Vấn đề thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những vấn đề không chỉ thu hút sự quan tâm của các nước phát triển, mà đối với những nước đang phát triển như Việt Nam thì vấn đề này lại vô cùng cần thiết trong chiến lược phát triển đất nước thời kỳ mới.
Trong thời đại hiện nay,nhất là trong hoàn cảnh các nước trong khu vực Đông Nam (ASEAN) đang cạnh tranh nhau về môi trường đầu tư để nhằm thu hút tối đa lượng vốn của bên ngoài,thì vấn đề đặt ra là: làm thế nào để Việt Nam có thể cũng thu hút được một lượng vốn đủ dể phát triển kinh tế. Muốn làm được điều này,chúng ta cần phải nghiên cứu kĩ đối tác,xem xét lại môi trường của nước mình đã phù hợp chưa, để từ đó có những giải pháp thoả đáng. Nhật Bản là trong những nước phát triển nhất ở châu á, là cường quốc kinh tế lớn thứ hai thế giới sau Mỹ.Mặc dù là một nước nghèo tài nguyên thiên nhiên, thiếu nguyên liệu cho sản xuất nhưng bù lại Nhật Bản lại có công nghệ hiện đại và trình độ quản lý tiên tiến. Chính vì thế họ có xu hướng đầu tư ra bên ngoài,đặc biệt là các nước đang phát triển ở châu á,để khai thác các nguồn lực sẵn có của những nước này. Vấn đề đặt ra cho Việt Nam là phải thu hút được FDI của Nhật Bản.Thứ nữa là việc các dự án có vốn FDI của Nhật Bản tại Việt Nam ( cả những dự án đã có giấy phép và những dự án đã đi vào hoạt động ) đều diễn ra một cách chậm chạp và hiệu quả chưa cao. Vì thế chúng ta cần phải có sự xem xét và đánh giá lại.
Xuất phát từ những vấn đề trên, cộng với sự hướng dẫn, giúp đỡ của cô giáo Nguyễn Thanh Hà, em chọn đề tài này với mục đích đưa ra thêm một vài quan điểm nhận xét của riêng mình, góp phần nào hoàn thiện dần các giải pháp nhằm thu hút FDI của nước ngoài nói chung và của Nhật Bản nói riêng vào Việt Nam.
Trong phạm vi khuôn khổ một bài luận em chỉ muốn phân tích tình hình đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam trong thời kỳ từ năm 1996 đến nay, đánh giá một cách đúng đắn, khách quan những điểm mạnh, những tồn tại và đưa ra một vài giải pháp trong tương lai.
Nội dung của bài viết gồm ba chương:
Chương I: Những lý luận chung về đầu tư trực tiếp.
Chương II: Thực trạng đánh giá tình hình thu hút FDI của Nhật Bản vào Việt Nam trong thời kỳ từ 1996 đến nay.
Chương III: Một số giải pháp nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả FDI của Nhật Bản vào Việt Nam trong thời kỳ tới.
29 trang |
Chia sẻ: lamvu291 | Lượt xem: 1362 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng đánh giá tình hình thu hút FDI của Nhật Bản vào Việt Nam trong thời kỳ từ 1996 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LờI NóI ĐầU
Vấn đề thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những vấn đề không chỉ thu hút sự quan tâm của các nước phát triển, mà đối với những nước đang phát triển như Việt Nam thì vấn đề này lại vô cùng cần thiết trong chiến lược phát triển đất nước thời kỳ mới.
