chấp trong việc chấp nhận trao cho những thiết chế đó quyền giải quyết vụ việc xảy ra.
Như vậy, Cơ quan tài phán quốc tế được định nghĩa: “ là những cơ quan hình thành trên cơ sở sự thỏa thuận hoặc thừa nhận của các chủ thể luật quốc tế nhằm thực hiện chức năng giải quyết bằng trình tự tư pháp các cuộc tranh chấp nảy sinh trong quá trình các chủ thể thực thi, tuân thủ pháp luật”.
I.2.2. Phân loại.
Hiện nay, các cơ quan tài phán quốc tế tồn tạ chủ yếu dưới 2 dạng chủ yếu là Tòa án và Trọng tài quốc tế. Tính chất của mỗi loại hình tài phán này phụ thuộc vào quy chế, điều lệ và chức năng đặc thù của từng loại.
I.2.3. Thiết chế của Tòa án quốc tế.
+ Toàn án Liên hợp quốc:
một trong sáu cơ quan chính của Liên hợp quốc, được thành lập năm 1945 trên cơ sở kế thừa Toà án Thường trực Quốc tế của Hội quốc liên và hoạt động theo quy chế một bộ phận không tách rời của Hiến chương Liên hợp quốc. Tất cả các thành viên của Liên hợp quốc đương nhiên được coi là thành viên của quy chế TAQT. Các nước không phải là thành viên Liên hợp quốc có thể tham gia quy chế TAQT nếu được Hội đồng Bảo An đề nghị và được Đại hội đồng Liên hợp quốc chấp thuận. Các nước không tham gia quy chế cũng có thể yêu cầu TAQT xét xử tranh chấp nếu được Hội đồng Bảo an cho phép.
Nhiệm vụ chính của TAQT: 1) Giải quyết các tranh chấp giữa các quốc gia và giữa các tổ chức quốc tế trên cơ sở luật pháp quốc tế. Các thể nhân và pháp nhân không có quyền đưa các tranh chấp ra giải quyết trước TAQT. 2) Làm chức năng tư vấn pháp lí (kết luận pháp lí) cho Hội đồng Bảo an, Hội đồng Thường trực và cho các tổ chức khác của Liên hợp quốc.
TAQT được quyền ra các quyết định bằng phương thức biểu quyết trên nguyên tắc quá bán với số đại biểu hợp lệ là không được ít hơn 9 người. Quyết định của TAQT mang tính chất bắt buộc, có hiệu lực ngay và các đương sự không có quyền khiếu nại. Trong trường hợp quyết định của TAQT không được thi hành, TAQT có thể yêu cầu Hội đồng Bảo an giúp đỡ để quyết định được thi hành. Thành phần của TAQT gồm 15 thẩm phán do Đại hội đồng Liên hợp quốc và Hội đồng Bảo an bầu ra với nhiệm kì 9 năm và cứ 3 năm lại bầu lại 5 thẩm phán. Về nguyên tắc, trong cơ cấu của TAQT phải có đại diện của tất cả các hệ thống pháp luật trên thế giới và là những luật gia nổi tiếng, có uy tín trong lĩnh vực pháp luật quốc tế. Đã có công dân của các quốc gia: Anh, Pháp, Bỉ, Nga, Trung Quốc, Nhật Bản, Đức, Italia, Hungari, Xri Lanka, Mađagaxca, Angiêri, Guyana, Vênêzuêla, Xiêra Lêôn tham gia TAQT.
Ngoài các nhiệm vụ trên, TAQT còn có nhiệm vụ chung cùng với các cơ quan khác của Liên hợp quốc bảo vệ hoà bình, kiểm tra giám sát các nước thành viên Liên hợp quốc thực hiện nghĩa vụ của mình theo đúng Hiến chương Liên hợp quốc và theo các quyết định của các cơ quan của Liên hợp quốc. Trụ sở: La Hay (Hà Lan).
Về giá trị pháp lí của phán quyết do Tòa án công lí quốc tế xét xử. đều có giá trị chung thẩm và bắt buộc đối với các bên. Phán quyết của Tòa chỉ có giá trị pháp lí trong mối quan hệ giữa các bên tranh chấp. Nhưng ở một số trường hợp cũng gián tiếp ảnh hưởng đến bên thứ ba.
