Đề tài Thực trạng lạm phát tiền tệ và sự vận dụng lạm phát ở Việt Nam

Cụm từ “Lạm phát” luôn gắn liền khi chúng ta nói đến quá trình phát triển kinh tế. Tại sao vậy? Lạm phát là gì, có tác động gì đến nền kinh tế, thực trạng lạm phát ở nước ta thế nào, chúng ta có những giải pháp gì để giải quyết vấn đề này ??? Tôi chắc rằng có lẽ tất cả chúng ta đều có những kiến thức sơ qua về vấn đề này, tuy nhiên không phải ai cũng hiểu rõ và hiểu chính xác về Lạm phát tiền tệ- một cái gai nhức nhối- một căn bệnh kinh niên của nền kinh tế hàng hoá! Thực tế cho thấy rằng trong giai đoạn hơn 20 năm vừa qua ( từ 1985 đến 2007) tỷ lệ lạm phát ở nước ta đã biến động rất mạnh qua từng năm. Tỷ lệ lạm phát giữa các năm chênh lệch khá lớn, gây ra nhiều ảnh hưởng nghiêm trọng đối với sự phát triển kinh tế. Về mặt lý thuyết, trong lý thuyết tiền tệ cổ điển và cận đại, cũng như hiện đại, lạm phát tiền tệ vẫn được xem như một vấn đề nan y mà không có cách nào có thể loại bỏ nó ra khỏi đời sống kinh tế. Lạm phát tiền tệ mang lại nhiều tiêu cực đối với tăng trưởng kinh tế vì nó luôn luôn gắn với tình trạng mất giá của đồng tiền. Khi tình trạng mất giá của đồng tiền xảy ra thường xuyên và liên tục với mức độ lớn thì moị hoạt động kinh tế sẽ bị đình trệ, nhiều vấn đề tiêu cực trong đời sống kinh tế xã hội sẽ nảy sinh. Cho đến nay, con người vẫn chưa thể tìm ra giải pháp để triệt phá nó tận gốc mà chỉ mới biết cách kìm chế và đẩy lùi nó. Vì vậy, lạm phát đã, đang, và sẽ ảnh hưởng nhiều mặt đến nền kinh tế sản xuất hành hoá hiện nay của nước ta cũng như nền kinh tế các nước trên thế giới nói riêng. Đây luôn là vấn đề kinh tế mà tính thời sự của nó có thể nói là hàng ngày hàng giờ. Đây cũng là vấn đề kinh tế rất phức tạp đòi hỏi phải có một sự trao đổi, nghiên cứu thật đầy đủ, toàn diện và sâu sắc, dựa trên cơ sở những nguyên lý về lạm phát tiền tệ cũng như thực tiễn của đất nước mới có thể có những quan niện chính xác và có tính khả thi cao. Là một sinh viên kinh tế, em có trách nhiệm phải tìm tòi học hỏi về các vấn đề của nền kinh tế, đặc biệt là những vấn đề nóng hổi như Lạm phát tiền tệ, cùng với nhưng kiến thức đã được học trên lớp, nhằm mục đích trang bị cho mình một kiến thức chuyên môn và xã hội phong phú, phục vụ cho tương lai sau này. Vì tất cả nhưng lý do trên đây, em quyết định chọn đề tài “ Thực trạng lạm phát tiền tệ và sự vận dụng lạm phát ở Việt Nam” đề nghiên cứu. Do kiến thức còn hạn hẹp nên bài tiểu luận của em không tránh khỏi những thiếu xót, mong các thầy cô chỉ bảo thêm cho em!

