Đối với nước ta, sự xuất hiện của nền kinh tế tri thức là cơ hội lớn để đẩy nhanh công nghiệp hóa hiện đại hóa, phát triển lực lượng sản xuất đi lên xã hội chủ nghĩa. Nếu như không biết tận dụng cơ hội này để đổi mới cách nghĩ cách làm, nâng cao năng lực nội sinh, bắt kịp tri thức của thời đại, thì không thể đi tắt đón đầu và sẽ tiếp tục tụt hậu xa.
21 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1511 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng của nền kinh tế tri thức ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A, PHẦN MỞ ĐẦU.
1, Tính cấp thiết của đề tài.
Đối với nước ta, sự xuất hiện của nền kinh tế tri thức là cơ hội lớn để đẩy nhanh công nghiệp hóa hiện đại hóa, phát triển lực lượng sản xuất đi lên xã hội chủ nghĩa. Nếu như không biết tận dụng cơ hội này để đổi mới cách nghĩ cách làm, nâng cao năng lực nội sinh, bắt kịp tri thức của thời đại, thì không thể đi tắt đón đầu và sẽ tiếp tục tụt hậu xa.
Vỡ vậy, việc tìm hiểu khái niệm, bản chất và xu hướng phát triển của kinh tế tri thức đồng thời tìm hiểu thực trạng,cơ hội, thách thức và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam trước xu thế phát triển của kinh tế tri thức, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp để phát triển nền kinh tế tri thức ở Việt Nam.
2, Nhiệm vụ của đề tài:
- Luận giải những vấn đề lý luận về kinh tế tri thức.
+ Khái niệm của kinh tế tri thức
+ Đặc điểm của nền kinh tế tri thức.
- Đánh giá thực trạng về nền kinh tế tri thức của Việt Nam.
+ Những việc đó làm được.
+ Những việc có thể làm nhưng chưa làm được.
+ Triển vọng từng bước phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam.
- Đề xuất những giải pháp nhằm phát triển nền kinh tế tri thức ở Việt Nam.
+ Thứ nhất, phải đổi mới cơ chế và chính sách, tạo lập một khuôn khổ pháp lý mới, phù hợp với sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa.
+ Thứ hai, chăm lo phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài.
+ Thứ ba, tăng cường năng lực khoa học và công nghệ quốc gia.
+ Thứ tư, đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
B, NỘI DUNG
I, Những vấn đề lý luận chung về kinh tế tri thức .
I.1. Khái niệm và đặc điểm của kinh tế tri thức.
I.1.1. Khái niệm.
ở Việt Nam, từ cuối những năm 90 của thế kỷ trước, chủ đề “kinh tế tri thức” đã được đề cập, bàn bạc rộng khắp, đặc biệt lμ trong giới các nhà nghiên cứu, các nhμ hoạch định chính sách, các nhμ quản lý… “Kinh tế tri thức” đã được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau, với những chiều kích, tầm mức, phạm vi… khác nhau. Trong không ít hội nghị, hội thảo, bμi vở, sách báo và cả các công trình nghiên cứu khoa học, người ta đã bμn đến nhiều định nghĩa khác nhau về kinh tế tri thức, tuy nhiên trong các văn bản chính thức của Đảng và Nhà nước ta, chưa có văn bản nμo nêu ra định nghĩa về kinh tế tri thức. Mặc dù vậy, trong số những định nghĩa về kinh tế tri thức được bàn đến, dường như có một định nghĩa nổi lên và được công nhận bởi nhiều người. Đó là định nghĩa do OECD và APEC nêu ra năm 2000, định nghĩa rằng: “Kinh tế tri thức lμ nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, truyền bá và sử dụng tri thức là động lực chủ yếu nhất của sự tăng trưởng, tạo của cải, tạo việc lμm trong tất cả các ngành kinh tế”. Định nghĩa nμy nhấn mạnh việc sử dụng tri thức trong tất cả các lĩnh vực kinh tế. Nhiều ng−ời cho rằng sự xuất hiện của kinh tế tri thức đánh dấu sự chấm hết của xã hội công nghiệp hiện đại lấy “t− bản” lμm hạt nhân, vμ báo hiệu sự ra đời của xã hội hậu công nghiệp lấy “tri thức” lμm hạt nhân.
