Chủ trương phát triển Khu công nghiệp ở Việt Nam ra đời cùng với chính sách đổi mới do Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 khởi xướng. Nghị quyết Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VIl năm 1994 trong đó đã nhấn mạnh việc phải xây dựng "Quy hoạch các vùng, trước hết là các dịa bàn trọng điểm, các khu chế xuất, khu kinh tế đặc biệt, khu công nghiệp tập trung". Chủ trương đó tiếp tục được khẳng định qua các văn kiện về đường lối phát triển kinh tế xã hội của Đảng. Văn kiện Đại hội lX về chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2005 khẳng định việc phải "Quy hoạch phân bố hợp lý công nghiệp trên cả nước. Phát triển có hiệu quả các KCN - KCX, xây dựng một số khu công nghệ cao, hình thành các cụm công nghiệp lớn và khu kinh tế mở". Để phát triển các loại hình khu công nghiệp đó cần phải có nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, đó là đất đai.
Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, là nguồn tài nguyên thuộc sở hữu toàn dân, nguồn lực to lớn của đất nước. Đất đai vừa có tỉnh kinh tế, vừa có ý nghĩa chính trị, xã hội sâu sắc. Do đó, các giải pháp về đất đai, những chính sách về sử dụng đất đai vừa phải vì lợt ích chung của xã hội, bảo đảm hài hoà lợi ích của Nhà nước, người đầu tư và người sử dụng đất. Công tác quản lý Nhà nước về đất dai, nhất là trong lĩnh vực sử dụng đất công nghiệp, Nhà nước luôn tạo điều kiện thuận lợi, hấp dẫn các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước có mặt bằng hợp lý, hợp pháp dể thực hiện các dự án đầu tư, yên tâm và tin tưởng đầu tư lâu dài trên phạm vi lãnh thổ nước ta, đòi hỏi các cấp quản lý và các nhà đầu tư, người sử dụng đất có nghĩa vụ: Khai thác, sử dụng đúng mục đích, tiết kiệm và có hiệu quả, phát huy tối đa tiềm năng, nguồn lực về đất.
Việc ra đời các Khu công nghiệp, Khu đô thị và Khu dân cư cần phải thu hồi đất và chuyển mục đích sử dụng đất đai ở nước ta là một tất yếu khách quan. Trong tổng thể đất phi nông nghiệp cả nước, đất dùng để phát triển công nghiệp, các khu chế xuất, các khu công nghiệp, là một bộ phận quan trọng trong cơ cấu sử dụng tài nguyên đất quốc gia. Theo phân loại mới căn cứ vào mục đích sử dụng (Điều 13, Luật Đất đai năm 2003) thì nhóm đất phi nông nghiệp bao gồm 10 loại đất, trong đó nhóm đất dùng cho sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp gồm đất xây dựng, khu công nghiệp, đất làm mặt bằng xây dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh; đất sử dụng cho hoạt động khoáng sản; đất sản xuất vật liệu xây dựng, làm đồ gốm. Riêng đất khu công nghiệp, căn cứ chế độ sử dụng đất bao gồm đất để xây dựng cụm công nghiệp, khu công nghiệp, khu chế xuất và các khu sản xuất kinh doanh tập trung khác có cùng chế độ sử dụng đất (Điều 90 - Luật Đất đai, năm 2003).
Tuy nhiên, hầu hết đất đai được thu hồi lại là đất nông nghiệp và đất cư ngụ của người lao động làm nông nghiệp và người lao động nghèo ven đô thị. Dân cư ở các vùng này thường sống bằng nghề nông: Trồng lúa, màu và rau. Việc thu hồi dất đai của họ tạo ra sự thay đổi về phương án sản xuất mới. Trong dó điều quan tâm nhất là nghề nghiệp và việc làm kiếm sống lâu dài tạo nên sự ổn định về kinh tế - xã hội ở các cộng đồng dân cư ở các dịa phương này.
