Trong tiến trình hội nhập nền kinh tế toàn cầu, Việt Nam đã đạt được những thành quả đáng kể ở nhiều mặt. Song nếu đi sâu vào tìm hiểu, theo nhiều nhà quan sát trong và ngoài nước Việt Nam vẫn chưa đạt được những lợi thế nhất định. Việt Nam được công nhận có rừng vàng biển bạc, có lợi thế về xuất khẩu các mặt hàng thuỷ sản, dệt may, giày dép. Từ cuối thế kỷ 90 của thế kỷ trước đến nay xuất khẩu thuỷ sản được coi là trong những ngành mũi nhọn mà Đảng, Nhà nước ta đã vạch ra cùng với xuất khẩu dệt may, giầy dép kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản không ngừng tăng lên. Các thị trường mà thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu sang chủ yếu là Mỹ, Nhật, EU, Nga,. Từ năm 2004 đến nay thị trường Nhật được coi là một trong những thị trường chiếm tỷ lệ nhập khẩu của thuỷ sản Việt Nam lớn (từ 21-25%). Đây cũng là thị trường mà thuỷ sản Việt Nam xuất sang được giá khá cao (từ 250-300USD/tấn), cao hơn nhiều so với các thị trường khác. Riêng mặt hàng tôm hàng năm đạt trên 500 triệu USD.
Nhật cũng là một thị trường khá khó tính về ý thức vệ sinh an toàn thực phẩm cũng như những yêu cầu trong giám sát từ nuôi trồng, chế biến tới bảo quản xuất khẩu.Hai năm gần đây Chính phủ Nhật liên tục thực hiện chính sách quản lý nghiêm, giám sát chặt trong việc kiểm tra chất lượng, độ dư lượng kháng sinh trong các mặt hàng thuỷ sản được nhập khẩu vào. Hàng năm kim ngạch xuất khẩu của thuỷ sản Việt Nam sang Nhật đạt hơn 1 tỷ USD. Trước việc thực hiện siết chặt quản lý, tăng cường giám sát chất lượng hàng thuỷ sản của Nhật Bản đã ảnh hưởng không nhỏ tới xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam.
24 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1281 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng hàng thuỷ sản Việt Nam trong thời gian qua và trong tương lai trước những chính sách tăng cường kiểm soát, quản lý chất lượng thuỷ sản nhập khẩu của Nhật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tiến trình hội nhập nền kinh tế toàn cầu, Việt Nam đã đạt được những thành quả đáng kể ở nhiều mặt. Song nếu đi sâu vào tìm hiểu, theo nhiều nhà quan sát trong và ngoài nước Việt Nam vẫn chưa đạt được những lợi thế nhất định. Việt Nam được công nhận có rừng vàng biển bạc, có lợi thế về xuất khẩu các mặt hàng thuỷ sản, dệt may, giày dép. Từ cuối thế kỷ 90 của thế kỷ trước đến nay xuất khẩu thuỷ sản được coi là trong những ngành mũi nhọn mà Đảng, Nhà nước ta đã vạch ra cùng với xuất khẩu dệt may, giầy dép kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản không ngừng tăng lên. Các thị trường mà thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu sang chủ yếu là Mỹ, Nhật, EU, Nga,... Từ năm 2004 đến nay thị trường Nhật được coi là một trong những thị trường chiếm tỷ lệ nhập khẩu của thuỷ sản Việt Nam lớn (từ 21-25%). Đây cũng là thị trường mà thuỷ sản Việt Nam xuất sang được giá khá cao (từ 250-300USD/tấn), cao hơn nhiều so với các thị trường khác. Riêng mặt hàng tôm hàng năm đạt trên 500 triệu USD.