Tuy hiện nay Việt Nam ch−a xây dựng một chiến l−ợc phát triển kinh tế tri thức, giống nh− một số n−ớc khác trong khu vực vμ trên thế giới, song một số văn bản chính thức của Đảng vμ Nhμ n−ớc ta đã khẳng định công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá n−ớc ta rất coi trọng vận dụng các yếu tố của kinh tế tri thức. Vì vậy, nhiều nhμ nghiên cứu vμ nhμ hoạch định chính sách cho rằng quá trình phát triển kinh tế tri thức vμ quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở n−ớc ta có mối gắn kết chặt chẽ với nhau. Nghị quyết Hội nghị Trung −ơng 7 Khoá VII của Đảng ta đã chỉ rõ: “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá lμ quá trình chuyển đổi căn bản, toμn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ vμ quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công lμ chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, ph−ơng tiện vμ ph−ơng pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp vμ tiến bộ khoa học- công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”. Định nghĩa nμy đã nêu rõ mức độ (căn bản, toμn diện), phạm vi (sản xuất, kinh doanh, dịch vụ vμ quản lý kinh tế, xã hội), ph−ơng tiện (công nghệ hiện đại), cơ sở, tức lμ chỗ dựa (công nghiệp vμ công nghệ), mục đích trực tiếp (năng suất lao động xã hội cao) của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở n−ớc ta, nhằm đạt mục tiêu n−ớc ta cơ bản trở thμnh một n−ớc công nghiệp vμo năm 2020.
Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ IX của Đảng đã nhận định: “Thế kỷ 21 sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi. Khoa học vμ công nghệ sẽ có b−ớc tiến nhảy vọt. Kinh tế tri thức có vai trò ngμy cμng nổi bật trong quá trình phát triển lực l−ợng sản xuất”. Chiến l−ợc phát triển kinh tế- xã hội giai đoạn 2001-2010 của n−ớc ta đ−ợc thông qua tại Đại hội IX của Đảng đã xác định: “Con đ−ờng công nghiệp hoá, hiện đại hoá của n−ớc ta cần vμ có thể rút ngắn thời gian, vừa có những b−ớc tuần tự, vừa có b−ớc nhảy vọt. Phát triển những lợi thế của đất n−ớc, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt lμ công nghệ thông tin vμ công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngμy cμng nhiều hơn, ở mức cao hơn vμ phổ biến hơn những thμnh tựu mới về khoa học vμ công nghệ, từng b−ớc phát triển kinh tế tri thức”. Vấn đề cốt lõi vμ thiết thực ở đây lμ lμm rõ mối quan hệ hai chiều giữa công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân với phát triển kinh tế tri thức. Có mạnh dạn đi ngay vμo phát triển kinh tế tri thức mới có khả năng thay đổi ph−ơng thức vμ đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thực hiện đ−ợc các mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội đến năm 2020. Hay nói cách khác, phát triển kinh tế tri thức tạo điều kiện cho việc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá “rút ngắn” ở n−ớc ta. Ng−ợc lại, việc thực hiện các b−ớc đi vμ mục tiêu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo ra kết cấu hạ tầng kỹ thuật vμ hạ tầng xã hội cho phát triển kinh tế tri thức, tăng thêm điều kiện phát triển kinh tế tri thức.
Cũng nh− vậy, phát triển kinh tế tri thức có quan hệ khăng khít với phát triển nền kinh tế thị tr−ờng định h−ớng XHCN. Kinh tế tri thức mang lại chất l−ợng, năng suất, hiệu quả vμ sức cạnh tranh cao cho kinh tế thị tr−ờng, vμ kinh tế thị tr−ờng cởi mở cả trong n−ớc vμ với thế giới qua việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế lμ khung khổ thuận lợi cho sự phát triển kinh tế tri thức.
Xét trong điều kiện thực tế của n−ớc ta hiện nay, giữa công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất n−ớc với phát triển kinh tế tri thức vμ phát triển nền kinh tế thị tr−ờng định h−ớng XHCN có mối quan hệ t−ơng tác, thúc đẩy lẫn nhau chặt chẽ.
I.1.2. Đặc điểm của kinh tế tri thức.
I.1.2.1 Lao động cơ bắp từng bước được thay thế bằng lao động trí tuệ, nhưng lao động cơ bắp không mất đi.
