Đối với Quốc gia, thất nghiệp, thiếu việc làm là một sự lãng phí tài nguyên sinh lực. Đối với gia đình và xã hội, thất nghiệp thiếu việc làm, “nhàn vi cư bất thiện” là mầm mống đưa con người vào vòng phạm pháp, làm mất nhân cách không xa.
Vì những ảnh hưởng sâu rộng đó: giải quyết việc làm đi đến toàn dụng nhân lực được xem là một quốc sách trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, nhất là nước đang có tình trạng thất nghiệp như nước ta hiện nay.
84 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1531 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng lao động Thành phố Vinh Nghệ An và một số giải pháp giải quyết việc làm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Đối với Quốc gia, thất nghiệp, thiếu việc làm là một sự lãng phí tài nguyên sinh lực. Đối với gia đình và xã hội, thất nghiệp thiếu việc làm, “nhàn vi cư bất thiện” là mầm mống đưa con người vào vòng phạm pháp, làm mất nhân cách không xa.
Vì những ảnh hưởng sâu rộng đó: giải quyết việc làm đi đến toàn dụng nhân lực được xem là một quốc sách trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, nhất là nước đang có tình trạng thất nghiệp như nước ta hiện nay.
Nhận thức được những vấn đề nêu trên, qua thời gian thực tập ở Viện khoa học lao động và các vấn đề xã hội - Bộ lao động thương binh và xã hội em đã hoàn thành được chuyên đề:
“Thực trạng lao động Thành phố Vinh Nghệ An và một số giải pháp giải quyết việc làm”.
Trong quá trình thực tập và nghiên cứu, em đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của cô giáo hướng dẫn GV. Nguyễn Thị Kim Dung và các cán bộ, chuyên viên Viện khoa học lao động và các vấn đề xã hội - Bộ lao động thương binh và xã hội.
Do hạn chế về thời gian và trình độ nên bài viết này không tránh được những thiếu sót. Vì vậy em mong nhận được sự cảm thông và những ý kiến góp ý của các thầy cô giáo trong khoa Kinh tế Phát triển - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
Phần I
Vai trò của lao động, việc làm trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội
Những vấn đề cơ bản về lao động, việc làm.
I. Lao động và nguồn lao động.
1. Lao động.
Lao động là hành động của con người diễn ra giữa người với tự nhiên, như Mác đã nói: “Lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người với tự nhiên, một quá trình trong đó bằng hoạt động của chính mình con người làm trung gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ với tự nhiên”.
Ngày nay khái niệm lao động đã được mở rộng. Lao động là hoạt động có mục đích, có ích của con người tác động lên giới tự nhiên, xã hội nhằm mang lại của cải vật chất cho bản thân và xã hội. Bất kỳ một xã hội nào muốn tồn tại và phát triển đều phải không ngừng phát triển sản xuất, điều đó có nghĩa là không thể thiếu lao động. Lao động là nguồn gốc và là động lực phát triển của xã hội. Bởi vậy xã hội càng văn minh thì tích chất, hình thức và phương pháp tổ chức lao động ngày càng tiến bộ.
Đối với Việt Nam, khi đất nước đang thực hiện Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước với nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước thì lý luận lao động phải được đánh giá ở nhiều khía cạnh mới, cụ thể là:
Trước hết, lao động vẫn được coi là phương thức tồn tại của con người, nhưng vấn đề đặt ra là lợi ích của con người phải được coi trọng. Bởi vì lao động biểu hiện bản chất của con người còn lợi ích của người lao động là vấn đề nhạy cảm nhất, là nhân tố thấm sâu, phức tạp trong quan hệ giữa con người với con người, quan hệ cá nhân với xã hội.
Thứ hai, trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với phương thức sản xuất kinh doanh xã hội chủ nghĩa thì lao động được xem xét trên các khía cạnh năng suất, chất lượng và hiệu quả.