+ Tòa án liên minh châu Âu.
Về thành phần, cơ cấu. bao gồm 15 Thẩm phán, 8 Công tố viên,được bổ nhiệm theo nhiệm kì 6 năm.
Về thẩm quyền. Biểu hiện trong chức năng giải thích luật của EU, đảm bảo cho pháp luật của Liên minh được các thiết chế EU, các quốc gia thành viên, công dân của nước thành viên tuân thủ. Tòa án liên minh châu Âu còn có chức năng giải thích luật của cộng đồng theo yêu cầu của Tòa án các nước thành viên. Bên cạnh cơ quan tài phán này còn có Tòa án sơ thẩm cộng đồng Châu ÂU.
Về thủ tục tố tụng. cũng tương tự như Tòa án công lí quốc tế, bao gồm tridnh tự các bên đề trình yêu cầu lên Tòa án và trình tự xét xử về mặt nội dung vụ việc, với thủ tục viết và nói.
+ Tòa án Luật biển.
Về thành phần và cơ cấu. Với thành phần gồm 21 thẩm phán
Là cơ quan xét xử được thành lập theo công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982. TAQTVLB là bộ phận quan trọng nhất trong hệ thống các biện pháp giải quyết các tranh chấp về Luật biển liên quan đến việc giải thích hay thực hiện Công ước năm 1982. Ngoài ra, toà án còn có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về Luật biển phát sinh từ các điều ước quốc tế khác, nếu trong các điều ước này có quy định như vậy. Trong trường hợp này, toà án chỉ được phép xét xử sau khi có sự nhất trí của tất cả các bên tham gia điều ước. Thành phần của TAQTVLB được xây dựng theo nguyên tắc đại diện các hệ thống pháp luật trên thế giới và đại diện công bằng các khu vực địa lí. Toà án có 21 thành viên với nhiệm kì là 9 năm do Hội nghị toàn thể các quốc gia tham gia Công ước bầu ra thông qua bỏ phiếu kín. Cứ 3 năm lại bầu lại để thay thế 1/3 thành viên của toà án. TAQTVLB có quyền xét xử tất cả các vụ tranh chấp về Luật biển. Tuy nhiên, TAQTVLB có thể thành lập toà chuyên án bao gồm từ 3 thành viên trở lên được bầu trong số 21 thành viên của TAQTVLB để giải quyết tranh chấp về đáy biển và thành lập một số toà chuyên án khác để giải quyết những tranh chấp cụ thể. Phán quyết của TAQTVLB có hiệu lực bắt buộc đối với các bên tranh chấp. Trụ sở: Hambua (Hamburg, Cộng hoà Liên bang Đức)..
I.2.4. Thiết chế trọng tài quốc tế.
I.2.4.1. Khái niệm.
Tòa trọng tài là cơ quan tài phám quốc tế được các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế thảo thuận thành lập trên cơ sở các điều ước quốc tế về trọng tài và nhằm giải quyết tranh chấp phát sinh giữa các bên.
I.2.4.2. Phân loại.
+ Căn cứ vào thành phần trọng tài: Tòa trọng tài cá nhân và Tòa trọng tài tập thể.
+ Căn cứ vào thẩm quyền giải quyết tranh chấp: Tòa trọng tài có thẩm quyền chung; Tòa trọng tài có thẩm quyền chuyên môn
+ Căn cứ vào tính chất hoạt động: Tòa trọng tài thường trực và Tòa trọng tài vụ việc.
I.2.4.3. Giá trị pháp lí của phán quyết trọng tài.
Về nguyên tắc, phán quyết của Tòa trọng tài là chung thẩm và có hiệu lực bắt buộc đối với các bên tranh chấp. Các bên có nghĩa vụ thi hành và không có quyền khiếu nại. Phán quyết của tòa trọng tài được xem xét lại trong trường hợp có những điều kiện mới ảnh hưởng đến nội dung phán quyết mà trước đó tòa trọng tài chưa được biết đến. Trong một số trường hợp nhất định trên thực tiễn thì phán quyết của Tòa trọng tài cũng có thể bị coi là vô hiệu, và các bên không có nghĩa vụ phải thi hành phán quyết đó.