Nhật cũng là một thị trường khá khó tính về ý thức vệ sinh an toàn thực phẩm cũng như những yêu cầu trong giám sát từ nuôi trồng, chế biến tới bảo quản xuất khẩu.Hai năm gần đây Chính phủ Nhật liên tục thực hiện chính sách quản lý nghiêm, giám sát chặt trong việc kiểm tra chất lượng, độ dư lượng kháng sinh trong các mặt hàng thuỷ sản được nhập khẩu vào. Hàng năm kim ngạch xuất khẩu của thuỷ sản Việt Nam sang Nhật đạt hơn 1 tỷ USD. Trước việc thực hiện siết chặt quản lý, tăng cường giám sát chất lượng hàng thuỷ sản của Nhật Bản đã ảnh hưởng không nhỏ tới xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Tìm hiểu và nghiên cứu thực trạng hàng thuỷ sản Việt Nam trong thời gian qua và trong tương lai trước những chính sách tăng cường kiểm soát, quản lý chất lượng thuỷ sản nhập khẩu của Nhật. Đồng thời đề tài cũng xin đề xuất một số giải pháp cho các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản, ngành thuỷ sản Việt Nam khi xuất khẩu thuỷ sản sang Nhật.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
Hoạt động nuôi trồng, đánh bắt, chế biến, xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam trước những chính sách thương mại mà Nhật đã, đang áp dụng trong thời gian qua.
"Thực trạng hàng thuỷ sản Việt Nam trong thời gian qua và trong tương lai trước những chính sách tăng cường kiểm soát, quản lý chất lượng thuỷ sản nhập khẩu của Nhật".
Nội dung của đề tài gồm 3 chương.
Chương I: Mô tả tình huống.
Chương II: Phân tích tình huống
Chương III: Những bài học rút ra và đề xuất các giải pháp giải quyết tình huống.
Bài viết có sử dụng nhiều tài liệu, các tập tin trên một số tờ báo kinh tế, một số thông tin của Bộ Thuỷ sản, Cục Hải quan và một số nguồn thông tin khác. Việc đi sâu vào tìm hiểu tuy đã có cố gắng xong cũng gặp một số hạn chế nhất định, mong nhận được sự góp ý của Quý thầy cô và bạn đọc.
CHƯƠNG I
MÔ TẢ TÌNH HUỐNG
1.1. Đánh giá chung.
Liên tiếp từ cuối năm 2006 đến nay một số mặt hàng thuỷ sản Việt Nam khi xuất sang Nhật bị trả lại. Các lô hàng thuỷ sản bị trả lại được phía Nhật kết luận là có dư lượng kháng sinh cấm và một số hoá chất dư lượng quá mức cho phép. Từ đầu năm 2007 tới hết tháng 6/2007 phía Nhật cũng đưa ra một số lời cảnh báo với các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam về việc tăng cường kiểm soát, siết chặt quản lý chất lượng đối với các mặt hàng thuỷ sản được xuất khẩu từ phía Việt Nam. Phía Nhật tuyên bố nếu các doanh nghiệp này không giải quyết các vấn đề một cách triệt để có thể cho ngừng nhập khẩu thuỷ sản. Theo ông Trần Thiện Hải-Chủ tịch Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản (VASEP): "Phía Nhật đã tăng kiểm tra số lô hàng từ 50% lên 100% với thuỷ sản Việt Nam. Mới đây ngày 25/6/2007, VASEP đã nhận được thông cáo từ Đại sứ Nhật về việc nếu phía Việt Nam không đưa ra những giải pháp ngăn chặt triệt để tình trạng thuỷ sản Việt Nam có dư lượng kháng sinh cao có thể sẽ xem xét ngừng nhập khẩu các mặt hàng thuỷ sản Việt Nam" (Trích bài viết của tác giả Quang Trí trên báo kinh tế Việt Nam).
Theo VASEP đến cuối 5/2007 Việt Nam đã xuất sang Nhật 39.090 tấn sản phẩm thuỷ hải sản trị giá 240 triệu USD. Nếu tính so với cùng kỳ năm ngoái thì giá trị xuất khẩu giảm gần 20%. Trong 6 tháng đầu năm 2007Việt Nam xuất khoảng 6000 lô hàng thuỷ sản sang Nhật, trong đó có 94 lô bị phía Nhật cảnh cáo có dư lượng kháng sinh (chiếm 1,6%). Các sản phẩm này chủ yếu nhiễm CAP (55 lô), AOZ (17 lô), SEM (6 lô), COLIFORM (7 lô), SUNFUARADIOXIDE (2 lô). Đã có 48 doanh nghiệp có lô hàng bị cảnh báo, trong đó có 2 Công ty bị phát hiện trên 4 lô, 10 Công ty 3 lô, 3 Công ty 2 lô và 23 Công ty có 1 lô bị cảnh báo. Các nhóm hàng bị CAP là tôm biển cỡ nhỏ, mực ống, mực nang.