Thứ ba, là bất cứ một hình thức lao động của cá nhân, không phân biệt thuộc thành phàn kinh tế nào, nếu đáp ứng được nhu cầu của xã hội tạo ra sản phẩm hoặc công dụng nào đó, thực hiện được lợi ích, đảm bảo nuôi sống mình, không ăn bám vào người khác, vào xã hội, lại có thể đóng góp cho xã hội một phần lợi ích thì lao động đó được coi là có ích.
2. Nguồn nhân lực và nguồn lao động
Nguồn nhân lực là một bộ phận của dân số trong độ tuổi nhất định theo quy định của pháp luật có khả năng tham gia lao động. Nguồn nhân lực được biểu hiện trên hai mặt số lượng và chất lượng. Về số lượng đó là tổng số người trong độ tuổi lao động và thời gian làm việc có thể huy động được của họ. Việc quy định cụ thể độ tuổi lao động của mỗi nước ( kể cả cận trên và cận dưới) rất khác nhau tuỳ theo yêu cầu của trình độ phát triển của nền kinh tế xã hội trong từng giai đoạn. ở Việt Nam, theo quy định của Bộ luật Lao động, dân số trong độ tuổi lao động là những người đủ từ 15 đến 60 tuổi đối với nam và đủ từ 15 đến 55 tuổi đối vơí nữ. Về chất lượng nguồn nhân lực, đó là trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, sức khoẻ và phẩm chất của người lao động.
Nguồn lao động ( hay lực lượng lao động ) là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định thực tế có tham gia lao động (đang có việc làm) và những người không có việc làm nhưng đang tích cực tìm việc làm. Cũng như nguồn nhân lực, nguồn lao động được biểu hiện trên hai mặt số lượng và chất lượng. Như vậy, theo khái niệm nguồn lao động thì có một số người được tính vào nguồn nhân lực nhưng không phải là nguồn lao động. Đó là những người lao động không có việc làm nhưng không tích cực tìm việc làm; những người đang đi học, những người đang làm nội trợ trong gia đình và những người thuộc tình trạng khác (người nghỉ hưu trước tuổi theo quy định)...
Theo khái niệm mở rộng dùng trong thống kê lao động - việc làm Việt Nam thì lực lượng lao động còn bao gồm những người ở ngoài độ tuổi lao động ( lao động cao tuổi) thực tế đang làm việc trong các ngành kinh tế.
3. Vai trò của lao động đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội.
a. Lập luận của các trường phái kinh tế về lao động với tăng trưởng và phát triển kinh tế
Lao động là yếu tố cơ bản của sản xuất. Nhờ có lao động và các yếu tố đầu vào khác được kết hợp tạo ra sản phẩm cung ứng trên thị trường, hình thành nên tổng cung. Khi các yếu tố đầu vào (trong đó có yếu tố lao động) tăng lên thì sản phẩm tạo ra nhiều hơn, tổng cung tăng lên. Mặt khác lao động là mục tiêu của sản xuất. Khi lao động tăng tiêu dùng cũng tăng lên làm cho tổng cầu cũng tăng lên. Nền kinh tế đạt điểm cân bằng mới tương ứng với mức sản lượng thực tế tăng lên.