doc19 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1452 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thực trạng lạm phát tiền tệ và sự vận dụng lạm phát ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU Cụm từ “Lạm phát” luôn gắn liền khi chúng ta nói đến quá trình phát triển kinh tế. Tại sao vậy? Lạm phát là gì, có tác động gì đến nền kinh tế, thực trạng lạm phát ở nước ta thế nào, chúng ta có những giải pháp gì để giải quyết vấn đề này ??? Tôi chắc rằng có lẽ tất cả chúng ta đều có những kiến thức sơ qua về vấn đề này, tuy nhiên không phải ai cũng hiểu rõ và hiểu chính xác về Lạm phát tiền tệ- một cái gai nhức nhối- một căn bệnh kinh niên của nền kinh tế hàng hoá! Thực tế cho thấy rằng trong giai đoạn hơn 20 năm vừa qua ( từ 1985 đến 2007) tỷ lệ lạm phát ở nước ta đã biến động rất mạnh qua từng năm. Tỷ lệ lạm phát giữa các năm chênh lệch khá lớn, gây ra nhiều ảnh hưởng nghiêm trọng đối với sự phát triển kinh tế. Về mặt lý thuyết, trong lý thuyết tiền tệ cổ điển và cận đại, cũng như hiện đại, lạm phát tiền tệ vẫn được xem như một vấn đề nan y mà không có cách nào có thể loại bỏ nó ra khỏi đời sống kinh tế. Lạm phát tiền tệ mang lại nhiều tiêu cực đối với tăng trưởng kinh tế vì nó luôn luôn gắn với tình trạng mất giá của đồng tiền. Khi tình trạng mất giá của đồng tiền xảy ra thường xuyên và liên tục với mức độ lớn thì moị hoạt động kinh tế sẽ bị đình trệ, nhiều vấn đề tiêu cực trong đời sống kinh tế xã hội sẽ nảy sinh. Cho đến nay, con người vẫn chưa thể tìm ra giải pháp để triệt phá nó tận gốc mà chỉ mới biết cách kìm chế và đẩy lùi nó. Vì vậy, lạm phát đã, đang, và sẽ ảnh hưởng nhiều mặt đến nền kinh tế sản xuất hành hoá hiện nay của nước ta cũng như nền kinh tế các nước trên thế giới nói riêng. Đây luôn là vấn đề kinh tế mà tính thời sự của nó có thể nói là hàng ngày hàng giờ. Đây cũng là vấn đề kinh tế rất phức tạp đòi hỏi phải có một sự trao đổi, nghiên cứu thật đầy đủ, toàn diện và sâu sắc, dựa trên cơ sở những nguyên lý về lạm phát tiền tệ cũng như thực tiễn của đất nước mới có thể có những quan niện chính xác và có tính khả thi cao. Là một sinh viên kinh tế, em có trách nhiệm phải tìm tòi học hỏi về các vấn đề của nền kinh tế, đặc biệt là những vấn đề nóng hổi như Lạm phát tiền tệ, cùng với nhưng kiến thức đã được học trên lớp, nhằm mục đích trang bị cho mình một kiến thức chuyên môn và xã hội phong phú, phục vụ cho tương lai sau này. Vì tất cả nhưng lý do trên đây, em quyết định chọn đề tài “ Thực trạng lạm phát tiền tệ và sự vận dụng lạm phát ở Việt Nam” đề nghiên cứu. Do kiến thức còn hạn hẹp nên bài tiểu luận của em không tránh khỏi những thiếu xót, mong các thầy cô chỉ bảo thêm cho em! PHẦN NỘI DUNG A/ MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ LẠM PHÁT I/ Bản chất của lạm phát 1.Lạm phát là gì? Lạm phát được đề cập đến rất nhiều trong các công trình nghiên cứu của các nhà kinh tế với những khái niệm khác nhau. Theo Các Mác trong bộ Tư bản: Lạm phát là việc tràn đầy các kênh,các luồng lưu thông những tờ giấy bạc thừa, dẫn đến giá cả tăng vọt. Ông cho rằng ngoài giá trị thặng dư, CNTB còn gây ra lạm phát để bóc lột người lao động một lần nữa do lạm phát làm tiền lương thực tế của người lao động giảm