Trong thời đại hiện nay,nhất là trong hoàn cảnh các nước trong khu vực Đông Nam (ASEAN) đang cạnh tranh nhau về môi trường đầu tư để nhằm thu hút tối đa lượng vốn của bên ngoài,thì vấn đề đặt ra là: làm thế nào để Việt Nam có thể cũng thu hút được một lượng vốn đủ dể phát triển kinh tế. Muốn làm được điều này,chúng ta cần phải nghiên cứu kĩ đối tác,xem xét lại môi trường của nước mình đã phù hợp chưa, để từ đó có những giải pháp thoả đáng. Nhật Bản là trong những nước phát triển nhất ở châu á, là cường quốc kinh tế lớn thứ hai thế giới sau Mỹ.Mặc dù là một nước nghèo tài nguyên thiên nhiên, thiếu nguyên liệu cho sản xuất nhưng bù lại Nhật Bản lại có công nghệ hiện đại và trình độ quản lý tiên tiến. Chính vì thế họ có xu hướng đầu tư ra bên ngoài,đặc biệt là các nước đang phát triển ở châu á,để khai thác các nguồn lực sẵn có của những nước này. Vấn đề đặt ra cho Việt Nam là phải thu hút được FDI của Nhật Bản.Thứ nữa là việc các dự án có vốn FDI của Nhật Bản tại Việt Nam ( cả những dự án đã có giấy phép và những dự án đã đi vào hoạt động ) đều diễn ra một cách chậm chạp và hiệu quả chưa cao. Vì thế chúng ta cần phải có sự xem xét và đánh giá lại.
Xuất phát từ những vấn đề trên, cộng với sự hướng dẫn, giúp đỡ của cô giáo Nguyễn Thanh Hà, em chọn đề tài này với mục đích đưa ra thêm một vài quan điểm nhận xét của riêng mình, góp phần nào hoàn thiện dần các giải pháp nhằm thu hút FDI của nước ngoài nói chung và của Nhật Bản nói riêng vào Việt Nam.
Trong phạm vi khuôn khổ một bài luận em chỉ muốn phân tích tình hình đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam trong thời kỳ từ năm 1996 đến nay, đánh giá một cách đúng đắn, khách quan những điểm mạnh, những tồn tại và đưa ra một vài giải pháp trong tương lai.
Nội dung của bài viết gồm ba chương:
Chương I: Những lý luận chung về đầu tư trực tiếp.
Chương II: Thực trạng đánh giá tình hình thu hút FDI của Nhật Bản vào Việt Nam trong thời kỳ từ 1996 đến nay.
Chương III: Một số giải pháp nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả FDI của Nhật Bản vào Việt Nam trong thời kỳ tới.
Chương I: Những lý luận chung
về đầu tư trực tiếp
1. Khái niệm đầu tư trực tiếp:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức là hình thức hoạt động cao nhất của các công ty khi thực hiện kinh doanh quốc tế.Về mặt sở hữu, đầu tư nước ngoài là quyền sở hữu gián tiếp hoặc trực tiếp về tài sản ở nước khác. Và đầu tư nước ngoài gắn liền với hoạt động của các công ty đa quốc gia.
Đầu tư nước ngoài là một hình thức chủ yếu của đầu tư nước ngoài và nó chiếm đa số trong tổng số vốn đầu tư. Mục tiêu hoạt động của nó là mang tính chất kinh doanh. Điểm khác biệt cơ bản của nó so với các loại hình đầu tư khác là ở chỗ: người sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp sử dụng, quản lý và điều hành hoạt động sử dụng vốn.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo cách hiểu của người Nhật là đầu tư vốn vào hoạt động kinh doanh ở nước ngoài nhằm thu lợi nhuận.Hầu như tất cả số tiền đầu tư vào các hoạt động kinh doanh ở địa phương phải được đem từ nước đầu tư vào nước chủ nhà.
Bộ luật Kiểm soát ngoại hối và ngoại thương của Nhật Bản ban hành tháng 10 – 1980 cũng qui định: đầu tư trực tiếp nước ngoài có nghĩa là “nắm lấy bất kỳ cổ phiếu do một tổ chức pháp nhân theo luật pháp nước ngoài phát hành, hay bất cứ một khoản tiền cho vay tới một tổ chức pháp nhân như vậy nhằm thiết lập mối quan hệ lâu dài, hoặc bất kỳ một khoản trả vốn nào để thành lập, mở rộng chi nhánh,nhà máy hay một doanh nghiệp ở nước ngoài bởi một người bản xứ”.