Từ trước tới nay, có rất nhiều trường phái kinh tế đã khẳng định vai trò của lao động đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Mô hình của Ricardo (trường phái cổ điển) đã tính thu nhập quốc dân bao gồm tiền công do lao động làm thuê nhận được, lợi nhuận và địa tô. Mô hình CácMác cho rằng lao động sống tạo ra nguồn của cải và giá trị thặng dư, là nguồn gốc của tái sản xuất xã hội, muốn mở rộng sản xuất cần tăng năng suất lao động. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại thống nhất với cách xác định của mô hình tân cổ điển về các yêú tố tác động đến tổng cung. Họ cho rằng tổng mức cung của nền kinh tế được xác định bởi các yếu tố đầu vào của sản xuất, đó là nguồn lao động (L), vốn sản xuất (K), tài nguyên thiên nhiên (R) và khoa học công nghệ (T). Họ cũng thống nhất với kiểu phân tích của hàm sản xuất Cobb - Douglas về sự tác động của các yếu tố đến tăng trưởng:
Y= T. Ka. Lb. Rg
g = t + a.k + b.l + g.r
Trong đó:
g: Tốc độ tăng trưởng của GDP
k, l, r: Tốc độ tăng trưởng của các yếu tố đầu vào K, L, R
t: Phần dư còn lại, phản ánh tác động của Khoa học công nghệ (T)
Giữa các yếu tố đầu vào có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong việc tạo ra tăng trưởng. Tuy nhiên cũng tuỳ vào từng nước, từng thời kỳ mà sử dụng nhiều yếu tố lao động, ít yếu tố vốn hoặc ngược lại nhiều yếu tố vốn, ít yếu tố lao động phục vụ mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Đối với nước ta lao động đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình tăng trưởng và phát triển. Bởi vì trong các yếu tố đầu vào thì mặc dù là tài nguyên của chúng ta là phong phú, đa dạng nhưng không phải là vô tận mà đang cạn kiệt dần. Do vậy, lao động nước ta ngày càng đóng vai trò quan trọng trong quá trình tăng trưởng và phát triển.
b.Vai trò của nguồn lao động trong quá trình phát triển kinh tế xã hội.
b1. Nguồn lao động là yếu tố hàng đầu, năng động và quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Trong quá trình lao động con người luôn tìm tòi, suy nghĩ, năng động, sáng tạo, không chỉ sáng chế ra những tư liệu lao động có năng suất cao mà còn kết hơp tư liệu lao động với đối tượng lao động nhằm tạo ra những sản phẩm theo mục đích đã định. Nhờ con người mà các tư liệu sản xuất được hoàn thiện từng bước và chỉ thông qua hoạt động của con người, các tư liệu sản xuất mới phát huy được tác dụng, thúc đẩy lực lượng sản xuất và nền kinh tế phát triển.
Trong giai đoạn hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, con người được đặt vào một quá trình lao động hết sức phức tạp, đòi hỏi năng lực sáng tạo, trình độ chuyên môn cao, ý thức trách nhiệm lớn cả trong lao động cơ bắp, lao động kỹ thuật và lao động quản lý. Có như vậy, lực lượng vật chất to lớn mới được sử dụng một cách hợp lý, có hiệu quả, góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội ngày càng phát triển.
b2) Lợi ích của nguồn lao động là động lực to lớn trong quá trình phát triển kinh tế xã hội.
Nhu cầu cuộc sống là động lực cơ bản nhất của con người. Bất kỳ hoạt động nào của con người cũng bắt nguồn từ những nhu cầu cuộc sống. Thoả mãn các nhu cầu chính là bảo đảm lợi ích của con người. Vì lợi ích mà con người hoạt động. Lợi ích của con người bao gồm lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần, trong đó lợi ích vật chất đống vai trò quan trọng. Người lao động dù làm việc ở đâu, dưới hình thức nào cũng đều nhằm đạt được lợi ích của mình. Lợi ích càng cao, càng tạo nên sức hấp dẫn để con người hoạt động có hiệu quả hơn. như vậy chính lợi ích là nhu cầu trở thành động cơ của hành động. Thoả mãn lợi ích chính đáng của người lao động là động lực kinh tế trực tiếp thúc đẩy nền kinh tế xã hội phát triển.
b3) Nguồn lao động với tư cách lực lượng tiêu dùng luôn là mục đích của sự phát triển kinh tế xã hội.