xuống. Nhà kinh tế học Samuelson thì cho rằng: Lạm phát biểu thị một sự tăng lên trong mức giá cả chung.Theo ông: “Lạm phát xảy ra khi mức chung của giá cả và chi phí tăng, giá bánh mì, dầu xăng, xe ô tô tăng, tiền lương, giá đất, tiền thuê tư liệu sản xuất tăng.” Còn Milton Friedman thì quan niệm: “Lạm phát là nhanh và kéo dài”. Ông cho rằng: đa số các nhà kinh tế phái tiền tệ và phái Keynes tán thành. Hiện nay, lạm phát được định nghĩa: Trong kinh tế học,lạm phát là sự tăng lên liên tục theo thời gian của mức giá chung của nền kinh tế. Điều này không nhất thiết có nghĩa là giá cả của mọi hàng hoá và dịch vụ đồng thời phải tăng lên theo cùng một tỉ lệ, mà chỉ cần mức giá trung bình tăng lên. Một nền kinh tế vẫn có thể trải qua lạm phát khi giá của một số hàng hoá giảm, nếu như giá của các hàng hoá và dịch vụ khác đủ mạnh. Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm sức mua của đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá giá tiền tệ của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác. Thông thường khi nói tới theo nghĩa đầu tiên thì người ta hiểu nó là lạm phát của đơn vị tiền tệ trong phạm vi nền kinh tế của một quốc gia, còn khi hiểu theo nghĩa thứ hai thì người ta hiểu nó như là lạm phát của một loại tiền tệ trong phạm vi thị trường toàn cầu. Phạm vi ảnh hưởng của hai thành phần này vẫn là một chủ đề gây tranh cãi giữa các nhà kinh tế học vĩ mô. Ngược lại với lạm phát là giảm phát. Một chỉ số lạm phát bằng 0 hay một chỉ số dương nhỏ thì được người ta gọi là sự ổn định giá cả. 2.Đo lường Để đo lường mức độ lạm phát mà nền kinh tế trải qua trong một thời kỳ nhất định, các nhà thầu kinh tế sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ lạm phát được tính bằng phần trăm thay đổi của mức giá chung. Tỷ lệ lạm phát cho thời kỳ t được tính theo công thức sau: Л t = P t – P t-1 x 100 % P t –1 Trong ®ã: Л t : Tỷ lệ lạm phát của thời kỳ t (có thể là tháng, quý, hoặc năm) P t : Mức giá của thời kỳ t P t –1 : mức giá của thời kỳ trước đó Rõ ràng là để tính được tỷ lệ lạm phát, trước hết các nhà thống kê phải quyết định sử dụng chỉ số giá nào để phản ánh mức giá. Người ta thường sử dụng chỉ số điều chỉnh GDP và chỉ số giá tiêu dùng (CPI) để đo lường mức giá chung. Tuy nhiên, nếu mục tiêu xác định ảnh hưởng của lạm phát đến mức sống thì rõ ràng chỉ số giá tiêu dùng tỏ ra thích hợp hơn. Trong thực tế, các số liệu công bố chính thức về lạm phát thường được tính trên cơ sở CPI. 3.Phân loại Lạm phát thường được phân loại theo tính chất hoạc mức độ. Khi bàn về tác động của lạm phát ta sẽ nói đến việc phân loại theo tính chất, còn trong mục này, ta sẽ phân loại lạm phát theo mức độ của tỷ lệ lạm phát. Theo tiêu thức này, các nhà kinh tế thường phân biệt 3 loại lạm phát : Lạm phát vừa phải, lạm phát phi mã và siêu lạm phát. Lạm phát vừa phải : là lạm phát ở mức thấp và có thể dự đoán được, lạm