Đề tài Thực trạng đời sống kinh tế – Xã hội – Văn hoá của cộng đồng người chăm ởan giang từsau năm 1975 đến nay

Đồng bằng sông Cửu Long nói chung và An Giang nói riêng được mọi người nói tới, nhắc tới và nghĩtới bằng nhiều tình cảm khác nhau. Là vùng đất miền Tây Nam Bộ, nơi có sông Tiền, sông Hậu và các chi lưu nhỏcủa sông Mê Kông chảy ra biển mà nhân dân ta từxưa quan niệm là chín con rồng (Cửu Long) phun nước đểtưới vùng đất đai này. Đây là vùng đất của lúa gạo, tôm, cá, miền đất của cây trái, mưa thuận gió hoà và đất của những anh hùng trong quá trình mở đất và giữ đất. Vềphương diện dân cư, đồng bằng sông Cửu Long là hỗn hợp dân cưtừnhiều nguồn địa phương khác nhau, đa dạng vềmặt tín ngưỡng, tôn giáo, trình độphát triển xã hội và văn hoá giữa các khu vực trong vùng cũng nhưlối sống, phong tục tập quán, phương thức canh tác, phong cách làm ăn không hoàn toàn nhưnhau. Vềphương diện dân tộc, đồng bằng sông Cửu Long ngay từbuổi đầu lịch sửkhai phá và hình thành vùng đất này đã có hỗn hợp giữa tộc người Việt, Khmer, Hoa, Chăm. Trong đó tộc người Việt và văn hoá Việt đã trởthành nhân tốphát triển cơbản bên cạnh sựhoà hợp với văn hoá tộc người Chăm, Khmer và văn hoá của các cưdân địa phương ởcác vùng ven biển Nam Trung Hoa. Tính chất bao trùm trên toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long là sựhoà hợp và phát triển những yếu tốvăn hoá và dân tộc người Việt là chủ đạo. Song những đặc trưng của văn hoá của các dân tộc người anh emkhác vẫn tồn tại sâu đậm trong nông thôn nhiều vùng đặc biệt ởAn Giang. Thểhiện rõ nét nhất là sựhoà hợp giữa ba tộc người Việt, Khmer, Hoa vềhiện tượng nói ba thứtiếng, sựvay mượn qua lại những yếu tốvăn hoá và phong tục tập quán của người Việt, người Khmer, người Hoa. Chúng ta có thểnhận thấy được sựhoà hợp và đa dạng vềmặt dân cưvà quá trình giao lưu xích lại gần nhau giữa các dân tộc ởvùng này là một hiện tượng lịch sửcó tính quy luật bắt nguồn từlịch sử di dân và định hình ởvùng đất này. An Giang là một trong 13 tỉnh thành của đồng bằng sông Cửu Long. An Giang là tỉnh nông nghiệp nằm ởTây Nam TổQuốc. Nơi con sông Mê Kông đổvào đồng bằng Nam Bộbằng hai dòng sông Tiền và sông Hậu - với tên gọi chung là sông Cửu Long. Vừa có đồng bằng vừa có núi non cùng với hệthống kênh rạch khá chằng chịt, dân sốkhoảng 2.300.000 người vào năm 2005, An Giang là tỉnh đa dân tộc : người Kinh, Khmer, Hoa, Chăm các dân tộc anh em đều định cưkhá lâu đời trên mảnh đất này với truyền thống yêu thương, đùm bọc lẫn nhau và tạo nơi đâymột bản sắc văn hoá riêng rất phong phú và đa dạng. Cùng với lịch sửhình thành vùng đất Nam Bộ, người Chăm đã định cưvà sinh sống ởvùng đồng bằng sông Cửu Long nói chung, An Giang nói riêng. Với dân sốtrên một vạn người, chiếm sốlượng đông nhất trong cộng đồng Chăm ởNam Bộ. Tuy có chung nguồn gốc với người Chăm Nam Trung Bộ, nhưng trải qua quá trình định cưlâu dài tại vùng đất An Giang, họcó một vịtrí riêng, bản sắc riêng rất độc đáo trong nền văn hoá Việt Nam, một sắc thái riêng trong ứng xửgiao tiếp với tựnhiên, xã hội và bản thân, trong sinh hoạt kinh tế, tổchức xã hội tôn giáo tín ngưỡng, phong tục tập quán trong sinh hoạt văn hoá, văn nghệ Bản sắc đó đã hoà quyện và phát triển theo dòng lịch sử đấu tranh hào hùng của cộng đồng các dân tộc anh em ởAn Giang. Cộng đồng người Chăm ởAn Giang cũng góp phần không nhỏcho bức tranh tươi đẹp của vùng đất mới này ngày hôm nay. Từthực tếsinh hoạt đời sống của cộng đồng cưdân người Chăm ởAn Giang trong tiến trình lịch sửvà những thay đổi của nét sinh hoạt đó qua những biến động của thời gian cộng đồng Chăm đã có thích ứng và chuyển biến cùng với nhịp phát triển của xã hội. Xuất phát từnhững yêu cầu của thực tiễn, tôi đã chọn đềtài “THỰC TRẠNG ĐỜI SỐNG KINH TẾ–XÃ HỘI – VĂN HOÁ CỦA CỘNG ĐỒNG NGƯỜI CHĂM ỞAN GIANG TỪSAU NĂM 1975 ĐẾN NAY ” làm đềtài luận văn.

pdf101 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2814 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng đời sống kinh tế – Xã hội – Văn hoá của cộng đồng người chăm ởan giang từsau năm 1975 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Thanh Dung Chuyên ngành : Lịch sử Việt Nam Mã số : 60 22 54 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. HÀ BÍCH LIÊN Thành phố Hồ Chí Minh - 2009 LỜI CẢM ƠN  Tác giả luận văn xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu, Ban Chủ nhiệm khoa Lịch sử và các thầy cô trong khoa Lịch sử trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh.  Xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Hà Bích Liên đã tận tình hướng dẫn trong suốt quá trình nghiên cứu để hoàn thành luận văn.  Cuối cùng, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn gia đình, những người thân yêu, bạn hữu đã dành tình cảm, động viên và giúp đỡ trong những ngày học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này. Thành phố Hồ Chí Minh - 2009 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu Đồng bằng sông Cửu Long nói chung và An Giang nói riêng được mọi người nói tới, nhắc tới và nghĩ tới bằng nhiều tình cảm khác nhau. Là vùng đất miền Tây Nam Bộ, nơi có sông Tiền, sông Hậu và các chi lưu nhỏ của sông Mê Kông chảy ra biển mà nhân dân ta từ xưa quan niệm là chín con rồng (Cửu Long) phun nước để tưới vùng đất đai này. Đây là vùng đất của lúa gạo, tôm, cá, miền đất của cây trái, mưa thuận gió hoà và đất của những anh hùng trong quá trình mở đất và giữ đất. Về phương diện dân cư, đồng bằng sông Cửu Long là hỗn hợp dân cư từ nhiều nguồn địa phương khác nhau, đa dạng về mặt tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ phát triển xã hội và văn hoá giữa các khu vực trong vùng cũng như lối sống, phong tục tập quán, phương thức canh tác, phong cách làm ăn không hoàn toàn như nhau. Về phương diện dân tộc, đồng bằng sông Cửu Long ngay từ buổi đầu lịch sử khai phá và hình thành vùng đất này đã có hỗn hợp giữa tộc người Việt, Khmer, Hoa, Chăm. Trong đó tộc người Việt và văn hoá Việt đã trở thành nhân tố phát triển cơ bản bên cạnh sự hoà hợp với văn hoá tộc người