103 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1294 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng chuyển đổi nghề nghiệp, đào tạo việc làm cho dân cư các vùng nhà nước thu hồi đất phát triển các khu công nghiệp tập trung và đô thị tỉnh Bắc Ninh thời kỳ 2001-2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
HĐND Hội đồng Nhân dân
UBND Uỷ ban nhân dân
TU Tỉnh uỷ
CP Chính phủ
TTg Thủ tướng
XHCN Xã hội chủ nghĩa
KCNTT Khu công nghiệp tập trung
KĐT Khu đô thị
TDTT Thể dục thể thao
THCS Trung học cơ sở
THPT Trung học phổ thông
DNNN Doanh nghiệp nhà nước
HTX Hợp tác xã
Cty TNHH Công ty trách nhiệm hữu hạn
Cty CP Công ty cổ phần
DNTN Doanh nghịêp tư nhân
Trường CNKT Trường công nhân kỹ thuật
CNH, HĐH Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
BHXN Bảo hiểm xã hội
BHYT Bảo hiểm y tế
Chương hai
THỰC TRẠNG CHUYỂN ĐỔI NGHỀ NGHIỆP,
ĐÀO TẠO VIỆC LÀM CHO DÂN CƯ CÁC VÙNG NHÀ NƯỚC
THU HỒI ĐẤT PHÁT TRIỂN CÁC KCN TẬP TRUNG VÀ
ĐÔ THỊ TỈNH BẮC NINH THỜI KỲ 2001-2005
Chủ trương phát triển Khu công nghiệp ở Việt Nam ra đời cùng với chính sách đổi mới do Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 khởi xướng. Nghị quyết Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VIl năm 1994 trong đó đã nhấn mạnh việc phải xây dựng "Quy hoạch các vùng, trước hết là các dịa bàn trọng điểm, các khu chế xuất, khu kinh tế đặc biệt, khu công nghiệp tập trung". Chủ trương đó tiếp tục được khẳng định qua các văn kiện về đường lối phát triển kinh tế xã hội của Đảng. Văn kiện Đại hội lX về chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2005 khẳng định việc phải "Quy hoạch phân bố hợp lý công nghiệp trên cả nước. Phát triển có hiệu quả các KCN - KCX, xây dựng một số khu công nghệ cao, hình thành các cụm công nghiệp lớn và khu kinh tế mở". Để phát triển các loại hình khu công nghiệp đó cần phải có nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, đó là đất đai.
Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, là nguồn tài nguyên thuộc sở hữu toàn dân, nguồn lực to lớn của đất nước. Đất đai vừa có tỉnh kinh tế, vừa có ý nghĩa chính trị, xã hội sâu sắc. Do đó, các giải pháp về đất đai, những chính sách về sử dụng đất đai vừa phải vì lợt ích chung của xã hội, bảo đảm hài hoà lợi ích của Nhà nước, người đầu tư và người sử dụng đất. Công tác quản lý Nhà nước về đất dai, nhất là trong lĩnh vực sử dụng đất công nghiệp, Nhà nước luôn tạo điều kiện thuận lợi, hấp dẫn các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước có mặt bằng hợp lý, hợp pháp dể thực hiện các dự án đầu tư, yên tâm và tin tưởng đầu tư lâu dài trên phạm vi lãnh thổ nước ta, đòi hỏi các cấp quản lý và các nhà đầu tư, người sử dụng đất có nghĩa vụ: Khai thác, sử dụng đúng mục đích, tiết kiệm và có hiệu quả, phát huy tối đa tiềm năng, nguồn lực về đất.