Tôm là mặt hàng chủ yếu mà Việt Nam xuất khẩu sang Nhật hàng năm giá trị xuất khẩu tôm sang thị trường Nhật trên 500 triệu USD (chiếm 56,7%). Đến cuối năm 2006 tới nay thì tỷ lệ vi phạm của mặt hàng này cũng vượt ngưỡng 1,6%. Trong đó chất CAP chiếm 6,7%, tổng các lô hàng được kiểm tra tại cảng nhập khẩu của Nhật Đồng thời từ đầu năm tới nay cũng có nhiều lô hàng xuất khẩu tôm Việt Nam bị phía Nhật trả về. Đầu tháng 3 năm 2007 TOKYO đã cảnh báo trên mạng của Bộ Ytế lao động và phúc lợi của Nhật là có 2 lô hàng tôm sú nhập khẩu từ Việt Nam có hàm lượng chất AOZ quá mức cho phép. Trước đó cơ quan này đã công bố việc tìm thấy dư lượng CAP ở một số lô hàng mực nhập khẩu từ Việt Nam và Trung Quốc. Đồng thời cũng tìm thấy vi khuẩn Ecoli trong một số lô hàng tôm đông lạnh chiên sẵn từ Việt Nam. Đièu đó cho thấy giá trị xuất khẩu mặt hàng này đã giảm sút đáng kể.Việc Nhật Bản mất đi vị trí dẫn đầu trong nhập khẩu thuỷ Việt Nam là một sự thật đáng buồn cho các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản. Thậm chí trongt hời gian tới nếu không có những chuyển biến tích cực, các doanh nghiệp thuỷ sản chúng ta sẽ mất hẳn đi thị trường này. Nừu quả xảy ra thật thì “ đau quá” cho ngành thủy sản Việt Nam.
1.2. Động cơ của việc Nhật Bản tăng cường kiểm soát và quản lý chất lượng thuỷ sản nhập khẩu từ Việt Nam
Thứ nhất: Nhật là một thị trường có sức tiêu thụ lớn về hàng thuỷ sản, song lại khá khó tính nên tiêu dùng những mặt hàng có ảnh hưởng không tốt tới sức khoẻ sẽ làm người tiêu dùng cảm thấy bất an. Một nền kinh tế phát triển thì việc bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng là một điều cần thiết và cần được thực hiện một cách chặt chẽ. Không chỉ Chính phủ Nhật là các cơ quan lãnh đạo khác cũng muốn đảm bảo cho người tiêu dùng được sử dụng những sản phẩm có độ an toàn cao. Việc Chính phủ Nhật tăng cường kiểm soát và quản lý chặt đối với hàng thuỷ sản được nhập khẩu không chỉ đối với thuỷ sản Việt Nam và với nhiều quốc gia xuất khẩu vào thị trường này. Với những mặt hàng thuỷ sản không đảm bảo chất lượng đã và đang được phía Nhật trả lại, họ không muốn người tiêu dùng trong nước sử dụng những mặt hàng này.
Thứ hai: Qua việc siết chặt chính sách thương mại đối với hàng thuỷ sản nước ngoài họ mong muốn làm giảm áp lực cho các doanh nghiệp thuỷ sản trong nước . Rõ ràng cạnh tranh trên một thị trường có sức tự do cao là rất khốc liệt. Một khi không biết và nắm bắt tốt về những thị trường này tính khốc liệt sẽ làm cho bất kỳ doanh nghiệp nào thất bại. Siết chặt quản lý chất lượng thuỷ sản nhập khẩu, tăng cường kiểm tra chất lượng tại các cảng nhập sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thuỷ sản, có điều kiện về thời gian, về lực để tranh thủ chiếm chính thị trường trong nước của mình. Nhật là một quốc gia có đường biển dài bao quanh, có lượng tàu thuyền lưu thông lớn trên thế giới, do đó thuỷ sản ở Nhật cũng là một ngành khá phát triển. Khi có sự xâm nhập từ ngoài vào thì áp lực cạnh tranh sẽ tăng lên, điều đó cũng chứng minh việc Chính phủ Nhật mong muốn giảm bớt áp lực này cho các doanh nghiệp thủy sản trong nước của mình.