Theo những định nghĩa này thì những gì FDI mang lại không chỉ bao gồm việc chuyển giao vốn mà còn bao gồm việc chuyển giao trọn gói các nguồn lực như: công nghệ và kỹ năng quản lý.
Đối với Việt Nam, tại điều 2, khoản 1Bộ luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam công bố sau khi sửa đổi ngày 23/11/1996 đầu tư trực tiếp nước ngoài được hiểu là”việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất cứ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo qui định của luật này’’.Định nghĩa của thuật ngữ “đầu tư trực tiếp nước ngoài0’’chỉ có vậy nhưng đằng sau nó là cả một quá trình phân tích lấu dài
2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài
- Khi tham gia vào hoạt động FDI thì các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một số vốn tối thiểu vào vốn pháp định, điều này tuỳ thuộc vào qui định của mỗi nước. Đối với Việt Nam, số vốn của các chủ đầu tư này nhỏ nhất phải bằng 30% tổng số vốn pháp định, qui định này có sự khác biệt so với một số nước khác vì họ qui định giới hạn mức vốn lớn nhất của các chủ đầu tư nước ngoài đóng góp. Điều này cũng dễ hiểu vì các đối tác Việt Nam chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, lượng vốn ít, nên có qui định như vậy thì các chủ đầu tư phía Việt Nam mới có điều kiện góp vốn.
- Quyền quản lý các xí nghiệp phụ thuộc vào số vốn góp của mỗi bên. Nếu doanh nghiệp là doanh nghiệp 100% vốn của nước ngoài thì doanh nghiệp hoàn toàn do chủ đầu tư nước ngoài điều hành và quản lý.
Như vậy: từ những đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài ta thấy nó rất khác so với đầu tư gián tiếp và mục tiêu chính của đầu tư trực tiếp nước ngoài là kinh doanh để thu lợi nhuận. Các qui luật kinh tế được các chủ đầu tư vận dụng để làm sao giảm được tối đa về chi phí mà lại thu được lợi ích về phía mình nhiều nhất. Vì vậy phía Việt Nam cũng cần phải có một đội ngũ cán bộ có trình độ cao để có thể làm ăn được với các chủ đầu tư nước ngoài làm sao hạn chế được những bất lợi về phía mình.
3. Các hình thức của đầu tư trực tiếp
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam thông qua ngày 29/12/1987. Từ khi được ban hành đến nay luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã được sửa đổi:
- Lần thứ nhất ngày 30/6/1990
- Lần thứ hai ngày 23/12/1992
- Lần thứ ba ngày 23/11/1996
Tới nay đã có hơn 150 văn bản hướng dẫn thi hành luật đầu tư nước ngoài, trong đó quan trọng nhất là nghị định 12/CP ngày 18/2/1997; nghị định 36/CP ngày 24/4/1997 về qui định khu chế xuất, khu công nghệ cao; công văn số 1849/KTTH ngày 17/4/1997 và các văn bản khác qui định các tổ chức, cá nhân nước ngoài được đầu tư trực tiếp vào Việt Nam dưới các hình thức sau:
- Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh
- Doanh nghiệp liên doanh
- Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài.
a. Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh
Là hình thức đầu tư trực tiếp trong đó các bên qui định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư kinh doanh ở Việt Nam mà không cần thành lập một pháp nhân mới.
Các hợp đồng thương mại, hợp đồng chuyển giao nguyên liệu lấy sản phẩm, hợp đồng mua thiết bị trả chậm,và các hợp đồng khác mà không thực hiện việc phân chia lợi nhuận và kết qủa kinh doanh thì không thuộc phạm vi hợp đồng này.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là do đại diện có thẩm quyền của các bên hợp doanh ký. Thời hạn có hiệu lực của hợp đồng do các bên thoả thuận và được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam y chuẩn.
b. Doanh nghiệp liên doanh
Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp được thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng kinh doanh ký giữa bên hoặc các bên Việt Nam với bên hoặc các bên nước ngoài để đầu tư kinh doanh tại Việt Nam.
