Hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang là xu thế của thời đại và diễn ra ngày càng sâu rộng về nội dung, quy mô trên nhiều lĩnh vực. Trong xu thế đó, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã diễn ra từ lâu, kể từ khi Việt Nam khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước vào năm 1986. Việt Nam đã gia nhập khối ASEAN năm 1995; tham gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) năm 1996
68 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 3040 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng cán cân tài khoản vãng lai Việt Nam và bài học từ Trung Quốc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang là xu thế của thời đại và diễn ra ngày càng sâu rộng về nội dung, quy mô trên nhiều lĩnh vực. Trong xu thế đó, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã diễn ra từ lâu, kể từ khi Việt Nam khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước vào năm 1986. Việt Nam đã gia nhập khối ASEAN năm 1995; tham gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) năm 1996; ký Hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ năm 2000 và ký kết các hiệp định thúc đẩy quan hệ thương mại, đầu tư song và đa phương khác. Đặc biệt từ năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), là mốc son quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, đánh dấu cho việc hội nhập ngày càng sâu rộng với thị trường quốc tế nói chung và trong lĩnh vực tài chính ngân hàng nói riêng. Để nắm bắt được những cơ hội cũng như chủ động đối phó với các thách thức trong quá trình hội nhập, Việt Nam đã và đang tiến hành cải thiện tài khoản quốc gia đặc biệt là cán cân thanh toán quốc tế.
Tài khoản quốc gia là một trong những yếu tố quan nhất của một quốc gia, nó thể hiện một cách bao quát và chính xác nhất tình hình kinh tế trong thời điểm hiện tại, và tạo ra tiền đề để dự báo tiếp trong tương lai. Sau cuộc khủng hoảng tài chính 2008 tài khoản quốc gia lại mang thêm tính quan trọng trong việc đánh giá các nhân tố để dự báo trong việc đầu tư tầm vi và vĩ mô.
Trong tài khoản quốc gia có nhiều yếu tố khác nhau và mỗi yếu tố lại thể hiện mỗi khía cạnh khác nhau của nền kinh tế: GDP, GNP, CPI, tài khoản vãng lai…
Trong bài này nhóm em một xin trình bày một yếu tố của tài khoản quốc gia tại Việt Nam, đó là tài khoản vãng lai.Với các kiến thức mà các thành viên tổng hợp được, nhóm sẽ giới thiệu sơ lược về tài khỏan vãng lai, thực trạng hiện tại và trong những năm gần đây, ngoài ra nhóm sẽ đưa ra một số ý kiến về cách khắc phục những thực trạng đó .
Với lượng kiến thức còn hạn chế, vậy nếu trong bài có gì sai sót thì chúng em mong mong cô hướng dẫn thêm và cho ý kiến để bài này được hoàn thiện hơn.
Nhóm xin chân thành cảm ơn !
PHẦN I.CƠ SỞ LÝ LUẬN
I.GIỚI THIỆU CHUNG
I.1.Tài khoản vãng lai là gì?
Có hai cách nhìn nhận tài khoản vãng lai:
Thứ nhất: Dựa trên góc độ vi mô thì tài khoản vãng lai là tài khoản thanh toán của ngân hàng. Nó được định nghĩa như sau: “Tài khoản vãng lai là một tài khoản tiền gửi của cá nhân hay tổ chức mở tại ngân hàng hoặc tổ chức tài chính nào đó, với mục đích cung ứng một cách nhanh chóng và an toàn phương tiện tiếp cận thường xuyên tới các món tiền gửi theo nhu cầu, thông qua một loạt các kênh khác nhau, vì thế tài khoản này còn có một tên khác là tài khoản tiền gửi thanh toán ”.