Thứ ba: Nhật Bản mong muốn qua chính sách này sẽ cảnh báo tới các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam là họ chỉ cho phép các doanh nghiệp đủ điều kiện mới được hoạt động trên thị trường này. Phía Nhật sẵn sàng cấm nhập khẩu các hàng thuỷ sản đối với các doanh nghiệp vi phạm các tiêu chuẩn cho phép. Đây là điều cần để các doanh nghiệp Việt Nam lưu tâm, chú ý,và cũng thể hiện động cơ rõ ràng nhất để phía Nhật áp dụng chính sách thương mại này với thuỷ sản Việt Nam.
1.3. Tác động của việc tăng cường kiểm soát, siết chặt quản lý chất lượng hàng thuỷ sản
1.3.1. Tác động đối với phía Nhật
Thứ nhất: Tác động tới tiêu ding trên thị trường Nhật: Giảm thiểu những mặt hàng thuỷ sản không đảm bảo chất lượng được nhập khẩu vào thị trường. Đồng thời có tác động lớn tới sức tiêu dùng và tâm lý tiêu dùng của người tiêu dùng Nhật Bản. Một khi công tác quản lý chất lượng được thực hiện nghiêm thì hiệu quả của nó tạo ra là rất rõ rệt. Người tiêu dùng sẽ yên tâm hơn việc họ được bảo đảm an toàn khi sử dụng những mặt hàng thuỷ sản nhập khẩu. Những mặt hàng thuỷ sản nhập khẩu vào Nhật không chỉ dùng để bán ngay ra thị trường mà một số còn được sử dụng để chế biến tạo ra các sản phẩm, thực phẩm liên quan.
Thứ hai: Tác động tới hoạt động của các doanh nghiệp thuỷ sản của Nhật: Việc thực hiện siết chặt quản lý chất lượng cũng tác động không nhỏ tới các doanh nghiệp thuỷ sản trong nước. Một phần họ có đủ điều kiện trong việc nâng cao cạnh tranh trên thị trường, một phần họ cũng bị ảnh hưởng từ việc nhập khẩu nguồn nhiên liệu từ nước ngoài vào. Nhật là một thị trường có sức tiêu thụ tôm khá lớn, tôm được coi là một mặt hàng sử dụng chủ yếu để chế biến các sản phẩm mà người tiêu dùng Nhật rất thích. Một khi Chính phủ Nhật tăng cường kiểm soát, quản lý chất lượng với mặt hàng này, thì lượng tôm nhập khẩu sẽ giảm rõ rệt.
1.3.2. Tác động tới các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam
Với việc Chính phủ Nhật tăng cường kiểm soát, siết chặt quản lý chất lượng hàng thuỷ sản được nhập khẩu từ Việt Nam đã ảnh hưởng tới kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của các doanh nghiệp và toàn ngành thuỷ sản nói chung. Nhật Bản trong những năm trước vẫn là một trong hai thị trường có sức tiêu thụ thuỷ sản Việt Nam xuất sang lớn nhất. Đây được coi là một thị trường truyền thống đối với các doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam. Hàng năm sản lượng thuỷ sản tiêu thụ tại Nhật, đem lại nguồn doanh thu hơn 1 tỷ đô cho phía Việt Nam. Các mặt hàng chủ yếu mà các doanh nghiệp Việt Nam xuất sang là mực, tôm sú, tôm đông lạnh chiên sẵn, một số mặt hàng cá. Từ cuối năm 2006 khi mà phía Nhật áp dụng chính sách siết chặt quản lý chất lượng đối với các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam, thì sản lượng các mặt hàng thuỷ sản này đã giảm rõ rệt, điều đó cũng ảnh hưởng tới giá trị sản lượng xuất khẩu của các doanh nghiệp đang làm ăn trên thị trường này. Ví dụ: Công ty xuất khẩu thuỷ sản Thaimex là một doanh nghiệp có giá trị thuỷ sản hàng năm sang Nhật lớn thứ 3 trong nước, trước đây trung bình mỗi tháng doanh nghiệp này xuất sang Nhật từ 10-15 tấn thuỷ sản. Nhưng từ cuối năm 2006 đến nay Công ty này hầu như không xuất được một lô hàng thuỷ sản nào sang Nhật. Hơn 7 tháng qua doanh thu của Công ty từ thị trường này là không đáng kể. Hai Công ty Nam Hải và Hải Nam cũng ở trong tình trạng tương tự với Thaimex. Rất nhiều Công ty xuất khẩu thuỷ sản khác cũng đã bị giảm đáng kể sản lượng thuỷ sản xuất khẩu sang Nhật. Ước tính doanh nghiệp nào làm ăn hiệu quả trên thị trường Nhật cũng chỉ xuất sang đạt 78,7% so với cùng kỳ 6 tháng đầu năm 2006.