Chăm, Khmer và văn hoá của các cư dân địa phương ở các vùng ven biển Nam Trung Hoa. Tính chất bao trùm trên toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long là sự hoà hợp và phát triển những yếu tố văn hoá và dân tộc người Việt là chủ đạo. Song những đặc trưng của văn hoá của các dân tộc người anh em khác vẫn tồn tại sâu đậm trong nông thôn nhiều vùng đặc biệt ở An Giang. Thể hiện rõ nét nhất là sự hoà hợp giữa ba tộc người Việt, Khmer, Hoa về hiện tượng nói ba thứ tiếng, sự vay mượn qua lại những yếu tố văn hoá và phong tục tập quán của người Việt, người Khmer, người Hoa. Chúng ta có thể nhận thấy được sự hoà hợp và đa dạng về mặt dân cư và quá trình giao lưu xích lại gần nhau giữa các dân tộc ở vùng này là một hiện tượng lịch sử có tính quy luật bắt nguồn từ lịch sử di dân và định hình ở vùng đất này. An Giang là một trong 13 tỉnh thành của đồng bằng sông Cửu Long. An Giang là tỉnh nông nghiệp nằm ở Tây Nam Tổ Quốc. Nơi con sông Mê Kông đổ vào đồng bằng Nam Bộ bằng hai dòng sông Tiền và sông Hậu - với tên gọi chung là sông Cửu Long. Vừa có đồng bằng vừa có núi non cùng với hệ thống kênh rạch khá chằng chịt, dân số khoảng 2.300.000 người vào năm 2005, An Giang là tỉnh đa dân tộc : người Kinh, Khmer, Hoa, Chăm …các dân tộc anh em đều định cư khá lâu đời trên mảnh đất này với truyền thống yêu thương, đùm bọc lẫn nhau và tạo nơi đây một bản sắc văn hoá riêng rất phong phú và đa dạng. Cùng với lịch sử hình thành vùng đất Nam Bộ, người Chăm đã định cư và sinh sống ở vùng đồng bằng sông Cửu Long nói chung, An Giang nói riêng. Với dân số trên một vạn người, chiếm số lượng đông nhất trong cộng đồng Chăm ở Nam Bộ. Tuy có chung nguồn gốc với người Chăm Nam Trung Bộ, nhưng trải qua quá trình định cư lâu dài tại vùng đất An Giang, họ có một vị trí riêng, bản sắc riêng rất độc đáo trong nền văn hoá Việt Nam, một sắc thái riêng trong ứng xử giao tiếp với tự nhiên, xã hội và bản thân, trong sinh hoạt kinh tế, tổ chức xã hội tôn giáo tín ngưỡng, phong tục tập quán trong sinh hoạt văn hoá, văn nghệ … Bản sắc đó đã hoà quyện và phát triển theo dòng lịch sử đấu tranh hào hùng của cộng đồng các dân tộc anh em ở An Giang. Cộng đồng người Chăm ở An Giang cũng góp phần không nhỏ cho bức tranh tươi đẹp của vùng đất mới này ngày hôm nay. Từ thực tế sinh hoạt đời sống của cộng đồng cư dân người Chăm ở An Giang trong tiến trình lịch sử và những thay đổi của nét sinh hoạt đó qua những biến động của thời gian cộng đồng Chăm đã có thích ứng và chuyển biến cùng với nhịp phát triển của xã hội. Xuất phát từ những yêu cầu của thực tiễn, tôi đã chọn đề tài “THỰC TRẠNG ĐỜI SỐNG KINH TẾ –XÃ HỘI – VĂN HOÁ CỦA CỘNG ĐỒNG NGƯỜI CHĂM Ở AN GIANG TỪ SAU NĂM 1975 ĐẾN NAY ” làm đề tài luận văn. Cộng đồng người Chăm Hồi Giáo ở đồng bằng sông Cửu Long tập trung cư trú ở An Giang. Về đời sống kinh tế, xã hội, văn hoá của cư dân ở đây trong buổi đầu định cư, dưới chế độ thực dân cũ và mới, sau giải phóng với sự giúp đỡ của chính quyền cách mạng đã từng bước giải quyết góp phần ổn