phát dưới một con số, mọi người tin tưởng vào đồng tiền và sẵn sàng gửi tiền cũng như ký hợp đồng dài hạn theo giá trị tính bằng tiền. Lạm phát phi mã : là lạm phát trong phạm vi hai con số hoặc ba con số một năm. Làm phát phi mã làm xuất hiện nhiều biến dạng kinh tế quan trọng, có thể gây khủng hoảng các thị trường tài chính. Siêu lạm phát : là lạm phát xảy ra khi giá cả tăng với tỷ lệ cao tới con số hàng ngàn, hàng triệu phần một năm. Lạm phát ở Đức trong những năm 1992,1993 là một ví dụ điển hình. Từ tháng giêng 1992 đến tháng 1 năm 1993, chỉ số giá tăng từ 1 triệu lên 10 triệu. Siêu lạm phát làm rối loạn nền kinh tế. II / Những tác động của lạm phát tới nền kinh tế 1.Tác động của lạm phát tới tăng trưởng kinh tế Có rất nhiều tranh luận xung quanh mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế. Các nhà kinh tế theo trường phái lập luận cho rằng lạm phát và tăng trưởng kinh tế có quan hệ tỷ lệ thuận, nếu có tăng trưởng kinh tế tất có lạm phát. Có thể khái quát lý thuyết này qua công thức đơn giản sau : g = GDP1/GDP0 = P1xQ1/P0xQ0 Trong đó: g – Tăng trưởng kinh tế. GDP1 - tổng sản phẩm quốc nội năm tính toán. GDP0 - Tổng sản phẩm quốc nội năm trước năm tính toán. P1 - Mức giá chung năm tính toán. P0 - Mức giá chung năm trước năm tính toán. Q1 - Mức hàng hoá hiện vật năm tính toán. Q0 - Mức hàng hoá hiện vật năm trước năm tính toán. Với lí luận này, ở một số nước đang phát triển, lạm phát được coi là yếu tố tích cực để đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế. Bởi lẽ lạm phát làm tăng tiết kiệm và đầu tư do chuyển thu nhập từ những người làm công ăn lương sang thu nhập của các nhà kinh doanh lấy lãi. Và nếu giá tăng nhanh sẽ có xu hướng làm ăn lương sang thu nhập của các nhà kinh doanh lấy lãi. Và nếu giá tăng nhanh sẽ có xu hướng làm tăng khoản tiết kiệm từ lợi nhuận cao hơn tăng khoản tiết kiệm từ tiền lương. Mức đầu tư và tiết kiệm thực tế sẽ tăng lên. Kết quả đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, một số nhà kinh tế khác lại cho rằng lạm phát làm mức lãi suất thực tế giảm, tạo ra mất cân bằng ở thị trường vốn. Điều này làm cho cung nguồn vốn đầu tư giảm, đầu tư tư nhân bị hạn chế. Do đó lạm phát đưa đến lãi suất thực dương và mất cân bằng ở thị trường vốn, kết quả là đầu tư và tăng trưởng kinh tế giảm. Kết quả nghiên cứu của Bruno (1995) cho thấy rằng tăng trưởng giảm mạnh trong các thời kỳ lạm phát cao (>40%). Và nhìn chung tăng trưởng được khôi phục nhanh sau khi lạm phát được ổn định. Sarel (1996) cũng cho thấy rằng ảnh hưởng xấu của lạm phát vào tăng trưởng kinh tế bắt đầu đáng kể khi mức lạm phát thấp hơn (khoảng 8 đến 10% một năm). 