Một phần vì các doanh nghiệp bị phía Nhật trả lại hàng, phần do các doanh nghiệp này không giám xuất sang Nhật sợ ảnh hưởng tới uy tín, do đó đã ảnh hưởng khá lớn tới giá trị xuất khẩu. Điều này cũng ảnh hưởng tới các mặt hàng liên quan được xuất sang Nhật. Ví dụ các mặt hàng về chế biến thực phẩm xuất khẩu có sử dụng nguồn nguyên liệu là thuỷ sản: Sản phẩm đông lạnh, đồ hộp, một số nông hải sản khác. Khi sản lượng giảm ắt sẽ ảnh hưởng tới các doanh thu của các doanh nghiệp xuất khẩu. Chẳng hạn như Công ty Thaimex trung bình mỗi tháng xuất từ 10-15 tấn hàng với giá 8,98USD/1kg thì doanh thu đạt từ 90 ngàn-135 ngàn USD. Nhưng trong 6 tháng đầu năm nay, thì doanh thu mà Công ty thu lại chưa đầy 10 ngàn USD. Đồng thời giá của các mặt hàng này trong thời gian qua cũng đã giảm rõ rệt. Ví như giá tôm trong cùng kỳ năm ngoái là 8,89USD/1kg thì sang hết tháng 5 năm 2007 giá trung bình giảm còn 8,48USD/1kg. Đó là xét trên khía cạnh về doanh thu thu được nếu nhìn một cách thẳng thắn và trực quan thì với việc Nhật áp dụng chính sách này sẽ làm cho các doanh nghiệp nhập khẩu thuỷ sản Việt Nam có thể sẽ mất đi chính thị trường này, điều đó cũng sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới toàn ngành thuỷ sản và các chỉ tiêu kinh tế mà Việt Nam đã đặt ra trong năm nay.
Như vậy với việc áp dụng chính sách thương mại mà Nhật đang làm đã ảnh hưởng đặc biệt tới xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam trong thời gian qua và tương lai gần.
1.4. Phản ứng của các tổ chức, Quốc gia, từ phía Việt Nam.
1.4.1. Phản ứng của các tổ chức, quốc gia
Việc Nhật áp dụng các biện pháp tăng cường kiểm soát hàng thuỷ sản xuất khẩu từ Việt Nam đã kéo theo các phản ứng khác nhau từ các tổ chức kinh tế và các quốc gia nhập khẩu hàng thuỷ sản Việt Nam. Mỹ từ đầu năm 2007 tới nay cũng đã thay đổi cách thức kiểm tra chất lượng các lô hàng thuỷ sản xuất khẩu từ Việt Nam bằng việc tăng cường kiểm tra 100% lô hàng với một số mặt hàng: Cá tra, cá ba sa, tôm. Không chỉ thực hiện kiểm tra các lô hàng tại cảng nhập, phía Mỹ cũng yêu cầu phía Việt Nam phải có những chứng nhận về độ an toàn của các lô hàng được xuất sang. Mỹ cũng đã cử một số đoàn chuyên gia sang kiểm tra một số ấp nuôi và các cơ sở chế biến, doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường này. Đây là động thái mà phía Mỹ áp dụng đối với thuỷ sản Việt Nam thời gian qua. Cùng với Nhật, Mỹ cũng đặt ra những yêu cầu khắt khe về an toàn thực phẩm với thuỷ sản nhập khẩu, đó là các tiêu chuẩn về GMP,các tiêu chuẩn do Cục Quản lý thực phẩm Mỹ đề ra.