định và nâng cao đời sống của người Chăm được Đảng và Nhà nước ta quan tâm sâu sắc thông qua các chính sách chăm lo hỗ trợ cho cộng đồng Chăm về mọi mặt. Với một cái nhìn toàn diện luận văn sẽ góp phần tạo nên bức tranh đặc thù về kinh tế, xã hội, văn hoá của cộng đồng Chăm ở An Giang nói riêng và ở đồng bằng sông Cửu Long nói chung. Trong quá trình cộng cư, các tộc người Kinh, Khmer, Hoa, Chăm đã không ngừng học hỏi, giao lưu, đoàn kết, đùm bọc cùng nhau phát triển sẽ là một ý nghĩa quan trọng cho công việc xây dựng nông thôn mới ở miền biên giới tỉnh An Giang. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Như tên đề tài luận văn, đối tượng nghiên cứu là cộng đồng người Chăm ở An Giang trên bình diện tổng thể, xét trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội - văn hoá trong quá trình định cư, khai phá bảo vệ vùng đất mới này cũng như những đóng góp của người Chăm trong xây dựng phát triển đất nước. Thời điểm lịch sử được giới hạn là sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng (1975) đến nay. Với phạm vi nghiên cứu trên, luận văn đề cập đến những vấn đề cụ thể sau: - Sự hình thành và phát triển cộng đồng cư dân Chăm ở An Giang, những luồng di cư đông đảo của người Chăm từ Campuchia về Việt Nam tạo nên một cộng đồng cư dân đông đúc. - Từ việc nghiên cứu thực trạng đời sống của cộng đồng người Chăm ở An Giang trong quá khứ và hiện tại. Luận văn sẽ dựng lại bức tranh tổng quan về đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội của cộng đồng người Chăm ở An Giang. - Trên cơ sở đó luận văn đề cập đến những khuynh hướng biến đổi trong đời sống kinh tế, xã hội, văn hoá của cộng đồng người Chăm ở An Giang trước yêu cầu phát triển của xã hội. Sự biến mất của những tập tục lạc hậu và việc gìn giữ và phát huy những giá trị truyền thống văn hoá của dân tộc Chăm. Từ đó, tác giả đề xuất những chính sách đối với chính quyền địa phương và các cấp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho cộng đồng người Chăm có thể phát huy vai trò của họ, đóng góp vào sự phát triển kinh tế của vùng. 3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Thư tịch cổ Trung Hoa và các bộ sử trước đây của Việt Nam đã có những ghi chép về dân cư và các vương quốc Champa - Vương quốc cổ của tổ tiên người Chăm ngày nay. Tuy nhiên phải đến nửa cuối thế kỷ XIX trong sự phát triển chung của các ngành khoa học, người Chăm và các nền văn hoá của họ mới được nghiên cứu với tư cách là đối tượng của nhiều ngành khoa học xã hội khác nhau. Nền văn hoá ấy đã hấp dẫn nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước và đến nay việc nghiên cứu văn hoá Chăm ít nhiều mang tính chất quốc tế. Năm 1852, lần đầu tiên một bài khảo sát ngôn ngữ học của J.Crawful về từ vựng Chăm đồng thời mở đầu cho việc nghiên cứu về người Chăm và văn hoá Chăm theo chiều hướng mới. Phải đến thập niên 80, hoạt động nghiên cứu về người Chăm mới thực sự được đẩy mạnh trên nhiều lĩnh vực và không ngừng tiến triển cho đến ngày nay. Ở người Chăm, tôn giáo chi