Khác với hợp đồng hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh là một pháp nhân mới được thành lập từ hai bên ( một bên Việt Nam và một bên nước ngoài) hoặc nhiều bên ( một hay nhiều bên VN với một hay nhiều bên nước ngoài). Doanh nghiệp liên doanh đã được phép hoạt động tại Việt Nam, được liên doanh với các doanh nghiệp liên doanh khác hoặc với một nhà đầu tư nước ngoài hoặc với doanh nghiệp Việt Nam hoặc với doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài đã được hoạt động tại Việt Nam.
Trong trường hợp đặc biệt, doanh nghiệp liên doanh có thể được thành lập trên cơ sở hiệp định ký kết giữa Chính phủ nước Cộng hoà XHCN Việt Nam với Chính phủ nước ngoài; doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam.Mỗi bên liên doanh chịu trách nhiệm đối với bên kia và đối với doanh nghiệp liên doanh theo phần vốn góp của mình vào vốn pháp định.
Doanh nghiệp liên doanh hoạt động trên nguyên tắc tự chủ về tài chính, trên cơ sở hợp đồng liên doanh, điều lệ doanh nghiệp liên doanh phù hợp với giấy phép đầu tư và pháp luật Việt Nam. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập sau khi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về hợp tác đầu tư của Việt Nam cấp giấy phép đầu tư và chứng nhận đăng ký điều lệ của doanh nghiệp.
c. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đẩu tư nước ngoài, do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại Việt Nam,tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh.
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được thành lập sau khi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về hợp tác và đầu tư Việt Nam cấp giấy phép đầu tư và chứng nhận đăng ký điều lệ doanh nghiệp. Vốn pháp định và thời hạn hoạt động của doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được qui định giống như đối với doanh nghiệp liên doanh.Vốn pháp định ít nhất bằng 30%. Vốn đầu tư của doanh nghiệp trong trường hợp đặc biệt thì tỷ lệ này có thể thấp hơn 30% nhưng phải đọc cơ quan thẩm quyền về hợp tác đầu tư của Việt Nam chấp nhận.
4. Khu chế xuất và khu công nghiệp
a. Khu chế xuất
Khu chế xuất có những tên gọi khác nhau và các định nghĩa về nó cũng rất khác nhau.
Luật pháp Việt Nam qui định: khu chế xuất là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất hàng xuất khẩu và hoạt động của khu có danh giới địa lý xác định, do Chính phủ thành lập và cho phép hoạt động bao gồm một hay nhiều doanh nghiệp.Theo nghĩa rộng, khu chế xuất bao gồm tất cả các khu vực được Chính phủ nước sở tại cho phép chuyên môn hoá sản xuất hàng công nghiệp chủ yếu vì mục đích xuất khẩu. Nó là khu vực biệt lập có chế độ thuế quan riêng theo phương thức tự do, không phụ thuộc vào chế độ mậu dịch và thuế quan của nước đó.Theo nghĩa hẹp, khu chế xuất chỉ giới hạn trong một khu vực riêng biệt có ấn định gianh giới quốc gia, có ấn định luồng hàng hoá vào và ra khu vực.
Doanh nghiệp chế xuất gồm các tổ chức kinh tế và các cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, các tổ chức kinh tế Việt Nam có tư cách pháp nhân thuộc các thành phần kinh tế. Các doanh nghiệp này hoạt động dưới hình thức các công ty trách nhiệm hữu hạn.Doanh nghiệp chế xuất có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam, hoạt động theo quy định của luật đầu tư nước ngoài tạiViệt Nam và quy chế khu chế xuất.
b. Khu công nghiệp
Theo luật Việt Nam qui định, khu công nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và các dịch vụ cho sản xuất hàng công nghiệp do Chính phủ thành lập hoặc cho phép thành lập.