Việc ra đời các Khu công nghiệp, Khu đô thị và Khu dân cư cần phải thu hồi đất và chuyển mục đích sử dụng đất đai ở nước ta là một tất yếu khách quan. Trong tổng thể đất phi nông nghiệp cả nước, đất dùng để phát triển công nghiệp, các khu chế xuất, các khu công nghiệp, là một bộ phận quan trọng trong cơ cấu sử dụng tài nguyên đất quốc gia. Theo phân loại mới căn cứ vào mục đích sử dụng (Điều 13, Luật Đất đai năm 2003) thì nhóm đất phi nông nghiệp bao gồm 10 loại đất, trong đó nhóm đất dùng cho sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp gồm đất xây dựng, khu công nghiệp, đất làm mặt bằng xây dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh; đất sử dụng cho hoạt động khoáng sản; đất sản xuất vật liệu xây dựng, làm đồ gốm. Riêng đất khu công nghiệp, căn cứ chế độ sử dụng đất bao gồm đất để xây dựng cụm công nghiệp, khu công nghiệp, khu chế xuất và các khu sản xuất kinh doanh tập trung khác có cùng chế độ sử dụng đất (Điều 90 - Luật Đất đai, năm 2003).
Tuy nhiên, hầu hết đất đai được thu hồi lại là đất nông nghiệp và đất cư ngụ của người lao động làm nông nghiệp và người lao động nghèo ven đô thị. Dân cư ở các vùng này thường sống bằng nghề nông: Trồng lúa, màu và rau. Việc thu hồi dất đai của họ tạo ra sự thay đổi về phương án sản xuất mới. Trong dó điều quan tâm nhất là nghề nghiệp và việc làm kiếm sống lâu dài tạo nên sự ổn định về kinh tế - xã hội ở các cộng đồng dân cư ở các dịa phương này.
Kề từ khi ra đời đến nay, các KCN, KCX ở Việt Nam đã có rất nhiều đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, trở thành nơi thu hút các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài vào kinh doanh, sản xuất, thu hút nguồn vốn đầu tư cần thiết cho sự phát triển kinh tế bền vững, phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Cùng với sự phát triển của các KCN, KCX là hình thành nên các Khu đô thị, Khu dân cư. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển các KCN, KCX, Khu đô thị… ở Vlệt Nam cũng bộc lộ nhiều vấn đề bất cập cần điều chỉnh, hoàn thiện để các KCN, KCX, Khu đô thị Việt Nam phát triển theo hướng chất lượng, hiệu quả và bền vững, không dừng lại ở việc tăng số lượng. Một trong những vấn đề nổi cộm nhất hiện nay là làm thế nào để có được nguồn lao động có chất lượng cao. Do vậy, chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm là một vấn đề quan trọng tạo việc làm, có nguồn lao động dồi dào cung ứng cho các doanh nghiệp, và vấn đề cốt lõi là làm thế nào để tăng nguồn thu nhập cho người dân có đất chuyển đồi làm KCN, KCX, Khu đô thị.
Bắc Ninh hiện nay đang là một tỉnh phát triển nhiều Khu công nghiệp và Khu đô thị, với diện tích gần 800 km2, dân số hơn 1 triệu người. Bắc Ninh có lợi thế về vị trí địa lý, nằm trong vùng Châu thổ Sông Hồng, cửa ngõ phíạ Bắc của thủ đô Hà Nội, nằm trong tam giác phát triển kinh tế trọng điểm Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Bắc Ninh rất thuận lợi về giao thông đường thuỷ, đường bộ và đường hàng không. Không chỉ là mảnh đất "địa linh nhân kiệt", tỉnh Bắc Ninh còn là nơi hội tụ của nhiều làng nghề truyền thống nổi tiếng trong và ngoài nước như: tơ tằm Nội Duệ, đồ gỗ mỹ nghệ Phù Khê - Đồng Kỵ, tranh Đông Hồ, đúc đồng Đại Bái. Cùng với việc phát triển các KCN, Khu đô thị tại Bắc Ninh thì diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp lại là điều kiện tất yếu khách quan, có những địa phương sẽ phải thu hồi hết diện tích sản xuất nông nghiệp. Do vậy, vấn đề tạo việc làm, chuyển đổi nghề nghiệp cho dân cư các địa phương đang là vấn đề có tính chất thời sự và có tầm quan trọng cấp bách cần được nghiên cứu và có biện pháp giải quyết.
I. PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP, ĐẨY MẠNH QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ TỈNH BẮC NINH C¸c sè liÖu trong môc nµy do Ban qu¶n lý KCN tØnh B¾c Ninh cung cÊp—Th¸ng 12/2005
.
Nghị Quyết số 02-NQ/TƯ ngày 04/5/2001 của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh về xây dựng và phát triển các KCN, cụm công nghiệp, là Nghị quyết chuyên đề cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI, quán triệt và vận dụng chủ trương của Đảng về công nghiệp hoá, hiện đại hoá vào điều kiện cụ thể của địa phương.
Mục tiêu của Nghị quyết 02-NQ/TƯ là: "Phấn đấu đến năm 2005, lấp đầy 50-60% diện tích đất đã quy hoạch của 2 KCN tập trung Tiên Sơn, Quế Võ. Mỗi huyện có ít nhất một cụm công nghiệp. Lấp đầy diện tích các cụm công nghiệp đã được phê duyệt, các cụm khác có từ 5 -10 nhà đầu tư thuê mặt bằng".
Nghị quyết 02-NQ/TƯ là chủ trương đúng đắn, phù hợp với đường lối, chính sách phát triển kinh tế của Đảng và nhà nước, phù hợp với nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân trong tỉnh. Nghị quyết đã đi vào thực tiễn cuộc sống.
1. Thành tựu đạt được trong 5 năm xây dựng phát triển KCN (2001- 2005).
Tính từ khi khởi công KCN đầu tiên là KCN Tiên Sơn tháng 12/2000, đến nay tỉnh đã có 03 KCN tập trung được Thủ tướng Chính phủ thành lập; 03 KCN nữa (Yên Phong, Quế Võ II và mở rộng KCN Quế Võ) đang được quy hoạch, xúc tiến các thủ tục thành 1ập; dự kiến sẽ phát triển thêm 2-3 Khu, nâng tổng số các KCN tập trung đến 2010 khoảng 7-9 Khu, với diện tích quy hoạch hơn 3.000 ha. Đồng thời, 23 cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp làng nghề cũng được quy hoạch và xây dựng, diện tích quy hoạch các cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp làng nghề khoảng 500 ha.
Đến hết tháng 11/2005, các KCN Bắc Ninh đã có 157 Dự án được cấp giấy phép đầu tư (có hiệu lực), với tổng vốn đăng ký 583,02 triệu USD, trong đó có 123 dự án vốn đầu tư trong nước với số vốn đăng ký 6582,61 tỷ đồng (tuơng đương 414,26 triệu USD) và 34 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với số vốn 168,76 triệu USD, diện tích đất cho thuê 450 ha, tỷ lệ 1ấp đầy bình quân chung các KCN đạt 55% (450/817 ha) đất công nghiệp cho thuê.
Riêng 11 tháng năm 2005, trong các KCN tập trung đã thu hút hơn 44 dự án cấp phép mới và 35 dự án điều chỉnh tăng vốn, với tổng số vốn đạt 236,9 triệu USD bằng 68% (236,9 triệu USD/346,03 triệu USD) của tất cả các năm trước cộng lại (2001-2004), chiếm 40,62% (236,9 triệu USD/583,02 triệu USD) tổng số vốn đầu tư đã thu hút đến nay. Các KCN đã xúc tiến đầu tư đón nhận một số dự án 1ớn, công nghệ cao có tác động dẫn dắt thu hút các ngành công nghiệp phụ trợ, vệ tinh phát triển như: Dự án Canon, dự án Mitac, Sentec vào KCN Quế Võ kéo theo một loạt các dự án đầu tư nước ngoài vệ tinh cùng vào. KCN Tiên Sơn đã kêu gọi được dự án lớn về chế biến nông sản công nghệ cao có tác động mạnh đến kinh tế địa phương như dự án Công ty Bia Việt Hà (đã khởi công ngày 2/12/2005), dự án nhà máy chế biến sữa của Công ty cổ phần sữa Việt Nam khởi công cuối tháng 12/2005 và hiện nay đang đón nhận nhiều nhà đầu tư lớn của Nhật Bản đến tìm hiểu như: Tập đoàn Sumitomo, Yamaha, Mitsustar... KCN Yên Phong động thổ tháng 12/2005 cùng với 2 dự án lớn (Dự án nhà máy rượu liên doanh giữa Thái Lan với Công ty Rượu Hà Nội 40 triệu USD; Dự án nhà máy gạch ốp lát của Công ty gạch ốp lát Thăng Long 15 triệu USD). Các KCN Bắc Ninh ngày càng hội tụ thêm nhiều doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế và quốc tịch khác nhau.