phối hầu hết các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội của họ. Mỗi người Chăm sống trong cộng đồng của họ đều theo một tôn giáo nhất định và tạo nên 3 nhóm tín đồ (Chăm Jat, Chăm Bani, Chăm Islam) khiến cho sự kết tộc người diễn ra dưới tác động của quan hệ tôn giáo, có thể nói ở người Chăm vấn đề dân tộc gắn liền với vấn đề tôn giáo. Từ năm 1975, hoạt động nghiên cứu về người Chăm và văn hoá Chăm của các ngành khoa học xã hội Việt Nam ngày càng được đẩy mạnh nhất là Dân tộc học và Khảo cổ học. Trong các hội thảo đó, số tham luận liên quan đến người Chăm của các tác giả Mạc Đường, Mad Mod chiếm một tỉ lệ đáng kể được tập trung trong tập kỷ yếu “ Những vấn đề dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long”. Mặt khác với kỷ yếu “Mấy đặc điểm văn hoá đồng bằng sông Cửu Long” với các tham luận của tác giả Văn Dương Thành, Văn Đình Hy đã khái quát khá sâu sắc về nét sinh hoạt trong đời sống vật chất, văn hoá văn nghệ của đồng bào Chăm theo đạo Islam ở đồng bằng sông Cửu Long. Bên cạnh đó, tác giả Mad Mod một lần nữa đã đóng góp vào hội nghị khoa học xã hội lần thứ nhất về đồng bằng sông Cửu Long một tham luận liên quan đến nhóm Chăm Hồi giáo ở đồng bằng sông Cửu Long với những nét khái quát về đặc điểm kinh tế xã hội của nhóm cộng đồng này. Đến nay, thì đã có thêm nhiều chuyên khảo được xuất bản như văn hoá cổ Champa, lịch sử vương quốc Champa và các bài viết đăng tải trên các tạp chí và các công trình tổng hợp khác của các tác giả Phan An, Phạm Xuân Biên, Phan Văn Dốp. Qua đó các mặt sản xuất truyền thống, cơ cấu tổ chức xã hội, đời sống tinh thần của người Chăm đã được trính bày. Đáng chú ý là đã có hai luận án Phó tiến sĩ khoa học lịch sử nghiên cứu các hình thức văn hoá vật chất của người Chăm đã được bảo vệ là Phan Thị Yến Tuyết và Thành Phần. Ngoài ra còn phải kể đến nhiều luận án tốt nghiệp Đại học chọn đề tài nghiên cứu về người Chăm và văn hoá Chăm. Trong suốt quá trình kể trên nhiều vấn đề có liên quan đến người Chăm đã thu hút được sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu như tín ngưỡng và tôn giáo, hôn nhân và gia đình, nghề thủ công truyền thống của người Chăm, sinh hoạt văn hoá vật chất, văn hoá tinh thần … Điều này phải kể đến công trình nghiên cứu của các tiến sĩ và phó tiến sĩ khoa học lịch sử như Trần Ngọc Khánh, Phan Văn Dốp, Võ Công Nguyện …Trong loạt bài đăng trên các tạp chí Dân Tộc, tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á … của các tác giả Bá Trung Phụ, Phạm Thị Vinh, Trần Nam Tiến, Châu Tấn Lực … phần nào tái hiện lại những nét đẹp truyền thống nghi lễ cưới dân tộc Chăm, nét y phục Chăm và nghi lễ tôn giáo... Nhìn chung, các tác giả đã có sự đóng góp rất quan trọng làm phong phú bức tranh đời sống kinh tế, xã hội văn hoá của cộng đồng người Chăm ở Việt Nam. Người Chăm ở An Giang là một bộ phận của dân tộc Chăm đã tách khỏi cộng đồng của mình ở Trung Bộ và cùng cộng cư với người Việt, người Hoa, người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long.Công