2.Tác động của lạm phát tới lãi suất Lãi suất và lạm phát có mối quan hệ khăng khít với nhau. Lãi suất là giá của tiền tệ, nên lãi suất phải dương mới không làm đồng tiền mất giá. Muốn có lãi xuất thực dương thì lãi suất danh nghĩa phải lớn hơn tỷ lệ lạm phát, do lãi xuất thực dương bằng lãi suất danh nghĩa trừ đi tỷ lệ lạm phát và lớn hơn không. Lãi suất thực dương tăng thì lạm phát giảm và lãi suất thực dương giảm thì lạm phát tăng. Nếu lãi suất dương quá cao sẽ đưa đến thiểu phát và làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế. Lãi suất thưc dương quá cao dẫn đến làm giảm đầu tư phát triển và có nguy cơ rủi ro cao đối với an toàn của hệ thống ngân hàng vì lãi suất thực dương cao thì khả năng kinh doanh có hiệu quả cao để đủ có lãi và trả được nợ của các doanh nghiệp cho ngân hàng là rất khó khăn. Nguy cơ phá sản và nợ không trả được cho ngân hàng của các doanh nghiệp là chắc chắn, nên các ngân hàng cũng nằm trong nguy cơ phá sản lớn. 3.Tác động của lạm phát đến thất nghiệp Năm 1958, nhà kinh tế A.W.Phillips đã chỉ ra rằng mối quan hệ giữa tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ thất nghiệp là mối tương quan nghịch. Nghĩa là những năm nước Anh có thất nghiệp thấp thì tiền lương thường tăng nhanh và ngược lại. Mối tương quan này nảy sinh là vì thất nghiệp thấp gắn với tổng cầu cao, đồng thời tổng cầu cao lại tạo áp lực đẩy tiền lương và giá cả tăng lên trong toàn bộ nền kinh tế. Mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa lạm phát và thất nghiệp được thể hiện qua đường Phillíp : Tỷ lệ lạm phát 6 2 Đường Phillips 0 4 7 Tỷ lệ thất nghiệp Hình 1 Đường Phillíp cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách một thực đơn về các kết cục kinh tế có thể xảy ra. Vị trí của đường Phillips ngắn hạn phụ thuộc vào tỷ lệ lạm phát dự kiến. Đường Phillips π dài hạn, PCLR πe1 PC1 πe0 PC0 U* U Hình 2 Nếu tỷ lệ lạm phát dự kiến tăng từ πe0 l ên πe1 thì đường Phillips dịch chuyển lên trên từ PC0 đến PC1 và sự đánh đổi mà các nhà hoạch định chính sách phải đối mặt trở nên bất lợi hơn, lạm phát cao hơn tại mọi mức thất nghiệp. Ngược lại nếu tỷ lệ lạm phát dự kiến giảm từ πe1 xuống πe0 thì đường Phillíp sẽ dịch chuyển xuống dưới và sự đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp mà các nhà hoạch định chính sách phải đối mặt trở nên thuận lợi hơn, lạm phát thấp hơn tại mọi mức thất nghiệp. Đường Phillips ngắn hạn cũng có thể dịch chuyển do các cú sốc cung. Ví dụ: giá dầu thế giới tăng vọt, điều này làm tăng chi phí sản xuất, đường tổng cung ngắn hạn của các nước nhập khẩu dầu mỏ dịch chuyển sang trái dẫn tới hiện tượng giá cả tăng, sản lượng giảm - hiện tượng lạm phát đi kèm suy thoái. Do cả lạm phát và thất nghiệp đều tăng nên hiện tượng này tương ứng với sự dịch chuyển lên trên của đường Phillips ngắn hạn. Các nhà hoạch định chính sách phải chấp nhận tỷ lệ lạm phát cao hơn tại mỗi mức thất nghiệp hoặc thất nghiệp cao hơn tại mỗi tỷ lệ lạm phát. Nếu quyết định kích tổng cầu để cắt giảm thất nghiệp, họ sẽ đẩy lạm phát tiếp tục dâng lên. B/ THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM VÀ CÁC GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC I/ Thực trạng lạm phát ở nước ta 1.Thời kỳ trước đổi mới (trước năm 1986) Nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp nên vấn đề giá cả chưa chịu tác động của qui luật thị trường và do đó lạm phát không xuất hiện.Tuy nhiên, giai đoan 1976- 1985, nền kinh tế có nhiều biểu hiện suy thoái, khủng hoảng và lạm phát. Thời kì này, vay nợ nước ngoài chiếm 38,2% tổng số thu NSNN và bằng 61,9% tổng số thu trong nước. Bội chi NSNN vào năm 1980 là 18,1% và năm 1985 là 36,6% so với GDP. Đây là tình trạng đất nước làm không đủ ăn, tình hình kinh tế, xã hội khó khăn không kể xiết. 2.Thời kỳ bắt đầu đổi mới (1986 – 1990) Bước sang thời kì đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Sau Đại hội Đảng VI cuộc đổi mới đã đạt được những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ, nhất là từ năm 1989. Tuy nhiên, đây vẫn là thời kì khủng hoảng kinh tế - xã hội, kinh tế phát triển chậm và bất ổn định.Trong giai đoạn này hầu hết các cân đối lớn đều căng thẳng: Thâm hụt ngân sách ở mức 8% so với GDP, lạm phát phi mã đã được đẩy lùi song vẫn còn rất cao (từ 478,2 % năm 1986 còn 67,1% năm 1990) . 3.Thời kỳ nền kinh tế đi vào ổn định (1991 – 1995) Giai đoạn 1991-1995 ,tình hình kinh tế -xã hội nước ta có nhiều chuyển biến tích cực, tốc độ tăng trưởng đạt khá cao, liên tục và toàn diện, nền kinh tế bắt đầu vượt qua khủng hoảng và đi vào ổn định.Tổng sản phẩm trong nước tăng hơn 8,2 %, vượt trội hơn so với tất cả các giai đoạn trước đó, ổn định và liên tục tăng trưởng từ bản thân nền kinh tế ít dựa vào bao cấp và trợ lưc từ nước ngoài. Lạm phát bắt đầu được đẩy lùi. Chỉ số CPI từ 67,1% (1990) còn 12,7 % (1995). Tỉ lệ lam phát: 1991: 67,1% 1994: 14,4% 1992: 17,5% 1995: 12,7% 1993: 5,2% Tuy lạm phát vẫn ở mức hai con số song đây chỉ là một chỉ số rât nhỏ so với các năm trước đó. ( Đồ thị 1) Đồ thị 1 4.Thời kỳ nền kinh tế có dấu hiệu trì trệ ( 1996 – 2000 ) Bước sang giai đoạn 1996_2000, tình hình kinh tế - xã hội đi vào thế ổn định và phát triển. Tuy nhiên, khủng hoảng kinh tế khu vực dã có tác động không nhỏ đến nền kinh tế nước ta. Nền kinh tế phải đối mặt vơí những thách thức quyết liệt từ những yếu tố không thuận lợi bên ngoài và thiên tai liên tiếp ở trong nước. Điểm đặc biệt trong thời kì này là đi cùng vơí tốc độ tăng trưởng nền kinh tế có chiều hướng chững lại và đi xuống thì tỉ lệ lạm phát dưới mức kiểm soát và chuyển sang xu thế thiểu phát. Tỉ lệ lạm phát: 1995:12,7% đến năm 2000 là :- 0,6% (1996: 4,5% ; 1997: 3,6% ; 1998:9,0% ; 1999:0,1 % ) Đồ thị 2 5.Thời kỳ nền kinh tế có những bước phát triển mới (2001 – 2004) Với mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững và ổn định, trong bốn năm 2001-2004, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu khả quan. Tốc độ tăng trưởng tương đối cao, mọi mặt của đời sống xã hội được cải thiện và phát triển: Tỉ lệ lạm phát trong các năm giai đoan này cũng tăng dần lên từ -0,6% năm 2000 lên 9,5 % năm 2004 (Năm 2001,chỉ số giá ở mức 0,8%, 2002 là 4%, năm 2003 là 3,0%). Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển mạnh của nền kinh tế, năm 2004, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) là 9,5 %, mức tăng cao nhất trong 9 năm qua và cũng là năm đầu tiên kể từ năm 1999, tỉ lệ lạm phát vượt ngưỡng do quốc hội đề ra (5%). 6.Lạm phát trong các năm 2004, 2005, 2006 và năm 2007 a, Lạm phát hai năm 2004 - 2005 Câu chuyện lạm phát trở lại vào năm 2004, chỉ mới tháng 2 thì nó bắt đầu tăng vọt môt cách không ngờ lên 4,2 % sau hơn 10 năm yên ắng, lạm phát tiếp tục tăng cho đến những tháng cuối cùng của năm rồi dừng lại đột ngột ở mức 9,5%. Và lạm phát không chỉ như cơn gió thoảng qua, năm 2005, tỉ lệ lạm phát ở mức 8,5 %. Nguyên nhân gây nên lạm phát không chỉ do ảnh hưởng của giá cả thế giới tăng, giá dầu thô vẫn không ngừng gia tăng và dịch cúm gia cầm vẫn chưa được giải trừ. Lí lẽ thứ hai cho rằng lạm phát bắt nguồn từ tiền tệ, nghĩa là sự tăng cung tiền một cách quá mức. Ở cách lý giải này, dù bất cứ giá cả của loại hàng hoá nào có tăng thì sẽ có giá cả của hàng hoá nào đó phải giảm nếu lượng tiền trong nền kinh tế là không đổi. Và bất cứ trường hợp nào gây tăng giá đều bắt nguồn từ nguyên nhân tiền tệ. Bằng cả hai cách đo cơ bản bổ sung cho nhau là khối lượng tiền mạnh và khối lượng tiền tệ bơm ra cho nền kinh tế đều cho thấy tốc độ tăng hàng năm là quá cao và trong một thời gian dài. Lâp luận này còn thuyết phục hơn khi đặt câu hỏi so sánh lạm phát Việt Nam so với các nước có hoàn cảnh tương tự. Chẳng hạn như nhiều nước trên thế giới đều ảnh hưởng giá dầu tăng và thậm chí nền kinh tế của họ tiêu dùng nhiều xăng dầu hơn cả Việt Nam nhưng lạm phát không vượt quá mức 3% . Hai quan điểm trên có lập luận hoàn toàn dựa trên bằng chứng thuyết phục nhưng khác nhau về cách tiếp cận. Tuy nhiên, cả hai đều đưa ra được nguyên nhân gây ra lạm phát tại Việt Nam và đã có nhiều dấu hiệu cho thấy lạm phát là lạm phát tiền tệ. Trong thời gian tới, tỉ lệ lạm phát dự kiến vẫn ở mức cao và điều đó thực sự đã đặt chúng ta trước vấn đề phải kiềm chế và giảm lạm phát, bảo đảm cho mục tiêu tăng trưởng và phát triển bền vững. b,Lạm phát năm 2006 Năm 2006, lạm phát CPI tăng 6,6%, thấp hơn nhiều so với mức tăng 8,5% của cùng kỳ năm 2005. Điều đặc biệt là nếu như năm 2005, lạm phát CPI và lạm phát nhóm hàng Lương thực thực phẩm (LTTP nằm trrong nhóm hàng Hàng ăn và dịch vụ ăn uống) đều giảm so với năm trước (8,5% so với 9.5% và 10.8% so với 15.6%) còn ngược lại lạm phát của các nhóm hàng chi phí LTTP và lạm phát bình quân lại tăng thì bước sang năm 2006, cả 4 chỉ tiêu lạm phát CPI, LTTP, phí LTTP và lạm phát bình quân đều giảm so với năm 2005. Trong 10 nhóm hàng hoá, thì 5 nhóm hàng có mức tăng thấp hơn so