Đến nay,đã có 55 dự án đi vào hoạt động, phát huy được khoảng 45% năng lực thiết kế, (bằng 1/3 số dự án được cấp phép), có sản phẩm đưa ra thị trường; tuyển dụng gần 8.500 lao động trong đó 52,3% là lao động địa phương; giá trị sản xuất công nghiệp năm 2005 ước đạt 1.800 tỷ đồng, gấp 2,74 lần so với năm 2004.
Các KCN được quy hoạch, đầu tư phát triển cùng với mạng lưới hạ tầng kỹ thuật của tỉnh đã tạo cho Bắc Ninh một diện mạo mới về công nghiệp-đô thị: đồng thời tạo ra sự phân bố 2 vùng kinh tế rõ rệt. Các huyện phía Bắc phát triển công nghiệp, các huyện phía Nam phát triển nông nghiệp. Việc hoạch định chính sách để phát triển cân đối, phát huy 1ợi thế cả 2 vùng đang là vấn đề lớn đặt ra đối với các ngành, các cấp tỉnh Bắc Ninh.
Các KCN và cụm công nghiệp, làng nghề đã góp phần đẩy nhanh chuyển dich cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực. Năm 2001 cơ cấu kinh tế của tỉnh là công nghiệp-xây dựng cơ bản 37,6%, nông nghiệp 34,2%, dịch vụ 28% thì năm 2005 cơ cấu kinh tế là:.CN-XDCB 47,2%, dịch vụ 27,8%, nông nghiệp 25,0%; mức tăng trưởng kinh tế chung của tỉnh, bình quân trong 5 năm qua là 13,9%.
Các KCN đã và đang ngày càng trở thành nhân tố tích cực, là một trong những giải pháp hàng đầu và động lực thúc đẩy tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá tỉnh Bắc Ninh.
2. Khó khăn và vấn đề đặt ra.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là thúc đẩy 1ực lượng sản xuất phát triển. Phát triển các KCN 1à giải pháp quan trọng nhất thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Do đó phát triển KCN như thế nào cho phù hợp và đáp ứng yêu cầu vừa phát triển tuần tự vừa rút ngắn đi tắt đón đầu, đạt hiệu quả bền vững thì mỗi quốc gia, thậm chí ngay mỗi địa phương tuỳ theo điều kiện, vị trí địa lý và lợi thế riêng đều phải tự tìm cho mình hướng đi thích hợp.
Nhìn ra thế giới, Đài Loan là một nước thành công trong việc xây dựng phát triển các KCN, đã trải qua 2 giai đoạn:
- Giai đoạn đầu (l960-1969): được đánh giá là giai đoạn thử nghiệm phát triển các KCN theo chiều rộng.
Giai đoạn 2 (Từ 1969 đến nay): vừa mở rộng về số lượng, vừa nâng cao chất lượng các KCN; hình thành các KCN đa ngành, các KCN chuyên ngành, các KCN công nghệ cao kết hợp nghiên cứu-triển khai (R&D). Các nước khác Trung Quốc, Thái Lan, Singapore . . . cũng như vậy.
Nhìn sang các tỉnh bạn có điều kiện tương đồng với Bắc Ninh:
Các tỉnh phía Nam như Đồng Nai, Bình Dương đều có nhiều lợi thế để phát triển KCN như: Giáp Thành phố Hồ Chí Minh, giao thông hạ tầng thuận lợi, diện tích đất tự nhiên rộng, chi phí đầu tư hạ tầng thấp, có tiền đề phát triển khu công nghiệp, chế xuất từ những năm 60. Điều đó cho phép các tỉnh này phát triển khu công nghiệp theo cả chiều rộng và chiều sâu.