trình mang tính chất dân tộc học đầu tiên về người Chăm được Alubussìere viết năm 1880 “Rapportsur Les chams et les Malais de L’arrondis Sement” đã đề cập đến nếp sống của người Chăm (và người Mã Lai) ở Châu Đốc dưới tác động của đạo Islam. Sau này trong một chuyên khảo về cộng đồng Hồi giáo ở Đông Dương (thuộc Pháp) M.Ner đã nêu một số nét cơ bản về kinh tế, xã hội, giáo dục, tôn giáo của các làng Chăm Châu Đốc, tác giả cũng giới thiệu về những ngoại kiều theo Hồi giáo ở Sài Gòn và người Chăm Mã Lai theo Hồi giáo ở Campuchia. Có thể nói, đó là những công trình nghiên cứu về tôn giáo của người Chăm dựa trên “khảo sát thực địa” cho chúng ta biết về tình trạng tôn giáo của người Chăm ở nửa đầu thế kỷ XX. Từ những năm 50 đến năm 1975 các tác giả trong nước như Bố Thuận, Nghiêm Thẩm, Dohamide, Nguyễn văn Luận, … rất quan tâm đến cộng đồng người Chăm ở Nam Bộ (Châu Đốc, Tây Ninh, Sài Gòn), các bài viết về các mặt phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo đã được đăng tải trên các tập chí Bách Khoa, Tập san Sử - Địa, Văn hoá Nguyệt San được xuất bản tại Sài Gòn trước năm 1975 đặc biệt Bách Khoa số từ 135 đến số 147 (từ tháng 8 năm 1962 đến tháng 2 năm 1963). Tuy nhiên, những chuyên khảo liên quan đến người Chăm ở Nam Bộ cụ thể ở An Giang do các tác giả Việt Nam viết được xuất bản dưới dạng sách hãy còn hiếm hoi. Tuy nhiên, chúng ta được biết đến công trình của Nguyễn Văn Luận đã giới thiệu một cách toàn diện về người Chăm ở Nam Bộ trong nếp sinh hoạt, tập tục gia đình và đời sống tôn giáo của họ qua nghiên cứu “Người Chăm Hồi giáo miền Tây Nam phần Việt Nam”. Cùng nghiên cứu nhóm cư dân địa phương người Chăm ở Nam Bộ, phải nói đến Mad Mod và nhiều nhà khoa học quan tâm tìm hiểu dưới nhiều khía cạnh nghiên cứu khác nhau của ngành Dân tộc học. Với bài viết “ Người Chăm ở đồng bằng sông Cửu Long” của Phan Văn Dốp, Nguyễn Việt Cường đã phần nào giới thiệu sơ lược nét hoạt động buôn bán trao đổi, nghề dệt thủ công, đánh cá nước ngọt và nông nghiệp người Chăm ở An Giang. Cũng những nét sinh hoạt đời sống văn hoá vật chất như nhà ở, trang phục, lễ hội... được Phan Thị Yến Tuyết cũng đã đề cập khá rõ nét qua luận án “Văn hoá vật chất của các dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long”. Bên cạnh đó, chúng ta phải kể đến công trình nghiên cứu rất có giá trị của Lâm Tâm “ Một số tập tục người Chăm ở An Giang”, do Chi hội Văn nghệ dân gian và Hội văn nghệ Châu Đốc xuất bản năm 1993. Một thuận lợi của Lâm Tâm sinh ra và lớn lên ở nơi có nhiều đồng bào Chăm sinh sống, nên khá am hiểu về người Chăm. Ông có điều kiện nghiên cứu và đã nhiều năm đi thực tế và biên soạn thành một công trình về đời sống người Chăm ở An Giang. Với tác phẩm này, nguồn gốc, đặc điểm, tập tục, sinh hoạt văn hoá và tín ngưỡng của người Chăm ở An Giang được tác giả khái quát một cách toàn diện. Tuy chưa sâu nhưng đóng vai trò quan trọng mà nhiều đời dân tộc Chăm ở An Giang mơ ước nay đã thành hiện thực với món quà tinh thần quí báu mà Chi hội văn nghệ dân