Lao động là hoạt động có ý thức của con người nhằm tạo ra những giá trị sử dụng đáp ứng nhưng nhu cầu đa dạng của con người. Bởi vậy, ngay khi có con người, hoạt động sản xuất của họ đó cú hai phần: lao động cơ bắp và lao động trí tuệ. Cùng với sự phát triển của xó hội, đặc biệt là sự phát triển của cách mạng công nghiệp, cách mạng khoa học, kỹ thuật rồi của cách mạng khoa học, công nghệ, cũng như để sử dụng có hiệu quả những thành tựu do các cuộc cách mạng đó mang lại, năng lực trí tuệ của người lao động không ngừng được nâng cao, phần giá trị do lao động trí tuệ của họ tạo ra trong qỳa trỡnh sản xuất và được kết tinh ở sản phẩm ngày càng tăng. Từ chỗ chiếm một tỷ trọng rất không đáng kể ớ các thời kỳ tiền cách mạng công nghiệp, ngày nay, ở các nước phát triển, đối với một số loại sản phẩm có hàm lượng trí tuệ cao, hàm lượng giá trị do trí tuệ tạo ra và được kết tinh trong sản phẩm có thể đạt tới 80 - 90% tổng giá trị sản phẩm. Đối với các loại sản phẩm đó, nguyên vật liệu, năng lượng, lao động cơ bắp chỉ tạo thành từ 10% - 20% giá trị sản phẩm.
Không chỉ như vậy, hoạt động trực tiếp tạo ra sản phẩm khụng cũn là cụng việc của riờng người lao động, mà của cả một bộ phận ngày càng tăng lên những người trực tiếp quản lý quỏ trỡnh sản xuất, những kỹ sư, những nhà công nghệ...
Sự thay đổi đó là xu thế khách quan, mang tính tiến bộ và ngày càng mở rộng. Nó làm cho tài nguyên thiên nhiên, lao động cơ bắp mặc dù vẫn là nhưng thứ không thể thiếu trong nền sản xuất xó hội, nhưng ngày càng mất giá.
Mức đóng góp của tri thức và kỹ thuật đối với tăng trưởng kinh tế ngày càng lớn. Do vai trũ và vị trớ ngày càng lớn của tri thức trong nền kinh tế, do thụng tin và tri thức ngày càng trở thành nguồn lực phỏt triển kinh tế chủ yếu, nờn cơ cấu đầu tư để phát triển lực lượng sản xuất có những thay đổi rất lớn. Ở Hoa Kỳ, mỗi năm số tiền chi vào việc sản xuất tri thức và các hoạt động liên quan khác chiếm khoảng 20% GDP, trong đó, chi phí cho giáo dục chiếm 10% GDP. Ngày càng có nhiều giá trị gia tăng kinh tế do trí tuệ tạo ra.
I.1.2.2 Yếu tố trớ tuệ quan trọng hơn yếu tố vật liệu tự nhiên trong tư liệu sản xuất
Trong nền kinh tế tri thức, mối tương quan giữa các yếu tố cơ bản cấu thành tư liệu sản xuất có sự thay đổi rất lớn.
Tư liệu sản xuất bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động. Trong các nền kinh tế trước, đối tượng lao động chủ yếu là những bộ phận của tự nhiên, trong nền kinh tế tri thức, đối tượng lao động ngày càng là sản phẩm của lao động, của khoa học, công nghệ mà hàm lượng vật liệu tự nhiên trong đó ngày càng giảm. Do vậy, đó sẽ là một nền kinh tế tiết kiệm tài nguyên, không phụ thuộc một cách tiên quyết vào nguồn tài nguyên thiên nhiên, mà phụ thuộc chủ yếu vào tài nguyên con người với năng lực trí tuệ cao.
Lao động quá khứ được kết tinh trong máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu... Liên quan tới những nhân tố này, trong nền kinh tế tri thức, có hai điểm đáng chú ý. Một là, hàm lượng trí tuệ trong những nhân tố đó ngày một gia tăng, Hai là, nhiều máy móc do lao động quá khứ đó được vật hoá thực hiện. Khi tính đến hai sự kiện đó, chúng ta thấy dường như vai trũ của lao động sống có sự suy giảm tương đối. Nhưng, nếu xét tới sự phát triển thẳng tiến của sản xuất, lao động sống vẫn có giá trị quyết định - "quyết định" không phải theo nghĩa chiếm tỷ trọng lớn so với lao động quá khứ khi tạo ra sản phẩm ở chu kỳ mới, mà theo nghĩa không có lao động sống và mọi lao động vật hoá không thể phát huy vai trũ của mỡnh trong quỏ trỡnh sản xuất. Mỏy múc hiện đại như thế nào chăng nữa cũng do con người làm ra và vận hành, cải tiến nú. Mặt khỏc, trỡnh độ của máy móc, thiết bị, trỡnh độ trí tuệ được kết tinh trong chúng lại đóng vai trũ quyết định hiệu quả của lao động sống, quy định xu hướng vận động của chính lao động sống. Chỉ trong chừng mực đáp ứng nhu cầu đó, chu kỳ sản xuất tiếp theo mới có sự phát triển tương ứng với xu thế khách quan của lực lượng sản xuất.