với mức tăng của năm 2005, đó là: Lương thực thực phẩm, Phương tiện đi lại bưu điện, Nhà ở vật liệu xây dựng, Giáo dục, Dược phẩm y tế, 5 nhóm còn lại là May mặc, mũ nón giày dép, Thiết bị đồ dùng gia đình, Đồ uống thuốc lá, Văn hoá thể thao giải trí, Hàng hoá dịch vụ khác lại có mức tăng cao hơn năm ngoái. Có thể đánh giá các nguyên nhân tác động đến lạm phát năm 2006 như sau :   - Các yếu tố làm giảm lạm phát: Thứ nhất: Mức tăng của giá cả nhiều mặt hàng trên thế giới và trong nước đều thấp hơn năm ngoái.        Năm 2006 theo đánh giá của IMF, mức tăng 15% của nhiều mặt hàng thiết yếu đầu vào của sản xuất thấp hơn mức tăng 29% của cùng kỳ năm ngoái đã góp phần làm giảm áp lực lên giá thành các hàng hoá nhập khẩu, tác động làm lạm phát nhập khẩu giảm, qua đó làm giảm lạm phát CPI.   Thứ hai: Sức ép về tăng trưởng kinh tế giảm hơn so với năm ngoái: Dự kiến tăng trưởng kinh tế của năm 2006 đạt 8,2%, thấp hơn mức tăng 8.4% của năm 2005, thể hiện sức ép về bên cầu đã giảm bớt; điều này đã góp phần làm lạm phát năm nay có mức tăng thấp hơn cùng kỳ. Thứ ba: Các giải pháp để kiềm chế giá của Chính phủ và các Bộ, ngành: Năm 2006, Chính phủ đã áp dụng nhiều biện pháp nhằm giảm bớt tốc độ tăng của giá cả nguyên vật liệu đầu vào của sản xuất (cơn sốc phía cung) để kiềm chế mức tăng của giá cả. Thứ tư: Điều hành chính sách tiền tệ thận trọng, linh hoạt đã phát huy tác dụng kiềm chế tăng giá. Các yếu tố làm tăng lạm phát: Thứ nhất: Tiền lương và thu nhập của công chúng gia tăng. Thứ hai: Giá lương thực tiếp tục tăng mạnh so với cùng kỳ. Thứ ba: Thị trường chứng khoán gia tăng đột biến. Giá cổ phiếu tăng mạnh do các nhà đầu tư kỳ vọng vào việc Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO và Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị cấp cao APEC cùng với các cam kết của các tổ chức quốc tế và các Chính phủ về việc sẽ tăng cường tài trợ vốn cho Việt Nam. Như vậy, nếu như năm 2005 lạm phát gia tăng là do tác động từ cả cơn sốc về cung và sức ép bên cầu, thể hiện ở việc xăng dầu có mức tăng cao hơn cùng kỳ và GDP tăng 8,4%, đạt mức cao nhất trong vòng 10 năm trở lại đây; thì năm 2006 lạm phát giảm là do cả hai nhân tố từ bên cầu và cung đều giảm, xuất phát từ giá LTTP, xăng dầu và GDP đều có mức tăng thấp hơn cùng kỳ. b,Lạm phát hai quý đầu năm 2007 Sau đây là một số nhân tố được dự báo sẽ làm tăng hoặc giảm lạm phát trong năm nay: * Dự báo các nhân tố làm lạm phát tăng: Dự kiến tăng trưởng kinh tế năm 2007 sẽ đạt 8,2-8,5%, cao hơn mức tăng 8,2% của năm 2006 Chính phủ tiếp tục thực hiện điều chỉnh tiền lương theo Đề án cải cách tiền lương sẽ tác động mạnh làm gia tăng sức mua của nền kinh tế cũng như yếu tố lạm phát kỳ vọng. Việt Nam gia nhập WTO từ tháng 11/06 sẽ làm gia tăng nhu cầu vốn đầu tư. Giá một số mặt hàng chủ yếu sẽ được điều chỉnh tăng do theo định hướng của Chính phủ năm 2
Tài liệu liên quan