Thứ hai: Dựa trên góc độ vĩ mô thì tài khoản này là một phần của tài khoản thanh toán của quốc gia, được định nghĩa như sau: “Tài khoản vãng lai (còn gọi là cán cân vãng lai) trong cán cân thanh toán của một quốc gia ghi chép những giao dịch về hàng hóa-dịch vụ giữa những cá nhân/tổ chức cư trú trong nước với những cá nhân/tổ chức cư trú ngoài nước. Những giao dịch dẫn tới sự thanh toán của cá nhân/tổ chức cư trú trong nước cho cá nhân/tổ chức cư trú ngoài nước được ghi vào bên "nợ" (theo truyền thống kế toán sẽ được ghi bằng mực đỏ-giảm tài khoản vãng lai-), còn những giao dịch dẫn tới sự thanh toán của cá nhân/tổ chức cư trú ngoài nước cho cá nhân/tổ chức cư trú trong nước được ghi vào bên "có" (ghi bằng mực đen-tăng tài khoản vãng lai-). Và tất cả các khoản thanh toán của các bộ phận nhà nước hay tư nhân đều được gộp chung vào trong khoản này.
Trong phần này nhóm sẻ trình bày về tài khoản vãng lai ở cấp độ vĩ mô, là tài khoản vãng lai trong cán cân thanh toán quốc gia.
I.2. Những thành phần chính của tài khoản vãng lai :
Theo quy tắc mới về biên soạn báo cáo cán cân thanh toán quốc gia do IMF soạn năm 1993, tài khoản vãng lai bao gồm:
Cán cân thương mại hàng hóa:
Xuất khẩu.
Nhập khẩu.
Cán cân thương mại phi hàng hóa:
Cán cân dịch vụ :
Vận tải.
Du lịch.
Các dịch vụ khác (bảo hiểm, bưu chính-viễn thông, ngân hàng…).
Cán cân thu nhập:
Kiều hối.
Thu nhập từ đầu tư.
Cán cân chuyển giao vãng lai một chiều.
1.2.1 Cán cân thương mại hàng hóa:
Cán cân thương mại là một mục trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán. Cán cân thương mại ghi lại những thay đổi trong xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa hữu hình của một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định (quý hoặc năm-thông thường là một năm) cũng như mức chênh lệch (xuất khẩu trừ đi nhập khẩu) giữa chúng. Khi mức chênh lệch là lớn hơn 0, thì cán cân thương mại có thặng dư. Ngược lại, khi mức chênh lệch nhỏ hơn 0, thì cán cân thương mại có thâm hụt. Khi mức chênh lệch đúng bằng 0, cán cân thương mại đạt trạng thái cân bằng.
Cán cân thương mại còn được gọi là xuất khẩu ròng hoặc thặng dư thương mại, khi cán cân thương mại có thặng dư, và xuất khẩu ròng/thặng dư thương mại mang giá trị dương. Khi cán cân thương mại thâm hụt ( hay dòng ngoại tệ chảy vào nhỏ hơn dòng ngoại tệ chảy ra) , xuất khẩu ròng/thặng dư thương mại mang giá trị âm lúc này còn có thể gọi là thâm hụt thương mại.
Có nhiều yếu tố tác động đến cán cân thương mại hàng hóa,trong đó nổi lên đặc biệt là xuất khẩu,nhập khẩu và tỉ giá hối đoái:
a.Xuất khẩu:
Xuất khẩu có xu hướng tăng khi GDP tăng và thậm chí nó còn tăng nhanh hơn. Sự gia tăng của nhập khẩu khi GDP tăng phụ thuộc xu hướng nhập khẩu biên (MPZ). MPZ là phần của GDP có thêm mà người dân muốn chi cho nhập khẩu. Ví dụ, MPZ bằng 0,2 nghĩa là cứ 1 đồng GDP có thêm thì người dân có xu hướng dùng 0,2 đồng cho nhập khẩu. Ngoài ra, nhập khẩu phụ thuộc giá cả tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước và hàng hóa sản xuất tại nước ngoài. Nếu giá cả trong nước tăng tương đối so với giá thị trường quốc tế thì nhập khẩu sẽ tăng lên và ngược lại. Ví dụ: nếu giá xe đạp sản xuất tại Việt Nam tăng tương đối so với giá xe đạp Nhật Bản thì người dân có xu hướng tiêu thụ nhiều xe đạp Nhật Bản hơn dẫn đến nhập khẩu mặt hàng này cũng tăng.