gian Việt Nam Tỉnh An Giang khi xuất bản tác phẩm này. Nghiên cứu về người Chăm ở An Giang tuy chưa có nhiều tài liệu đề cập một cách sâu sắc và bao quát một cách toàn diện mọi mặt đời sống vật chất, tinh thần. Thông qua việc tham khảo các tập chí Dân tộc học, tạp chí Văn hoá dân tộc, tạp chí Xưa và Nay đăng tải các bài nghiên cứu có nội dung liên quan đến đề tài đặc biệt là các công trình nghiên cứu nêu trên của các tác giả đã giúp cho bản thân tác giả luận văn có một cái nhìn toàn diện về mọi mặt trong đời sống của cộng đồng Chăm ở An Giang. 4. Nguồn sử liệu và phương pháp nghiên cứu 4.1. Nguồn sử liệu Trong quá trình nghiên cứu đề tài : “Thực Trạng Đời Sống Kinh Tế - Xã Hội - Văn Hoá của cộng đồng người Chăm ở An Giang” tác giả đã tiếp cận các nguồn tài liệu: 1. Nguồn tài liệu từ các bộ thông sử Việt Nam các sách chuyên khảo mà tác giả khai thác từ tác phẩm Đại Nam Thực Lục, Gia Định Thành Thông Chí, Đại Nam Nhất Thống Chí, Việt Sử Xứ Đàng Trong, Văn hoá và dân cư đồng bằng sông Cửu Long, … có những ghi chép về quá trình mở mang vùng đất cực Nam tổ quốc việc bang giao giữa Việt Nam với các nước láng giềng lịch sử di dân của các cư dân đến vùng đất mới này có liên quan đến đề tài luận văn này. 2. Các tác phẩm, bài nghiên cứu của các sử gia Việt Nam hiện đại đề cập đến lịch sử vùng đất Nam Bộ, phác hoạ những nét sinh hoạt cơ bản trong đời sống của cộng đồng Chăm ở Trung Bộ cũng như cộng đồng Chăm ở An Giang. 3. Các tạp chí trong nước, luận văn, luận án có liên quan đến đề tài. 4. Nguồn sử liệu truyền miệng : Từ các giáo cả (Hakêm) ở các thánh đường Hồi giáo ở An Giang, tác giả luận văn thu thập những nguồn tài liệu quý giá về dân tộc Chăm như nét sinh hoạt trong đời sống, sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng của cộng đồng Hồi giáo An Giang được ghi nhận và sử dụng trong luận văn. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau : 1. Phương pháp tiếp cận hệ thống: đặt cộng đồng người Chăm ở An Giang trong mối quan hệ giữa các dân tộc người cùng sinh sống ở vùng đất này : Kinh, Khmer, Hoa. Cùng quá trình lịch sử đời sống của cộng đồng Chăm có đặc trưng như thế nào và có sự hoà hợp, thích ứng với vùng đất và con người ở đây. 2. Phương pháp chuyên ngành: ngoài phương pháp lịch sử, phương pháp logic, tác giả còn dùng phương pháp phân tích, phương pháp so sánh để làm rõ mối liên hệ giữa các sự kiện lịch sử, nhằm làm nêu bật nội dung cốt lõi, bản chất của sự vật, sự việc, cố gắng trình bày các luận điểm trên cơ sở đáng giá nhận xét các sự kiện lịch sử như nó đã từng diễn ra. 3. Phương pháp liên ngành: Bên cạnh phương pháp chuyên ngành thì phương pháp liên ngành cũng được chú trọng trong việc khai thác các nguồn tư liệu. Tác giả đã sử dụng các phương pháp liên ngành sau : - Phương pháp khảo sát điền dã: Trên cơ sở bám sát tài liệu, việc quan sát thực tế, tiếp xúc với các di tích lịch sử cụ thể là các thánh đường Hồi giáo Chăm, các Palây, Puk để tìm hiểu về nét sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng về phong