Hiện nay tỉnh Đồng Nai có 16 KCN với diện tích gần 5.000 ha, có 645 dự án vốn đăng ký 6,8 tỷ USD; đang quy hoạch thêm các KCN để đến năm 2010 tổng diện tích KCN của Đồng Nai khoảng 12.000 ha. Tỉnh Bình Dương có 12 KCN và 8 cụm công nghiệp với diện tích 2.887 ha (đã có 655 dự án với số vốn đăng ký 2,55 tỷ USD); đang quy hoạch thêm 13 KCN và Khu liên hợp công nghiệp đô thị, dịch vụ để đến năm 2010 tổng diện tích các KCN và đô thị lên đến 19.000 ha.
Các tỉnh phía Bắc như Vĩnh Phúc, Hải Dương, Hưng Yên cũng có lợi thế lớn để phát triển các KCN là: gần Thủ đô Hà Nội, có hệ thống hạ tầng kỹ thuật giao thông thuận lợi, diện tích đất tự nhiên rộng. Hải Dương và Vĩnh Phúc đều có tiền đề phát triển công nghiệp sớm hơn Bắc Ninh. Các tỉnh này đã và đang tận dụng triệt để lợi thế sẵn có phát triển các KCN đa ngành dọc trục đường giao thông lớn, tranh thủ gọi dự án vốn FDI.
Hiện tại tỉnh Vĩnh Phúc có 7 KCN với 413 dự án đầu tư, tổng số vốn khoảng 1,9 tỷ USD. Đến 2010, sẽ quy hoạch thêm 12 KCN nữa, với tổng diện tích khoàng hơn 5.000 ha.
Hầu hết các tỉnh, giai đoạn ban đầu đều phát triển các KCN theo chiều rộng, có nơi biến KCN thành. "Túi đựng doanh nghiệp" nên đã xuất hiện những vấn đề nan giải khó giải quyết như: Lao động, nhà ở, trường học, bệnh viện, ô nhiễm môi trường, trật tự an ninh… thậm chí có nơi còn làm biến dạng kết cấu không gian quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội. Điều đó muốn nói rằng cần có nhận thức và cách đi đúng về phát triển các KCN.
Đối với Bắc Ninh, một tỉnh có nhiều thuận lợi về vị trí địa lý, hạ tầng giao thông, có nhiều làng nghề, có lịch sử truyền thống văn hóa cao. Nhưng diện tích đất tự nhiên hẹp nhất nước, mật độ dân số cao, đất làm công nghiệp chủ yếu là đất nông nghiệp, chi phí đầu tư hạ tầng tốn kém, khó khăn trong bồi thường giải phóng mật bằng. . . Nếu phát triển KCN chỉ theo chiều rộng thì điều kiện quỹ đất đai không cho phép và khó có thể vưọt lên để giành vi trí xếp hạng cao được, do đó chúng ta phải tính đến khả năng phát triển theo chiều sâu. Thực tế trong 5 năm xây dựng, diện mạo các KCN là tập trung đa ngành; công tác quy hoạch đã gắn với quy hoạch phát triển đô thị; đâu tư xây dựng hạ tầng đã tính đến sự đồng bộ và đảm bảo yếu tố môi trường; đã lường trước vấn đề nhà ở, y tế, trường học, sinh hoạt văn hoá, tinh thần cho người lao động; có chính sách trải thảm đỏ.Song trong triển khai thu hút đầu tư ban đầu do thiếu kinh nghiệm nên hiệu quả chưa cao, một số dự án đã phải rút giấy phép đầu tư.
II. THỰC TRẠNG THU HỒI VÀ CHUYỂN MỤC ĐÍCH SỬ DỤNG ĐẤT TỈNH BẮC NINH Sè liÖu t¹i môc nµy do Së Tµi nguyªn vµ M«i trêng tØnh B¾c Ninh cung cÊp-Th¸ng 12/2005
.