Bên cạnh đó,xuất khẩu chủ yếu phụ thuộc vào những gì đang diễn biến tại các quốc gia khác vì xuất khẩu của nước này chính là nhập khẩu của nước khác. Do vậy nó chủ yếu phụ thuộc vào nhu cầu và thu nhập của các quốc gia bạn hàng.Ngoài ra nó còn phụ thuộc vào các yếu tố trong nước: số lượng-chất lượng các sản phẩm, năng lực cạnh trạnh của chính sản phẩm của ngành và của chính phủ quốc gia đó trong mối quan hệ trên thị trường, tình hình kinh tế-chính trị-xã hội…Các yếu tố này có thể ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp lên những mặt hàng xuất khẩu, và tùy mức độ các yếu tố và hàng hóa mà có sức ảnh hưởng lớn hay nhỏ lên tình hình xuất khẩu.
b. Nhập khẩu:
Phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau của thị trường, mà chủ yếu là do hai yếu tố chính: nhu cầu tiêu dùng, và nhu cầu đầu tư của xã hội. Khi nhu cầu của xã hội tăng, trước hết sẻ phải tiêu dùng những mặt hàng trong nước, khi cung không đủ cầu về cả số lượng và chất lượng thì tất yếu phải nhập khẩu, cũng như khi nhu cầu đầu tư tăng thì phải có nguồn cung đủ lớn để đáp ứng, và đặc biệt đối với những trường hợp đầu tư xây dựng cơ bản, khi đó chủ yếu phải nhập khẩu những công nghệ và thiết bị từ những nước có công nghệ nguồn nhằm đáp ứng đủ, đúng, kịp thời cho những dự án đó.
Bên cạnh đó còn có hai yếu tố cơ bản chi phối tình hình nhập khẩu của một quốc gia đó là GDP và tình hình lạm phát, hai yếu tố này có sức ảnh hưởng khá mạnh tới nhu cầu nhập khẩu của nền kinh tế.
c.Tỷ giá hối đoái:
Là nhân tố rất quan trọng đối với các quốc gia vì nó ảnh hưởng đến giá tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước với hàng hóa trên thị trường quốc tế. Khi tỷ giá của đồng tiền của một quốc gia tăng lên thì giá cả của hàng hóa nhập khẩu sẽ trở nên rẻ hơn trong khi giá hàng xuất khẩu lại trở nên đắt đỏ hơn đối với người nước ngoài. Vì thế việc tỷ giá đồng nội tệ tăng lên sẽ gây bất lợi cho xuất khẩu và thuận lợi cho nhập khẩu dẫn đến kết quả là xuất khẩu ròng giảm. Ngược lại, khi tỷ giá đồng nội tệ giảm xuống, xuất khẩu sẽ có lợi thế trong khi nhập khẩu gặp bất lợi và xuất khẩu ròng tăng lên. Ví dụ, một bộ ấm chén sứ Hải Dương có giá 70.000 VND và một bộ ấm chén tương đương của Trung Quốc có giá 33 CNY (Nhân dân tệ). Với tỷ giá hối đoái 2.000 VND = 1 CNY thì bộ ấm chén Trung Quốc sẽ được bán ở mức giá 66.000 VND trong khi bộ ấm chén tương đương của Việt Nam là 70.000 VND. Trong trường hợp này ấm chén nhập khẩu từ Trung Quốc có lợi thế cạnh tranh hơn. Nếu VND mất già và tỷ giá hối đoái thay đổi thành 2.300 VND = 1 CNY thì lúc này bộ ấm chén Trung Quốc sẽ được bán với giá 75.900 VND và kém lợi thế cạnh tranh hơn so với ấm chén sản xuất tại Việt Nam.