I.2.4.4. Tòa trọng tài thường trực Lahaye (PCA).
Là Tòa có thẩm quyền giải quyết tất cả các tranh chấp phát sinh giữa các quốc gia thành viên, trừ khi các quốc gia thỏa thuận lựa chọn một phương hướng giải quyết khác.
I.2.4.5. Tòa trọng tài quốc tế về Luật Biển.
Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng công ước về thi hành các quyền chủ quyền hay quyền tài phán của quốc gia ven biển; các tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng các các quy định của công ước về nghiên cứu khoa học biển; các tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng các quy định của công ước về đánh bắt hải sản. Các chủ thể có quyền đưa vụ tranh chấp ra tòa trọng tài quốc tế về luật biển bao gồm các quốc gia thành viên công ước , các thực thể không phải là thành viên công ước trong các trường hợp liên quan đến việ quản lí khai thác vùng - di sản chung của loài người và các tổ chức quốc tế chính phủ, là thành viên của công ước. Phán quyết của Tòa trọng tài quốc tế về Luật biển được thông qua theo nguyên tắc đa số…
Ngoài các cơ quan tài phán cơ bản trên, thì hiện nay trên thế giới còn tồn tại những cơ quan tài phán quốc tế khác như Tổ chức WTO, ASEAN…
II. Thực tiễn giải quyết các tranh chấp quốc tế thông qua các cơ quan tài phán quốc tế hiện nay.
II.1. Giải quyết tranh chấp quốc tế thông qua thiết chế Tòa án quốc tế.
II.1.1. Tòa án Công lí quốc tế LHQ.
Theo điều 13 của Hiến chương, một trong những chức năng của Đại hội đồng là "thúc đẩy việc pháp điển hoá và sự phát triển của luật quốc tế theo hướng tiến bộ". Chức năng này đã được Đại hội đồng và các cơ quan khác thực hiện thông qua việc soạn thảo, chuẩn bị rất nhiều công ước quốc tế. Trong vòng năm thập kỷ qua, Liên hợp quốc đã bảo trợ cho trên 456 thoả thuận đa phương bao gồm mọi lĩnh vực hoạt động giữa các nhà nước và nỗ lực của loài người. Liên hợp quốc cũng là người tiên phong quan tâm tới những vấn đề toàn cầu mới hiện nay như: môi trường, khoảng không vũ trụ, lao động di cư, buôn lậu ma tuý và chủ nghĩa khủng bố.
Chức năng chính của Toà án quốc tế là giải quyết hoà bình các tranh chấp quốc tế, vụ kiện do các quốc gia đưa lên phù hợp với luật pháp quốc tế. Mục tiêu của toà án là áp dụng các tập quán quốc tế để thiết lập các quy tắc được các quốc gia liên quan chính thức công nhận; các thông lệ quốc tế được chấp nhận như luật; các nguyên tắc chung của luật pháp được các quốc gia công nhận; các phán quyết của tòa án...
Tòa án cũng khuyến nghị Đại hội đồng, Hội đồng Bảo an về lĩnh vực luật pháp, các vấn đề luật pháp nổi lên trong phạm vi hoạt động của các cơ quan này, khuyến nghị các cơ quan khác của Liên hợp quốc, các cơ quan chuyên môn với sự uỷ quyền của Đại hội đồng.
Giải quyết theo luật pháp các tranh chấp:Cơ quan chính của Liên hợp quốc giải quyết các tranh chấp là Toà án Quốc tế. Kể từ khi thành lập năm 1946, đến nay đã có 72 vụ được các nước đưa ra trước Toà án Quốc tế, 22 trường hợp hỏi ý kiến của các tổ chức quốc tế. Hầu hết các trường hợp được Toà giải quyết, song kể từ năm 1981, đã có 4 trường hợp được chuyển cho các Uỷ ban đặc biệt giải quyết theo đề nghị của các bên liên quan. 11 trường hợp vẫn chưa được giải quyết.