I.1.2.3 Lao động quản lý dần chiếm ưu thế so với lao động sản xuất trực tiếp
Sự phỏt triển của sản xuất xó hội luụn diễn ra theo quy luật phủ định của phủ định. Trước kia, người sản xuất và người quản lý là một, song cựng với sự phỏt triển của lực lượng sản xuất, sự tách rời giữa người sản xuất và người quán lý ngày một gia tăng, sự khác biệt phát triển thành sự đối lập gay gắt. Giờ đây, chính sự phát triển cao của lực lượng sản xuất, ở trỡnh độ trí tuệ hoá cao quá trỡnh sản xuất, đó và đang diễn ra sự xích lại gần nhau giữa người lao động sản xuất và nhà quản lý. Trong nền kinh tế tri thức, ở khụng ớt trường hợp, người sản xuất và người quản lý hội tụ trong một cá thể mà ở đó, mặt quản lý ngày càng cú ưu thế hơn mặt laođộng trong việc tạo ra sản phẩm.
Những thay đổi ấy làm cho những yếu tố tạo ra giá tri mới được kết tinh trong sản phẩm thặng dư mà biểu hiện dưới hỡnh thức giỏ trị là giỏ trị thặng dư cũng không hoàn toàn như cũ. Giá trị thặng dư được tạo ra không cũn chỉ do lao động sống của người công nhõn trực tiếp sản xuất, mà cũn do lao động vật hoá, do lao động quản lý... Lao động quản lý nói ở đây bao gồm cả lao động quản lý của các chuyờn gia quản lý (khi đó, họ thuộc về người lao động theo nghĩa hiện đại của từ này) và lao động quần lý của người sở hữu tư liệu sản xuất nếu họ tham gia quản lý doanh nghiệp. "Quản lý" lại là loại hỡnh lao động phức tạp, nó là "bội số của lao động giản đơn" như C.Mác nói.
Trớ tuệ tự nú mang tớnh xó hội rất cao và thậm chớ, cũn mang tớnh nhõn loại. Do vậy, khi núi về những bộ phận cấu thành lực lượng sản xuất trong nền kinh tế trí tuệ, chúng ta thấy nổi lên một đặc điểm hết sức quan trọng là tính xó hội hoỏ, quốc tế húa rất cao của nú.
I.1.2.4 Nội dung và tính chất mới của vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất
Tri thức hiện nay đang được coi là nguồn lực kinh tế chủ yếu. Các nhân tố sản xuất truyền thống là đất đai, lao động và tư bản không biến mất, nhưng tầm quan trọng của nó không cũn như cũ. Một điều quan trọng hơn rất nhiều là tri thức tạo ra được cơ chế lợi nhuận tăng dần, trong khi các yếu tố sản xuất truyền thống (đất đai, vốn, lao động), như chúng ta đó biết, lại tuõn theo quy luật lợi nhuận giảm dần. Đó là một xu hướng thực tế, bới chính công nghệ thông tin - một bộ phận quan trọng của nền kinh tế tri thức đó trở thành phương tiện giải phóng các tiềm năng sáng tạo và tri thức tiềm ẩn trong mỗi người, thành công cụ "khuếch đại sức mạnh của nóo giống như công nghệ của cuộc cách mạng công nghiệp khuếch đại sức mạnh của cơ bắp " (Brad de Long). Bắt đầu từ giữa những năm 80 của thế kỷ XIX, một bộ phận quan trọng của nền kinh tế đó tuõn theo cơ chế lợi nhuận tăng dần, đó là khu vực công nghệ cao. Các nền kinh tế phát triển như các nước OECD đang phụ thuộc rất nhiều vào việc sản xuất phân phối và sử dụng tri thức. Sản lượng và việc làm được mở rộng rất nhanh ở các ngành công nghệ cao. Trên 50% GDP của các nền kinh tế OECD là dựa trên tri thức (Candie Stevens).