Còn tại Nga và EU cũng có những biện pháp tương tự, thậm chí các đoàn thanh tra mà họ cử tới để tìm hiểu kiểm tra còn làm chặt chẽ hơn rất nhiều, nếu phát hiện những ngư dân, các cơ sở chế biến vi phạm về an toàn thực phẩm lập tức họ sẽ áp dụng các biện pháp yêu cầu phía Việt Nam tạm ngừng xuất khẩu các sản phẩm tại các cơ sở này. Ví dụ: Từ ngày 13-28/4/2007 một đoàn thanh tra của Cục kiểm dịch động thực vật Liên Bang Nga (VPSS) đã đến Việt Nam để thực hiện kiểm tra hoạt động nuôi trồng thuỷ sản, hoạt động chế biến ở một số nhà máy tại An Giang và Bình Thuận, đồng thời đoàn cũng có những buổi thảo luận chuyên môn về giữ gìn vệ sinh ATTP với Cục quản lý chất lượng, Cục thú y thuỷ sản Việt Nam (Nafiquaved). Nga là một thị trường tiềm năng và đang lên, do đó nếu nắm bắt, và thực hiện tốt những điều kiện tiêu chuẩn tại các thị trường hẳn các doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội làm ăn hơn.
1.4.2. Phản ứng từ phía Việt Nam
Ngay sau khi nhận được những thông tin về việc liên tiếp các lô hàng thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu sang Nhật bị trả lại và bị cảnh báo, Bộ thuỷ sản đã các văn bản tới các thành phố, Cục quản lý chất lượng vệ sinh ATTP, các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản, cơ sở chế biến, các ngư dân nuôi, yêu cầu tăng cường đảm bảo chất lượng hàng thuỷ sản. Đồng thời yêu cầu các cơ quan xử lý, giám sát, kiểm soát chặt chẽ tới các hoạt động đánh bắt, nuôi trồng của ngư dân, hoạt động chế biến của các cơ sở.
Bộ cũng yêu cầu Cục hải quan sẵn sàng trả lại những lô hàng vi phạm ngay tại sản xuất, đồng thời yêu cầu các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản phải có giấy chứng nhận xuất sứ nguồn nguyên liệu thuỷ sản. Đối với các doanh nghiệp đã có lô hàng xuất khẩu thuỷ sản yêu cầu phải kiểm tra 100% với các sản phẩm xuất trong thời gian tới. Bộ thuỷ sản yêu cầu các cơ quan quản lý sẵn sàng cấm xuất khẩu với các doanh nghiệp thường xuyên vi phạm, cố tình vi phạm về vệ sinh an toàn chất lượng hàng xuất khẩu. Đóng cửa các cơ sở chế biến, các ấp nuôi đánh bắt có sử dụng chất kháng sinh cấm.
Hiệp hội ngành hàng thuỷ sản Việt Nam (VASEP) cũng đã gửi một số công văn tới Bộ thuỷ sản yêu cầu tạm ngừng xuất khẩu thuỷ sản sang Nhật trong một thời gian. Đồng thời yêu cầu tới các Cục quản lý tại các địa phương thực hiện kiểm tra chặt chẽ hơn hoạt động đánh bắt chế biến. Đây được coi là động thái tích cực để chúng ta có thời gian kiểm soát một cách toàn diện trước khi xuất khẩu trở lại và đảm bảo với bạn hàng về chất lượng hàng, lấy lại uy tín trên thị trường. VASEP đã gửi công văn tới Cục hải quan đề nghị không thông quan những lô hàng xuất khẩu sang Nhật của các doanh nghiệp bị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền Nhật phát hiện dư lượng kháng sinh cấm từ sau ngày 24/11/2006. Tất cả các doanh nghiệp xuất khẩu tôm sang thị trường Nhật từ 12/12/2006 trở đi đều phải đăng ký qua Cục quản lý chất lượng an toàn vệ sinh và Cục thú y thủy sản.