1. Tình hình thực hiện việc giao đất, cho thuê đất để sử dụng vào mục đích chuyên dùng và đất ở từ năm 2001 đến 30/9/2005
Thủ tường Chính phủ đã phê duyệt kế hoạch sử dụng đất (KHSDĐ) 5 năm (2001- 2005) tỉnh Bắc Ninh tại Quyết định số 1214/QĐ- TTg ngày 7/11/2003, cho phép tỉnh Bắc Ninh được chuyển 3.750,44ha đất để sử dụng vào mục đích chuyên dùng và đất ở, trong đó: Đất chuyên dùng 3.154,96ha, đất ở là 595,48ha, trong đó:
- Năm 2001 292,95 ha
- Năm 2002 466, 17 ha
- Năm 2003 1.003,76 ha
- Năm 2004 1.056,00 ha
- Năm 2005 931,56 ha
Kết quả thực hiện kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2001 - 2005) tỉnh Bắc Ninh từ năm 2001 đến 30/9/2005 của từng loại đất được thể hiện ở bảng sau:
Bảng …..
Kết quả thực hiện kế hoạch sử dụng đất từ năm 2001-30/9/2005 tỉnh Bắc Ninh
Hạng Mục
Chỉ tiêu
được duyệt
Kết quả thực hiện
Tỷ lệ thực hiện (%)
Tổng số
2001
2002
2003
2004
30/9/2005
I. Đất chuyên dùng
3154,96
2657.30
203.10
220.74
641.22
1136.21
456.03
84.23
1. Đất xây dựng
2015.98
1685.60
107.58
147.90
441.87
680.85
307.40
83.61
1.1. Xây dựng công nghiệp
1347.14
1257.94
43.00
112.21
352.82
543.52
206.39
93.38
1.2. Thương mại dịch vụ
148.46
150.99
22.40
10.98
30.28
37.29
50.04
101.70
1.3. Xây dựng trụ sở cơ quan
52.16
42.73
9.78
10.58
4.71
7.75
9.91
81.92
1.4. Xây dựng trường học
208.23
133.97
21.54
10.72
24.97
63.61
13.13
64.34
1.5. Sự nghiệp y tế
21.11
8.57
3.15
1.60
3.68
0.14
0.00
40.60
1.6. Sự nghiệp TDTT
211.01
54.33
5.22
1.22
17.82
23.38
6.69
25.75
1.7. Công trình cộng cộng khác
27.87
37.07
2.49
0.59
7.59
5.16
21.24
133.01
2. Đất giao thông
554.73
549.25
39.54
43.01
138.00
220.65
108.05
99.01
3. Đất thuỷ lợi
206.3
137.94
41.60
19.62
23.85
45.80
7.07
66.86
4. Đất di tích LSVH
10.01
1.00
1.00
9.99
5. Đất quốc phòng an ninh
16.3
7.33
1.89
0.11
2.00
1.48
1.85
44.97
6. Đất nghĩa địa
27
14.79
1.80
0.28
12.71
0.00
54.78
7. Khai thác đất
20.5
5.09
3.50
1.59
0.00
24.83
8. Đất chuyên dùng khác
304.14
256.30
7.19
10.10
35.22
173.13
30.66
84.27
II. Đất ở
595.48
497.09
23.58
44.01
113.78
252.71
63.01
83.48
1. Đất ở đô thị
414.1
342.25
8.13
18.80
81.51
183.82
49.99
82.65
2. Đất ở nông thôn
181.38
154.84
15.45
25.21
32.27
68.89
13.02
85.37
Tổng số
3750.44
3154.39
226.68
264.75
755.00
1388.92
519.04
84.11
Như vậy, từ năm 2001 đến hết tháng 9 năm 2005, toàn tỉnh đã thực hiện việc giao đất, cho thuê đất vào mục đích chuyên dùng và đất ở được 3.154,39 ha, đạt 84,11 % so với KHSDĐ 5 năm được duyệt, trong đó đất chuyên dùng thực hiện được 2.657,3ha đạt 84,23%, đất ở thực hiện được 497,09ha, đạt 83,48% kế hoạch.