Các trường hợp đưa ra giải quyết tại Toà án Quốc tế bao gồm nhiều lĩnh vực như: quyền về lãnh thổ (vụ tranh chấp giữa Pháp và Anh năm 1953, giữa Bỉ và Hà Lan năm 1959, giữa Ấn Độ và Bồ Đào Nha năm 1960, giữa Buốckina Phaxô và Mali năm 1986, giữa Libi và Sát năm 1990), liên quan đến luật biển (trường hợp Anbani phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại do thuỷ lôi trong vùng lãnh hải của mình gây ra cho tầu của Anh năm 1949, tranh chấp giữa Anh và Na uy về đánh cá), các cuộc tranh chấp liên quan đến nguyên tắc và luật lệ quốc tế trong việc phân định ranh giới thềm lục địa, trên biển và trên bộ (vụ giữa Libi và Manta năm 1985, Canađa và Mỹ năm 1984, Đan mạch và Na uy năm 1993, giữa En Xanvađo và Honđurat năm 1992 ...), về bảo vệ ngoại giao, bảo vệ môi trường, thực hiện các nghĩa vụ của lực lượng uỷ thác tại lãnh thổ Tây Nam châu Phi, các vấn đề liên quan đến xung đột khu vực, việc thực hiện các công ước quốc tế của các nước ... các trường hợp liên quan đến quan hệ giữa Liên hợp quốc và các nước thành viên như việc phái viên của Liên hợp quốc bị sát hại, đóng góp của
các nước vào ngân sách hoạt động gìn giữ hoà bình... cũng được các bên liên quan đưa ra tại Toà án Quốc tế để nhận được ý kiến tham khảo.
Pháp điển hoá luật pháp quốc tế: Uỷ ban về luật pháp quốc tế đã được Đại hội đồng thành lập năm 1947 nhằm thúc đẩy sự phát triển và pháp điển hoá luật pháp quốc tế theo hướng tiến bộ. Uỷ ban gồm 34 thành viên, nhóm họp hàng năm, các thành viên được Đại hội đồng bầu ra với nhiệm kỳ 5 năm, hoạt động với tư cách cá nhân chứ không phải là đại diện của các chính phủ.
Công việc chủ yếu của Uỷ ban là soạn thảo luật pháp quốc tế, lĩnh vực luật pháp cần soạn thảo có thể do Uỷ ban tự chọn hoặc do Đại hội đồng hoặc Hội đồng Kinh tế - Xã hội (ECOSOC) gợi ý. Khi Uỷ ban hoàn tất dự thảo các điều khoản, Đại hội đồng sẽ triệu tập một hội nghị quốc tế để quyết định đưa các điều khoản dự thảo đó vào một công ước quốc tế, sau đó sẽ mở cho các nước tham gia.
Năm 1966, đáp ứng đòi hỏi của Liên hợp quốc phải giữ một vai trò tích cực trong việc giảm bớt và loại bỏ các cản trở đối với thương mại quốc tế, Đại hội đồng đã thành lập Uỷ ban Liên hợp quốc về luật thương mại quốc tế (UNCITRAL) để thúc đẩy sự thống nhất và hài hoà theo hướng tiến bộ của luật thương mại quốc tế. Uỷ ban gồm 36 thành viên, đại diện cho các khu vực địa lý và các hệ thống kinh tế và luật pháp khác nhau, có báo cáo hàng năm lên Đại hội đồng và trình báo cáo lên Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và phát triển.
Trong thực tiễn giải quyết tranh chấp quốc tế của Tòa án quốc tế LHQ hiện nay. Ta thấy: Tòa án quốc tế LHQ chỉ giải quyết các tranh chấp giữa các quốc gia , không bao gồm giải quyết tranh chấp giữa các tổ chức quốc tế, giữa các quốc gia và tổ chức quốc tế, hay giữa cá nhân và quốc gia… và cơ quan tài phán này sẽ không có thẩm quyền đương nhiên giải quyết các tranh chấp giữa các quốc gia thành viên mà phải do các bên tranh chấp yêu cầu, dựa vào 1 trong 3 phương thức:
+ Chấp nhận thẩm quyền của tòa theo từng vụ việc ( chấp nhận thỏa thuận thỉnh cầu ) Khi có trchấp xảy ra, các bên cùng ngồi lại cùng viết chung 1 đơn, cùng ký yêu cầu tòa giải quyết, nêu rõ tên của các bên trchấp, vấn đề cần giả quyết, mục đích mong muốn yêu cầu đề nghị của các bên, có thể chọn nguồn luật để giải quyết
+ Chấp nhận trước thẩm quyền của tòa trong các ĐƯQT khi các bên cùng tham gia 1 ĐƯQT mà thẩm quyền tranh chấp của tòa quốc tế đã được nêu ra trong một điều khoản của công ước chỉ cần 1 bên đưa đơn là tòa sẽ có thẩm quyền xét sử phát sinh nguyên đơn, bị Ví dụ: VN Trung quốc là thành viên của công ước quyền trẻ em, VN có quyền yêu cầu tòa giải quyết thông qua việc chứng minh thẩm quyền trchấp của tòa QT đã được nêu ra trong 1 điều khoản của công ước.