Trong khu công nghiệp có các doanh nghiệp khu công nghiệp hoạt động. Doanh nghiệp khu công nghiệp là doanh nghiệp được hình thành và hoạt động trong khu công nghiệp.Để khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn vào khu công nghiệp,Chính phủ đã ban hành qui chế khu công nghiệp.Qui chế đầu tiên ban hành vào ngày 28/12/1994, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1995. Mới đây Chính phủ đã ban hành nghị định 36/CP ngày 24/04/1997 về qui chế khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung và khu công nghệ cao.
Các nhà đầu tư trong khu công nghiệp được phép đầu tư vào các lĩnh vực sau: xây dựng và kinh doanh công trình cơ sở hạ tầng; sản xuất gia công lắp ráp các sản phẩm công nghệ để xuất khẩu và tiêu thụ tại thị trường trong nước; các dịch vụ hỗ trợ sản xuất hàng công nghiệp. Về mặt pháp lý thì các khu công nghiệp tập trung là phần lãnh thổ của nước sở tại, các doanh nghiệp hoạt động trong khu công nghiệp tập trung chịu sự điều chỉnh của luật pháp nước sở tại.
5. Tác động của đầu tư trực tiếp
Hoạt động đầu tư trực tiếp có những tác động tích cực và những tác động tiêu cực đối với các bên tham gia đầu tư. Vì vậy trước khi tham gia đầu tư chúng ta phải đánh giá được những tác động từ đó đưa ra được những quyết định đúng đắn
a. Đối với bên xuất khẩu vốn đầu tư
- Tác động tích cực
Đối với bên xuất khẩu vốn: họ có khả năng trực tiếp kiểm soát được hoạt động của doanh nghiệp và họ đưa ra những quyết định có lợi cho mình. Do đó vốn đầu tư được sử dụng có hiệu quả cao.Điều này cũng thật dễ hiểu bởi vì khi họ trực tiếp bỏ vốn tham gia đầu tư thì họ có quyền tham gia vào quản lý và ra quyết định đối với các hoạt động đầu tư để làm sao đạt được hiệu quả cao nhất vì mục đích chính của họ là thu được lợi nhuận cao.
Chính đầu tư trực tiếp đã giúp cho các chủ đầu tư nước ngoài chiếm lĩnh được thị trường nước ngoài và nguồn cung cấp các nguyên liệu chủ yếu của nước sở tại.Khi mà thị trường trong nước đã bão hoà, nguyên liệu đầu vào trong nước đã khan hiếm thì để duy trì cho hoạt động đầu tư, các nhà đầu tư phải hướng sản phẩm của mình ra thị trường nước ngoài để duy trì chu kỳ sống của sản phẩm, mặt khác để khai thác các nguồn lực sẵn có của nước ngoài phục vụ cho việc sản xuất các sản phẩm của mình. Và đây là lý do quan trọng để các nhà đầu tư nước ngoài mang vốn đi đầu tư. Họ có thể khai thác được nguồn nhân lực rẻ mạt ở nước ngoài để làm giảm chi phí và nâng cao năng suất lao động.
Thường thì ở các nước phát triển giá tiền lương trả cho người lao động cao gấp 10-22 lần so với các nước đang phát triển, nhất là ở các ngành đòi hỏi nhiều lao động thì chi phí này rất lớn.Vì thế, để đảm bảo tính cạnh tranh về giá cả sản phẩm thì các nhà đầu tư nước ngoài phải hướng đầu tư sang các nước đang phát triển để khai thác được nguồn nhân công rẻ.