Sở hữu trong nền kinh tế tri thức trước hết và chủ yếu là sở hữu trí tuệ. Trong nền kinh tế đó, trí tuệ là nguồn lực cơ bán nhất của quốc gia. Ai nắm được trí tuệ, có khả năng điều tiết, chi phối nó, kẻ đó có sức mạnh chi phối sự phát triển xó hội theo mục tiờu và lợi ớch của mỡnh. Trong khi đó, như đó đề cập trên đây, tri thức mang tính xó hội hoỏ, quốc tế húa cao. Theo Joseph Stigliz, nhà kinh tế học Mỹ được nhận giải Nobel năm 2001 đồng thời là cố vấn kinh tế trưởng của Ngân hàng thế giới, thỡ tri thức và thụng tin là loại hàng hoỏ đặc biệt, nó hoàn toàn khác các loại hàng hoá thông thường khác: nó thuộc về không phải của một cá nhân nào đó, mà thuộc về quyền sở hữu của toàn xó hội, là một hàng hoỏ xó hội và hơn thế nữa, nó thực sự là một hàng hoá mang tính toàn cầu.
Trong nền kinh tế tri thức, tri thức trở thành nhân tố sản xuất quan trọng hàng đầu trong lực lượng sản xuất, quyết định lợi thế so sánh của một nước. Nếu doanh nghiệp nào nắm được quyền sở hữu trí tuệ, ứng dụng công nghệ mới, tạo ra sản phẩm mới sẽ thu được tỷ suất lợi nhuận cao hơn mức trung bỡnh. Thớ dụ: Nhờ luụn tạo ra cỏc bộ vi xử lý trước một thế hệ, lợi nhuận của hóng Intel trong nhiều năm là 23% doanh thu. Cũng với cách thay đổi luôn như vậy lợi nhuận của hóng Microsoft đạt 24% doanh thu vào năm 1994. Lợi nhuận cao như thế tuy không thể tồn tại mói, nhưng có thể duy trỡ trong nhiều năm, như hóng Intel duy trỡ tỷ suất lợi nhuận cao trong một thập kỷ. Như vậy, quy luật bỡnh quõn hoỏ tỷ suất lợi nhuận bị cản trở, khụng thể phỏt huy tỏc dụng mạnh mẽ. Bởi vỡ, tiền đề để quy luật này hoạt động là môi trường cạnh tranh tự do hoàn háo, nhưng trong nền kinh tế tri thức, việc bảo hộ quyển sở hữu trí tuệ đó làm tăng tính độc quyền, khiến cho người nắm quyền chiếm hữu đối với tri thức thu được lợi nhuận siêu ngạch.
So với sở hữu các giá trị vật chất, sở hữu tri thức có những đặc điểm hết sức riêng biệt: Sở hữu tri thức bao gồm quyền sở hữu cụng nghiệp (quyền về phỏt minh - sỏng chế, về nhón hiệu thương mại, bản quyền và các kiểu dáng công nghiệp...), ngày nay cũn tớnh thờm phương pháp gây giống các loài cây, quyền về các hỡnh vẽ, mẫu vẽ, quyền về cỏc bản đồ vẽ địa hỡnh, về cỏc chất bỏn dẫn... Ngoài ra, cũn quyền về bớ mật thương mại.
Với tư cách là đối tượng sở hữu, tri thức là một sản phẩm có đặc tính lũy tiến và rất khó kiểm soát. Tri thức là một sản phẩm không bị cạn kiệt khi sử dụng, có thể vô số người cùng sử dụng một tri thức mà không ai mất phần. Một tri thức có thể thuộc quyền sở hữu của nhiều người, một người có thể dùng nhiều lần mà không phái trả thêm tiền. Hơn nữa, càng nhiều người sử dụng càng tăng hiệu quả (như mạng Internet). Người sau có thể kế thừa tri thức của người đi trước để sần xuất ra tri thức mới. Bởi vậy, tri thức cũng là một tài sản khó kiểm soát nhất. Chi phí cho phát triển tri thức rất lớn, nhưng sản phẩm càng về sau càng rẻ. Vớ dụ, chi phớ cho việc nghiên cứu đĩa chương trỡnh Window đầu tiên tổn phí hết 50 triệu USD, nhưng đĩa thứ hai và các đĩa tiếp theo chỉ tốn 3 USD.