Kết quả được phân theo các năm như sau:
Năm 2001 226,68 ha, đạt 77,38% kế hoạch năm Năm 2002 264,66 ha, đạt 56,77 kế hoạch năm
Năm 2003 755,00 ha, đạt 75,22% kế hoạch năm Năm 2004 1.388,92ha, đạt 131,5% kế hoạch năm Đến 30/9/2005 519,04ha, đạt 55,7% kế hoạch năm
Từ kết quả trên cho thấy nhu cầu sử dụng đất của các năm sau có xu hướng cao hơn năm trước và xu hướng đó còn tăng ở những năm tiếp theo. Đặc biệt là ở các loại đất như: đất phát triển công nghiệp, đất thương mại - dịch vụ, đất giao thông và đất ở tại các khu đô thị mới. Kết quả giao đất, cho thuê đất đã đáp ứng được phần lớn nhu cầu sử dụng đất để xây dựng các công trình trọng điểm của quốc gia, của tỉnh và của các huyện, thị xã tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự nghiệp giáo dục, văn hoá - thể thao, kết cấu hạ tầng cho sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh và làm tiền đề cho việc thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài tỉnh. Kết quả từ 20001 đến 9/2005 toàn tỉnh cụ thể như sau:
1.1. Đất xây dựng phát triển công nghiệp.
Đã giao đất cho các tổ chức kinh tế đầu tư kinh doanh, xây dựng kết cấu hạ tầng để phát triển công nghiệp, cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thuê đất được l.257,94ha, đạt 93,3% so với kế hoạch, đáp ứng nhu cầu sử dụng đất cho phát triển công nghiệp của tỉnh như: Khu công nghiệp Tiên Sơn đã thu hồi được 291ha cho 62 tổ chức thuê đất; Khu công nghiệp Quế Võ và khu liền kề đã thu hồi được 314,39ha, giải phóng mặt bằng được 211,73ha, có 35 tổ chức được cấp phép đầu tư. Khu công nghiệp Đại Đồng - Hoàn sơn đã cho 25 tổ chức thuê đất với diện tích 149,09ha, khu công nghiệp công nghệ thông tin 54,53ha. Đối với cáe cụm công nghiệp làng nghề và đa nghề theo quy hoạch được duyệt là 39 khu với diện tích 715ha, đến nay UBNĐ tỉnh đã ra quyết định thu hồi đất cho 17 khu với diện tích 361,28ha. Cho 196 tổ chức và cho 503 hộ thuê đất để sản xuất kinh doanh. Trong đó:
Khu công nghiệp làng nghề Châu Khê 22,78ha, khu công nghiệp Mả Ông 4,8ha, khu công nghiệp Lỗ Xung 9,7ha, KCN làng nghề Đồng Quang 12,6ha, KCN làng nghề Đồng Quang đạt chuẩn môi trường 29,6ha, khu công nghiệp Tân Hồng - Đồng Quang 12,00ha, khu công nghiệp Đồng Nguyên - Đồng Quang 49,66ha, khu công nghiệp làng nghề công nghệ cao Tam Sơn 13,3ha, khu công nghiệp Phú Lâm 21,73ha, khu công nghiệp Phong Khê 12,6ha, khu công nghiệp Võ Cường 6,8ha, khu công nghiệp Khắc Niệm 56,28ha, khu công nghiệp Phương Liễu - Nhân Hoà 13,63ha, khu công nghiệp Xuân Lâm - Thuận Thành 23,17ha, khu công nghiệp Chờ - Yên Phong 57,5ha, khu công nghiệp làng nghề Quảng Bố 9,6ha, khu công nghiệp làng nghề Đại Bái 5,5ha và một số khu nhỏ khác.
1.2. Đất thương mại dịc