Một tác động nữa không kém phần quan trọng đó là: các nhà đầu tư nước ngoài khi bỏ vốn đầu tư thì họ đã xây dựng được các doanh nghiệp nằm trong lòng các nước sở tại, vì thế mà tránh được các hàng rào bảo hộ mậu dịch của các nước sở tại _ mà một trong những hàng rào quan trọng đó là thuế quan. Việc sản phẩm bị đánh thuế cao làm giảm sức cạnh tranh của hàng hoá ngoại nhập, vì thế mà khó bảo đảm được tính cạnh tranh ở thị trường nước ngoài, nhất là trong hoàn cảnh hiện nay khi mà các nước chưa ký được các hiệp định về thương mại thì cách tốt nhất để tránh hàng rào thuế quan là đầu tư sang các nước khác.
- Tác động tiêu cực
Khi sang nước ngoài đầu tư, có sự khác nhau về môi trường đầu tư như: luật pháp, kinh tế, chính trị, văn hoá mà những nhân tố này có tác động mạnh mẽ đến hoạt động kinh doanh của các nhà đầu tư. Không ít các nhà đầu tư do không xem xét kỹ các yếu tố nêu trên đã thất bại trong việc đầu tư kinh doanh ở nước ngoài như: do bất ổn về chính trị làm cho các doanh nghiệp bị quốc hữu hoá; do nghiên cứu không kỹ về môi trường văn hoá dẫn tới những xung đột trong lĩnh vực quản lý nhân sự; hay sản phẩm không phù hợp với thị trường nước sở tại...
b. Tác động tới nước tiếp nhận đầu tư
- Tác động tích cực
Tác động tích cực lớn nhất đối với các nước tiếp nhận đàu tư có thể kể đến là nó tạo điều kiện cho các nước này thu hút được kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm quản lý của nước ngoài vì các nước phát triển thường có công nghệ tiên tiến và trình độ quản lý cao trong khi các nước đang phát triển lại cần có công nghệ và trình độ quản lý cao để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá của mình. Khi đó cách tốt nhất là kêu gọi đầu tư bởi phương pháp này giúp họ từ từ tiếp nhận được các công nghệ đó, tránh được những rủi ro khi mua nó.
Tạo điều kiện cho nước sở tại khai thác một cách có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên. Do sự kém phát triển về công nghệ, không đáp ứng được những yêu cầu của việc khai thác tài nguyên thiên nhiên, nhất là đối với những ngành đòi hỏi dây chuyền công nghệ tiên tiến như: dầu khí, khai khoáng nên các nước đang phát triển gặp không ít khó khăn trong việc khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho sự phát triển đất nước. Vì vậy họ phải hợp tác với các nhà đầu tư nước ngoài để tránh lãng phí.
Một tác động nữa đó là giúp các nhà đầu tư của nước sở tại sử dụng có hiệu quả đồng vốn, mở rộng tích luỹ và góp phần nâng cao tốc độ phát triển kinh tế. Do có hoạt động đầu tư mà vốn của các nhà đầu tư nước sở tại được sử dụng có hiệu quả hơn vì họ được áp dụng các công nghệ hiện đại, được tiếp cận với phương thức quản lý mới khoa học hơn. Chính điều này đã tạo điều kiện cho họ sử dụng đồng vốn một cách có hiệu quả.
- Tác động tiêu cực
Bên cạnh những tác động tích cực trên thì đầu tư trực tiếp cũng có một số tác động tiêu cực đến phía tiếp nhận đầu tư, cụ thể như:
Nếu nước sở tại mà không có một quy hoạch đầu tư cụ thể và khoa học thì có thể dẫn tới sự đầu tư tràn lan và kém hiệu quả. Như vậy thì tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức dẫn đến lãng phí, môi trường bị ô nhiễm nặng nề. Hạn chế này đã xảy ra ở các nước đang phát triển như Việt Nam. Khi chúng ta chưa có một qui hoạch tổng thể cho các ngành, các lĩnh vực đầu tư đã dẫn đến tình trạng khai thác tài nguyên một cách lãng phí gây ra hậu quả nghiêm trọng về môi trường và khan hiếm về tài nguyên.