Tác động của cán cân thương mại đến GDP :
Đối với một nền kinh tế mở, cán cân thương mại có hai tác động quan trọng: xuất khẩu ròng bổ sung vào tổng cầu (AD) của nền kinh tế; số nhân đầu tư tư nhân và số nhân chi tiêu chính phủ khác đi do một phần chi tiêu bị "rò rỉ" qua thương mại quốc tế.
Xuất khẩu ròng và GDP cân bằng
1.2.2.Cán cân thương mại phi hàng hóa:
a. Cán cân dịch vụ:
Bao gồm các khoản thu chi từ các dịch vụ về vận tải, du lịch, bảo hiểm, bưu chính, viễn thông, ngân hàng, thông tin xây dựng và các hoạt động khác giữa cá nhân/tổ chức cư trú trong nước và nước ngoài. Cũng giống như xuất nhập khẩu hàng hoá xuất nhập khẩu dịch vụ làm phát sinh cung cầu ngoại tệ nên nó được hạch toán vào tài khoản vãng lai, xuất khẩu làm tăng nguồn thu nên được ghi vào bên “có”, còn nhập khẩu dịch vụ sẻ phát sinh nghiệp vụ chi ngoại tệ nên sẻ được ghi vào bên “nợ” của tài khoản vãng lai. Các nhân tố ảnh hưởng lên giá trị xuất nhập khẩu dịch vụ cũng giống như các nhân tố ảnh hưởng lên giá trị xuất nhập khẩu hàng hoá.
b. Cán cân thu nhập:
+ Thu nhập người lao động: là các khoản tiền lương, tiền thưởng và các khoản thu nhập khác bằng tiền hiện vật người cư trú trả cho người không cư trú hay ngược lại. Hay khi thu nhập được chuyển về nước thì sẻ ghi vào bên “có” (tăng tài khoản vãng lai) và ngược lại sẻ ghi vào bên “nợ” (giảm tài khỏa vãng lai).
+ Thu nhập về đầu tư: là các khoản thu từ lợi nhuận đầu tư trực tiếp, lãi từ đầu tư giấy tờ có giá và các khoản lãi đến hạn phải trả cho người không cư trú. (cụ thể: thu nhập về đầu tư chủ yếu là khi những nhà đầu tư trong nước khi đầu tư ra những quốc gia khác và nguồn lợi nhuận sẻ được chuyển về nước do đó sẻ làm tăng tài khoản vãng lai, và ngược lại, khi mà ta phải chuyển lợi nhuận của những nhà đầu tư nước ngoài đến các quốc gia của họ.đầu tư ra nước ngoài có ý nghĩ rất quan trọng đối với Việt Nam:
Thứ nhất, đối với quốc gia:
- Giúp củng cố vai trò chính trị và vị thế kinh tế của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
- Giúp nền kinh tế Việt Nam thâm nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới, thúc đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam.
- Thông qua hoạt động đầu tư ra nước ngoài, Việt Nam có thêm nguồn nguyên liệu, nhiên liệu…phục vụ cho sự phát triển kinh tế trong nước. Ví dụ, đầu tư của Tập đoàn dầu khí Việt Nam vào hoạt động khai thác dầu mỏ tại nhiều nước trên thế giới sẽ tạo nguồn cung cấp cho nhà máy lọc dầu Dung Quất khi mà khả năng khai thác dầu trong nước có xu hướng giảm sút.
- Đầu tư ra nước ngoài tạo tiền đề cho hoạt động kinh tế đối ngoại của VN đa dạng và phong phú, hoạt động ngoại giao đi vào chiều sâu.