tục tập quán, cách sinh sống của cộng đồng Chăm …. - Phương pháp điều tra phỏng vấn: Thông qua việc tiếp xúc, phỏng vấn các giáo cả (HaKêm) có vai trò chủ chốt trong cộng đồng Chăm An Giang để thu thập những nguồn tư liệu làm phong phú thêm nội dung có liên quan. - Phương pháp thống kê : Từ việc khảo sát bằng phiếu câu hỏi đối với cộng đồng người Chăm ở An Giang, tác giả tập hợp các số liệu thống kê, để làm tư liệu minh họa cho luận văn. 5. Những đóng góp mới của luận văn Trên cơ sở tập hợp, chọn lựa và xử lý về căn bản một khối lượng tài liệu tương đối đầy đủ, có xuất xứ từ nhiều nguồn khác nhau, luận văn sẽ mô tả lại một cách chân thực bức tranh tổng thể quá trình hình thành và phát triển cộng đồng Chăm ở An Giang, thực trạng đời sống kinh tế, xã hội, văn hoá của cư dân trong vùng để khắc họa đặc trưng riêng của cộng đồng Chăm ở đây cụ thể thời kỳ từ sau năm 1975 đến nay. Từ thực trạng đó, luận văn còn đi sâu phân tích làm rõ sự chuyển biến trong đời sống kinh tế, xã hội, văn hoá của đồng bào Chăm An Giang qua quá trình lịch sử dân tộc. Từ đó, chúng ta có một cái nhìn toàn diện vai trò của cộng đồng Chăm trong sự phát triển của vùng cũng như của đất nước ta. Qua thực trạng đời sống kinh tế, xã hội, văn hoá của cộng đồng người Chăm ở An Giang được phác họa sẽ tạo cơ sở cho những đề xuất, kiến nghị đối với chính quyền các cấp trong việc xây dựng và nâng cao đời sống kinh tế, xã hội, phát huy và bảo tồn các di sản văn hoá của cộng đồng người Chăm ở An Giang trong thời gian tới. Cuối cùng, nội dung của luận văn có thể là nguồn tư liệu phục vụ cho việc giảng dạy, học tập và nghiên cứu trong việc nhận diện các dân tộc ở Việt Nam. 6. Bố cục luận văn Luận văn bao gồm phần mở đầu, 3 chương và phần kết luận. Chương 1 : Lịch sử hình thành và phát triển cộng đồng người Chăm ở An Giang. Chương 2 : Bức tranh tổng quan về đời sống kinh tế - xã hội - văn hoá của cộng đồng người Chăm ở An Giang. Chương 3 : Chính sách đối với cộng đồng người Chăm ở An Giang - Những đề xuất và kiến nghị. Chương 1 : LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG NGƯỜI CHĂM Ở AN GIANG 1.1.Vài nét về nguồn gốc hình thành Cộng đồng người Chăm ở An Giang 1.1.1. Những biến cố lịch sử dẫn đến việc di cư của người Chăm Champa là một từ Phạn ngữ, vốn là tên của một loài có hương thơm dịu mát mà ở Việt Nam gọi là hoa đại hoặc bông sứ, có tên khoa học là Plumeríaruba L.CU.acutifolia. Champa cũng còn là một địa danh cổ của một vùng đất ở miền đông bắc Ấn Độ. Ở Việt Nam, Champa lại là tên một quốc gia cổ được thấy khắc ghi đầu tiên trên bia ký Phạn ngữ vào thế kỷ thứ VI. Đó là bia của Sambhuvarman.Trong Tân Đường thư, nước Champa ấy được Âu Dương Tu - Tổng Kỳ phiên âm ra Hán ngữ là Chiêm Bà khi nói về nước Hoàn Vương, đồng thời cho biết Chiêm Bà nguyên xưa là nước Lâm Ấp. Chính nhờ những điều ghi trên đây của Âu Dương Tu - Tổng Kỳ mà chúng ta được biết tên Champa được đặt làm tên nước. Trên đất nước ta cũng đã sớm định hình một quốc gia Champa trong lịch sử. Champa đích thự