Còn phản ứng từ các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản thì rất khác nhau. Một số doanh nghiệp thực hiện nghiêm tăng cường đảm bảo chất lượng hàng thuỷ sản xuất khẩu và duy trì việc xuất khẩu hàng thuỷ sản vào thị trường Nhật. Một số doanh nghiệp khác đã tính nước chuyển sang một số thị trường khác như: Nga, Canada, EU hay Mỹ. Tính đến hết tháng 6/2007 trong số 31 doanh nghiệp có lô hàng bị cảnh báo thì có 22 doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn xuất khẩu, 2 doanh nghiệp chưa đạt, 2 doanh nghiệp chưa xác định được là đơn vị kinh doanh hay đơn vị sản xuất. Mới đây ngày 11/7 Thứ trưởng Bộ thuỷ sản Lương Lê Phương đã ký quyết định số 06 về việc áp dụng các biện pháp cấp bách kiểm soát dư lượng hoá chất kháng sinh cấm đối với thuỷ sản xuất khẩu Nhật. Trong quyết định, Bộ thuỷ sản yêu cầu chỉ các doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm của Bộ mới được phép xuất khẩu, đồng thời phải thực hiện kiểm tra chứng nhận Nhà nước về dư lượng hoá chất kháng sinh đối với 100% số lô hàng giám xác, nhuyễn thể chân đầu và các sản phẩm phối chế từ các loại nguyên liệu thuỷ sản trước khi xuất sang Nhật.
CHƯƠNG II
PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG
2.1. Đánh giá về thị trường Nhật, tình hình xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam
Nhật Bản là một thị trường truyền thống và chiếm tỷ trọng lớn đối với hàng thuỷ sản xuất khẩu Việt Nam. Từ năm 2002-2005 chiếm tỷ lệ 25% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam ra nước ngoài. Từ năm 2006 tới hết tháng 6/2007 tỷ lệ này giảm còn 18,7% và mất đi vị trí dẫn đầu về nhập khẩu thuỷ sản Việt Nam (báo cáo Cục hải quan tháng 6/2007). Mặt hàng chủ yếu mà Việt Nam xuất sang Nhật là các mặt hàng về tôm: tôm sú, tôm chiên, đồ đông lạnh, một số mặt hàng về mục. Mỗi năm các loại mặt hàng này chiếm 56,7% tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vào thị trường Nhật. Đây cũng là thị trường hấp dẫn các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam về giá cả. Thường giá thị trường này nhập cao gấp 2-3 lần so với giá nhập của các thị trường ở Nga, Canada. Với mức giá như vậy hẳn doanh nghiệp nào cũng muốn được xuất khẩu vào đó. Điều này càng thu hút nhiều doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam mong muốn được làm ăn trên thị trường này. Nhưng cũng cần nhắc lại ý thức tiêu dùng tại Nhật là rất cao, nhu cầu tiêu dùng của người Nhật luôn gắn liền với yêu cầu về độ an toàn vệ sinh thực phẩm. Điều đó dường như được minh chứng một phần tại sao người Nhật lại có tuổi trung bình cao nhất thế giới.
Bảng 1: Nhập khẩu tôm đông lạnh (tất cả các loại) vào Nhật Bản, 1998 & 2001 – 2005 đơn vị: tấn
Các dạng sản phẩm
1998
2001
2002
2003
2004
2005
Sống
364
577
406
293
383
271
Tươi ướp đá
85
99
36
19
33
19
Đông lạnh, nguyên con
238906
245048
248868
233195
241445
232443
Khô/ muối/ngâm nước muối
2349
1704
1875
1977
2351
2008
Luộc, đông lạnh
10338
14045
13936
13927
16745
17051
Luộc & xông khói
376
515
468
453
618
422
Chế biến sẵn/ bảo quản(bao gồm tempura & tôm đóng hộp)
13984
23980
27678
33361
39692
42181
Sushi (với cơm)
50
160
194
92
341
263
Tổng cộng
266038
286128
293461
283318
301608
294658
Nguồn: Infofish Trade New, No4/2005, No.3/2006
Theo ước tính của VASEP đến hết tháng 4/2007 Việt Nam có trên 500 cơ sở chế biến thuỷ hải sản, hàng ngàn điểm nuôi to, nhỏ và số lượng thuyền bè đánh bắt rất lớn. Trong số 500 cơ sở chế biến mới có trên 300 cơ sở được công nhận đạt tiêu ch