- Đầu tư ra nước ngoài thành công sẽ tác động ngược lại nền kinh tế trong nước theo hướng thúc đẩy công cuộc cải tổ nền kinh tế: về thể chế chính sách, về thuế, về thủ tục hành chính, về hệ thống thông tin đối ngoại, về chính sách điều hành vĩ mô.
- Đầu tư ra nước ngoài góp phần tạo đội ngũ thương nhân năng động, có kinh nghiệm kinh doanh quốc tế, góp phần làm tăng năng lực quốc gia.
- Đầu tư ra nước ngoài góp phần thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế của VN theo hướng ổn định và có hiệu quả hơn vì chính cơ sở sản xuất và dịch vụ ở nước ngoài là điểm đến của hàng hóa, thiết bị, bí quyết công nghệ (y khoa, chế biến thực phẩm…), nhân công của Việt Nam.
Thứ hai, đối với doanh nghiệp:
- Đầu tư ra nước ngoài giúp các doanh nghiệp thâm nhập sâu vào thị trường thế giới, tìm kiếm cơ hội đầu tư tốt hơn, nhờ đó mà nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Ví dụ nhiều công ty chế biến mì ăn liền đầu tư vào Nga, Ucraina… đã tạo ra các sản phẩm mì ăn liền hợp với khẩu vị người châu Âu và sử dụng sản phẩm bột mì tại chỗ, nhờ đó mà giảm giá thành sản xuất.
- Đầu tư ra nước ngoài giúp các doanh nghiệp tăng nội lực kinh doanh: tích lũy kinh nghiệm trên thương trường quốc tế; học hỏi tiếp thu công nghệ và bí quyết công nghệ; sử dụng đội ngũ quản lý và khoa học kỹ thuật bản xứ…và áp dụng những thành công ở nước ngoài vào hoạt động kinh doanh của công ty mẹ trong nước.
- Đầu tư ra nước ngoài tạo ra khả năng cho doanh nghiệp thực hiện ”chuyển giá” để giảm thiểu mức thuế đóng góp cho toàn bộ hệ thống công ty đóng ở các nước khác nhau. Nhờ đó mà tối đa hóa lợi nhuận thu được. Hiện nay nhiều công ty VN mở công ty con của mình tại Singapore để thực hiện mục tiêu ”chuyển giá”, vì Singapore có môi trường kinh doanh tốt với hệ thống thuế thấp.
- Đầu tư ra nước ngoài giúp các công ty phát triển vốn vô hình của mình: thương hiệu, công nghệ, bí quyết công nghệ. Ví dụ: thương hiệu cà phê Trung Nguyên, Phở 24, bệnh viện Châm cứu…
- Đầu tư ra nước ngoài giúp doanh nghiệp có điều kiện phân tán rủi ro kinh doanh, điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong thế giới đầy biến động về kinh tế – chính trị như hiện nay.
1.2.3.Cán cân chuyển giao vãng lai một chiều:
Gồm các khoản viện trợ không hoàn lại, quà tặng, quà biếu và các khoản chuyển giao khác bằng tiền, hiện vật…cho mục đích tiêu dùng-viện trợ-hổ trợ-hợp tác… do bên không cư trú chuyển cho bên cư trú và ngược lại. Các khoản chuyển giao vãng lai một chiều phản ánh sự phân phối lại thu nhập giữa bên cư trú với bên không cư trú, các khoản thu làm phát sinh cung ngoại tệ (cầu nội tệ) nên được ghi vào bên “có”, các khoản chi làm phát sinh cầu ngoại tệ nên được ghi vào bên “nợ”.
Việt Nam rất cần những khoản chuyển giao vãng lai một chiều này vì nó góp một phần lớn vào công cuộc phát triển quốc gia, tuy nhiên bên cạnh đó cần phải cân nhắc thật thận trọng vì hầu hết những khoản chuyển giao vãng lai một chiều này thường có kèm theo điều kiện, mà chủ yếu là nhằm vào các điều khoản thương mại hay tài nguyên của quốc gia nhận nguồn vốn này.