+ Tuyên bố đơn phương chấp nhận trước thẩm quyền của tòa, quốc gai A có thể gửi đến tòa tuyên bố đơn phương nêu rõ quốc gia chấp nhận thẩm quyền xét xử cảu tòa trong những vấn đề cụ thể, khi có tranh chấp với các quốc gia cũng có tuyên bố đơn phương trong những vấn đề tương tự phát sinh nguyên đơn, bị đơn.
Ở đây, Tòa án không quy định hình thức cụ thể của tuyên bố. Chỉ cần thể hiện rõ quan điểm về việc tòa quốc tế có thẩm quyền xét xử các tranh chấp trong những lĩnh vực cụ thể quốc gia.
Quốc giai cũng có thể rút lại tuyên bố đơn phương và cũng có thể tuyên bố bảo lưu hạn chế bớt những thẩm quyền xét xử của tòa án. Ví dụ: đầu tiên, mỹ tuyên bố đơn phương cho tòa quốc tế có thẩm quyền xét xử tranh chấp trong mọi lĩnh vực. Nhưng sau đó rút lại tuyên bố này và chỉ bảo lưu cho việc áp dụng trong lĩnh vực thương mại, hàng hải’’
Quốc gia có thể rút lại, thậm chí hủy tuyên bố bảo lưu.
Ví dụ: Đầu tiên, Pháp tuyên bố đơn phương cho tòa QT có thẩm quyền xét xử tranh chấp mọi lĩnh vực. Nhưng sau đó đã rút lại tuyên bố này và chỉ bảo lưu cho việc áp dụng trong lĩnh vực thương mại, hàng hải. Cuối cùng Pháp đã rút lại tòan bộ tuyên bố Chỉ giải quyết các tranh chấp pháp lý ( không chính trị ), nếu vừa là pháp lý vừa là chính trị thì tòa sẽ tự quyết định có xét xử hay không dựa trên cơ sở phán quyết của tòa về tính chất của tranh chấp đó.
II.1.2. Tòa án Liên minh châu Âu.
Hiện nay, do nhu cầu hội nhập, đặc biệt là theo mô hình liên kết đặc biệt của Liên minh châu âu (EU), vì thế mà Tòa án liên minh châu âu không chỉ dừng lại ở thẩm quyền của một thiết chế quốc tế đơn thuần mà mà ở một số lĩnh vực nhất định, theo sự thỏa thuận của các nước thành viên thì thẩm quyền giải quyết của Tòa này cũng giống như Tòa án quốc gia. Tranh chấp quốc tế phát sinh chủ yếu thuộc về thẩm quyền giải quyết của Tòa án liên minh châu Âu là những tranh chấp của các thành viên của tổ chức này.
II.1.3. Tòa án Luật biển.
Công Ước quốc tế về luật biển quy định, theo điều 286, bất kỳ tranh chấp nào liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công Ước, theo yêu cầu của một bên tranh chấp, sẽ được đưa ra trước tòa án có thẩm quyền, trừ trường hợp có thể giải quyết bằng các biện pháp khác. Đây là cách tiếp cận vô cùng tiến bộ, buộc các Quốc gia thành viên của Công Ước phải chấp nhận giải quyết tranh chấp thông qua các cơ quan tài phán độc lập.
Theo điều 287 của Công Ước, Quốc gia thành viên có thể đệ trình vụ tranh chấp lên Tòa Án Quốc tế, Toà án Quốc tế về Luật Biển ha