Một tác động nữa thường xảy ra với phía tiếp nhận đầu tư là: khi tiếp nhận, do trình độ năng lực của nước sở tại trong việc thẩm định công nghệ chuyển giao có hạn nên dẫn tới việc chuyển giao những công nghệ lạc hậu vào trong nước, gây ảnh hưởng tới quá trình sản xuất và ô nhiễm môi trường.
Khi môi trường chính trị không ổn định thì dẫn tới hạn chế nguồn FDI và nước sở tại thường khó chủ động trong việc bố trí cơ cấu đầu tư theo ngành và lãnh thổ vì nó còn phụ thuộc nhiều vào phía đối tác nước ngoài.
Chương II: Thực trạng và những đánh giá tình hình thu hút, sử dụng FDI của Nhật Bản vào Việt Nam
I- Thực trạng FDI của Nhật Bản vào Việt Nam
1. Xét về vốn đầu tư
Sau khi luật đầu tư của Việt Nam được ban hành ngày 29/12/1987 đã có một lượng lớn các dự án đầu tư trực tiếp của các công ty Nhật Bản đổ vào Việt Nam. Đầu tiên là dự án đầu tư liên doanh chế tạo thiết bị cảng của công ty Kansaikyodo ở Hải Phòng năm 1989 với số vốn đăng ký là 50 triệu USD và vốn thực hiện là 35,92 triệu USD, doanh thu là 28,108805 triệu USD. Tính đến hết ngày 27/01/2001 Nhật Bản đã đầu tư khoảng 299 dự án với tổng số vốn là 3,85 tỷ USD, Nhật Bản đã đứng thứ ba về vốn đăng ký nhưng với 177 dự án với tổng số vốn là 2,4 tỷ USD đã đi vào sản xuất kinh doanh thì Nhật Bản đã trở thành nước đứng đầu trong việc thực hiện vốn đầu tư trực tiếp tại Việt Nam - trên Đài Loan(2,1 tỷ USD ) và Singapore ( 1,8 tỷ USD )
Biểu 1: Bảng số liệu về đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam từ 01/10/1989 đến 01/06/2000
( Nguồn từ: Project Management Departmment Ministry of
Planning and Investment )
( Đơn vị 1000 USD )
Năm
Số dự án
Vốn đăng ký
Vốn thực hiện
01/01/89-31/12/89
1
50
35,920000
01/01/90-31/12/90
4
1,504939
2,064910
01/01/91-31/12/91
5
75,274000
48,575811
01/01/92-31/12/92
9
113,150489
247,862143
01/01/93-31/12/93
15
111,271662
86,199395
01/01/94-31/12/94
30
285,505774
244,139228
01/01/95-31/12/95
62
1043,985713
768,480215
01/01/96-31/12/96
66
716,550247
254,843361
01/01/97-31/12/97
57
398,911013
134,092129
01/01/98-31/12/98
20
215,579680
4,439283
01/01/99-31/12/99
13
46,968809
9,5
01/01/00-01/06/00
11
26,262
17,484
Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy từ năm 1989 đến 1996 thì mỗi năm số dự án đăng ký tăng thêm đáng kể nhất là từ 1994 đến 1996 trung bình mỗi năm có khoảng 30 dự án được đăng ký thêm.
Về vốn: nhìn vào bảng ta thấy khoảng thời gian từ 1989 đến 1993 thì tổng số vốn đầu tư mỗi năm của Nhật Bản chỉ đạt mức trung bình.Trong khi Nhật Bản đứng đầu vế viện trợ mậu dịch thì họ lại chỉ giữ một vị trí khiêm tốn về đầu tư trực tiếp. Nguyên nhân phải kể đến đó là nền kinh tế Nhật Bản gặp khó khăn, mặt khác hoạt động đầu tư của các công ty Nhật Bản ở nước ngoài bị giảm sút, thứ nữa là ngoài Vi