Chúng ta thấy rằng cán cân dịch vụ, thu nhập và chuyển giao vãng lai một chiều không thể quan sát bằng mắt thường nên chúng được gọi là cán cân vô hình (invisible) Như vậy, cán cân vãng lai có thể biểu diễn :
Cán cân vãng lai = cán cân hữu hình +cán cân vô hình
Tóm lại, các khoản thu nhập của người cư trú từ người không cư trú làm phát sinh cung ngoại tệ nên dược ghi vào bên có và các khoản thu nhập trả cho người không cư trú làm phát sinh cầu ngoại tệ nên được ghi vào bên nợ. Tất cả các khoản thanh toán của các bộ phận nhà nước hay tư nhân đều được gộp chung vào trong tính toán này. Đối với phần lớn các quốc gia thì cán cân thương mại là thành phần quan trọng nhất trong tài khoản vãng lai. Tuy nhiên, đối với một số quốc gia có phần tài sản hay tiêu sản ở nước ngoài lớn thì thu nhập ròng từ các khoản cho vay hay đầu tư có thể chiếm tỷ lệ lớn.
Vì cán cân thương mại là thành phần chính của tài khoản vãng lai, và xuất khẩu ròng thì bằng chênh lệch giữa tiết kiệm trong nước và đầu tư trong nước, nên tài khoản vãng lai còn được thể hiện bằng chênh lệch này.
I.3.Thặng dư và thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai:
Cán cân vãng lai bao gồm cán cân “Hữu hình” và “Vô hình’, nên nhìn tổng thể thì nó quan trọng hơn cán cân thương mại.
Công thức xác định:
CA = TB + Se + Ic + Tr = Kl + Ks+ êR
+ Cán cân vãng lai thặng dư khi: ( X – M + Se + Ic + Tr ) > 0
Cán cân vãng lai thặng dư (CA > 0) có nghĩa thu từ người không cư trú lớn hơn so với chi cho người không cư trú. Điều này có nghĩa là giá trị ròng của các giấy tờ có giá do người không cư phát hành nằm trong tay người cư trú tăng lên.cung ngoại tề lớn hơn cầu ngoại tệ.
+ Cán cân vãng lai thâm hụt khi: ( X – M + Se + Ic + Tr ) < 0
Cán cân vãng lai thâm hụt ( CA < 0) có nghĩa là thu nhập của người cư trú từ người không cư trú là thấp hơn so với chi cho người không cư trú. Điều này có nghĩa là giá trị ròng của các giấy tờ có giá do người không cư trú phát hành nằm trong tay người cư trú giảm xuống. cung ngoại tệ nhỏ hơn cầu ngoại tệ.
- Hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng, trạng thái cán cân vãng lai là lý tưởng để phân tích trạng thái nợ nước ngoài của quốc gia. Lý do có thể được giả thích như sau: Trạng thái cán cân vãng lai có mối liên hệ trực tiếp với trạng thái tổng nợ nước ngoài của một quốc gia. Cán cân vãng lai cân bằng nói lên rằng tổng nợ nước ngoài của quốc gia là không đổi ( quốc gia không là chủ nợ và cũng không là con nợ ). Cán cân vãng lai thặng dư phản ánh tài sản có ròng của quốc gia đối với phần thế giới còn lại được tăng lên ( vị thế quốc gia là chủ nợ ). Ngược lại cán cân vãng lai thâm hụt phản ánh tài sản nợ ròng của quốc gia đối với nước ngoài tăng lên ( vị thế quốc gia là con nợ).