Khác với "lao động" và "vốn", việc sử dụng tri thức không làm nó mất đi và vỡ vậy, càng nhiều người sử dụng càng đem lại lợi ích nhiều mà không tốn thêm chi phí. Người này sử dụng không làm giảm khả năng sử dụng của người khác, vỡ vậy, tri thức cú tớnh khụng cạnh tranh trong sử dụng.
Tri thức có tính không loại trừ với nghĩa là khi truyền bá và chuyển giao tri thức không làm tri thức mất đi, vỡ vậy, một tri thức được xó hội hoỏ (nhiều người biết), người ta không thể loại trừ người này sử dụng trong khi cho phép người khác được sử dụng (theo nghĩa tự nhiên của nó). Trên thực tế, người ta có thề thông qua bản quyền để cấm áp dụng.
Tri thức cũng có tính tích luỹ cao. Tri thức và thông tin không bị giảm đi theo thời gian sử dụng (không khấu hao), mà luôn được tích luỹ thêm.
Trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế, dũng tri thức lưu chuyển nhanh khắp thế giới, lợi ích thu được từ tri thức mới không nhất thiết sẽ thuộc về nơi đó phỏt minh ra chỳng, mà tuỳ thuộc vào tri thức và kỹ năng tổ chức sản xuất với chi phí thấp nhất và gắn kết được toàn bộ các hoạt động của hệ thống tổ chức sản xuất. Thí dụ, Hoa Kỳ đó phỏt minh ra mỏy quay phim và mỏy ghi õm, mỏy Fax, Hà Lan phỏt minh ra mỏy CD, nhưng phần lớn lợi nhuận của sản phẩm này lại rơi vào tay Nhật Bản.
Các tính chất nêu trên của tri thức với tư cách là bộ phận chủ yếu của lực lượng sản xuất trong nền kinh tế tri thức quy định tính tất yếu phải có hỡnh thức sở hữu tương ứng Dưới một hỡnh thức nào đó, chế độ sở hữu phải mang tính chất xó hội. Tuy chưa phải la xó hội hoỏ sở hữu với nghĩa đen của từ này, nhưng sự ra đời và ngày càng phát triển của những Công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia trong những thập kỷ gần đây phần nào do tính tất yếu khách quan đó quy định. Đành rằng giờ đây, ở một số nước rất coi trọng việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhưng xét về tính chất sở hữu và quản lý, cỏc doanh nghiệp vừa và nhỏ đó vẫn nằm trong một hệ thống chung, có sự liên kết và hỗ tương nhau rất chặt chẽ, chúng phụ thuộc vả ràng buộc lẫn nhau tạo thành một chỉnh thể không phải chỉ ở quy mô quốc gia, mà cá quy mô quốc tế. Trong giới hạn của chế độ sở hữu tư nhân, "xó hội húa về sở hữu”, với nghĩa là số người tham gia vào sở hữu ngày càng táng, quy mô sở hữu ngày càng mở rộng đang là một xu thế phổ biến, nó làm cho việc sở hữu ấy mang tính xá hội (mặc dù vẫn thuộc những cá nhân cụ thể) và tri thức được vận hành vỡ sự phỏt triển chung của toàn xó hội, tuy lợi ớch trực tiếp thuộc về một số người.
Đối với trí tuệ, vấn đề bản quyền chỉ có giá trị trên phương diện pháp lý nhằm bảo đảm lợi ích của chủ thể sáng tạo ra tri thức mới, của phát minh, sáng tạo chứ không làm cho trí tuệ đó mang tính cá nhân. Nó chỉ thuộc cá nhân khi mới sáng tạo ra, sau đó nhanh chóng trở thành của xó hội.
I.1.2.5. Đặc điểm mới của quan hệ tổ chức, quản lý trong nền kinh tế tri thức
Tác động của kinh tế tri thức đối với tổ chức và quản lý rất rộng, trong đó, nổi bật nhất là một số điểm chính sau đây:
Chủ thể và đối tượng quản lý: đại bộ phận là cụng nhõn cú học vấn.
Việc ỏp dụng cỏc thành tựu của cỏch mạng khoa học - cụng nghệ (nhất là cụng nghệ thụng tin) vào quản lý đũi hỏi chủ thể quản lý phải nõng cao trỡnh độ hiểu biết về nhiều mặt. Cũn về đối tượng chịu sự quản lý, đúng như dự báo của C.Mác "toàn bộ quá trỡnh sản xuất thỡ biểu hiện ra khụng phải như là một quá trỡnh phụ thuộc vào tài nghệ trực tiếp của n