CA = 0, trong dài hạn
Theo giả thiết cán cân vãng lai cân bằng, nghĩa là:
( X- M + Se + Ic + Tr ) = 0
Vì trong dài hạn hiệu ứng can thiệp của NHTW mang tính trung lập do đó chúng ta có thể coi dự trữ ngoại hối của NHTW thay đổi là bằng 0, tức: êR= 0
- Kl + Ks = 0.có 2 khả năng xảy ra:
+ TH1: Kl 0. nếu luồng vốn ngắn hạn chảy vào càng lớn và được cân đối bởi luồng vốn dài hạn chảy ra, có thể làm cho năng lực thanh toán của quốc gia trong tương lai bị đe dọa, dẫn đến áp lực tăng áp suất và giảm giá nội tệ
+ TH2: Kl > 0 và Ks < 0. nếu luồng vốn dài hạn chảy vào càng lớn và được cân đối bởi luồng vốn ngắn hạn chảy ra, thì sẽ tạo ra môi trường kinh tế vĩ mô ổn định hơn để duy trì ổn định tỷ giá, lãi suất va thực hiện chiến lược phát triển kinh tế quốc gia.
CA = 0 trong ngắn hạn
Trong ngắn hạn, các khoản đầu tư dài hạn coi như không đổi, nghĩa là Kl=0, Ks + êR = 0 có 2 khả năng xảy ra:
+ TH1: êR > 0 và Ks < 0. Dây là trạng thái khi vốn ngắn hạn chảy ra được bù đắp bởi sự giảm sút của dự trữ ngoại hối quốc gia. Trong thực tế tình huống này có thể xảy ra trong ngắn hạn, khi NHTW nỗ lực cân đối các luồng vốn ngắn hạn có tính đầu cơ chảy ra nước ngoài bằng cách can thiệp bán dự trữ trên thị trường noại hối nhằm bảo vệ tỷ giá, tức ngăn ngừa nội tệ giảm giá. Do vậy cho dù trang thái cán cân vãng lai là cân bằng, nhưng vẫn tồn tại áp lực giảm giá nội tệ hoặc phải tăng lãi suất nội tệ, nếu NHTW không tiếp tục can thiệp bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối
+ TH2: êR 0. Đây là trạng thái khi vốn ngắn hạn chảy vào làm tăng ngoại hối dự trữ quốc gia. Trong thực tế, tình huống này có thêr xảy ra, khi NHTW tăng mức lãi suất của nội tệ để ngăn ngừa các luồng vốn ngắn hạn chạy ra và thu hút thêm các luồng vốn ngắn hạn chạy vào nhằm bảo vệ cho tỷ giá không tiếp tục tăng nữa ( tức ngăn không cho nội tệ tiếp tục giảm giá.
Phân tích cán cân vãng lai có ý nghĩa rất quan trọng trong quản lý kinh tế vĩ mô vì tình trạng của cán cân này tác động trực tiếp đến tỷ giá, lãi suất, tăng trưởng kinh tế, lạm phát và cuối cùng tác động đến cán cân tổng thể. Để tác động đến tình trạng của cán cân vãng lai, cần phải có thêm các giải pháp tổng thể về tài khoá và tiền tệ hơn là chỉ các giải pháp về chính sách thương mại quốc tế và tác động vào tâm lý tiêu dùng.
I.4.Những nhân tố tác động đến cán cân tài khoản vãng lai:
Tài khoản vãng lai có nhiều yếu tố, trong đó cán cân thương mại là thành phần chính, ngoại trừ một số quốc gia phát triển có cán cân “vô hình” chiếm tỷ trọng lớn, và cán cân thương mại hàng hóa và dịch vụ đo lường chênh lệch giữa giá trị nhập khẩu và xuất khẩu cho nên coi là một chỉ số thể hiện xu hướng thương mại quốc tế.
Có thể thấy rằng các nước đang phát triển trên thế giới đều có tài khoản vãng lai thâm hụt trong khi đó một vài nền kinh tế mới nổi lại có thể đạt được mức thặng dư. Các nước nghèo thường có cán cân thâm hụt bởi họ phụ thuộc chủ yếu phụ thuộc vào các khoản viện trợ và vay chính thức.
Như vậy không phải mức độ phát triển của một