Trong mọi phương thức sản xuất xã hội, sản xuất cho ai, sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào suy cho cùng đều để phục vụ con người. Ngược lại nhu cầu của con người là tác nhân kích thích, là “đơn đặt hàng” của xã hội đối với sản xuất và là động cơ mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Nguồn lao động với tư cách là một bộ phận quan trọng của dân số, đồng thời là một động lực tiêu dùng mạnh mẽ, luôn đóng vai trò quyết định là mục tiêu phát triển kinh tế xã hội ở mọi thời đại.
Nhận thức đúng đắn về vấn đề lao động không chỉ giúp chúng ta thấy rõ hơn ý nghĩa và tầm quan trọng của nó mà còn có cơ sở phương pháp luận để xem xét việc sử dụng lao động trong thời gian qua, trên cơ sở đó đề ra phương hướng và giải pháp sử dụng và phát huy vai trò của nguồn lao động trong giai đoạn mới.
II. Việc làm.
1. Khái niệm việc làm.
Việc làm là phạm trù tổng hợp liên kết các quá trình kinh tế xã hội và nhân khẩu, nó thuộc những vấn đề chủ yếu của toàn bộ đời sống xã hội. Tuỳ theo cách tiếp cận mà người ta có những cách định nghĩa khác nhau về việc làm:
Theo H.A Gowlop thì “việc làm là mối quan hệ sản xuất nảy sinh do sự kết hợp giữa cá nhân người lao động và phương tiện sản xuất”.
Theo Huyhanto (Viện Hải ngoại Luân Đôn) thì việc làm theo nghĩa rộng là toàn bộ hoạt động kinh tế của một xã hội, là tất cả những gì liên quan đến cách thức kiếm sống của con người kể cả quan hệ sản xuất và các tiêu chuẩn hành vi tạo ra khuôn khổ của quá trình kinh tế.
Đối với Việt Nam, Bộ luật Lao động đầu tiên của Việt Nam được Quốc hội thông qua đã khẳng định: “mọi hoạt dộng lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị luật pháp ngăn cấm đều được thừa nhận là việc làm”.
Với khái niệm về việc làm như trên thì hoạt động được xác định là việc làm bao gồm:
Làm các công việc được trả công dưới dạng bằng tiền hoặc bằng hiện vật.
Những công việc tự làm để thu lợi cho bản thân hoặc thu nhập cho gia đình mình nhưng không được trả công bằng tiền hoặc bằng hiện vật cho công việc đó.
2. Tình trạng việc làm và thất nghiệp.
2.1. Việc làm đầy đủ.
Việc làm đầy đủ là việc làm cho phép người lao động có điều kiện sử dụng hết thời gian lao động theo quy định. Trong thống kê Lao động - việc làm ở Việt Nam thì người đủ việc làm gồm những người có số giờ làm việc trong tuần lễ tính điểm thời điểm điều tra lớn hơn hoặc bằng 40 giờ hoặc những người có số giờ nhỏ hơn 40 giờ nhưng không có nhu cầu làm thêm hoặc những người có số giờ làm việc nhỏ hơn 40 giờ nhưng lớn hơn hoặc bằng giờ quy định đối với những người làm công việc nặng nhọc, độc hại theo quy định hiện hành. Số giờ quy định trên có thể được thay đổi theo từng năm hoặc từng thời kỳ.
2.2. Việc làm hợp lý và việc làm hiệu quả.
Việc làm hợp lý là việc làm phù hợp với số lượng và chất lượng của các yếu tố con người và vật chất của sản xuất, là bước phát triển cao hơn của việc làm đầy đủ. Việc làm hợp lý có năng suất lao động và hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Việc làm hợp lý còn là việc làm phù hợp với khả năng và nguyện vọng của người lao động.
Việc là hiệu quả là việc làm đem lại mức thu nhập cao cho người lao động. Việc làm không hiệu quả là việc làm đem lại thu nhập thấp không đủ cho các chi tiêu cơ bản cho đời sống cua người lao động hoặc mức tu nhập từ việc làm thấp hơn so với mức thu nhập tối thiểu trong đời sống xã hội .
2.3. Thiếu việc làm.
Thiếu việc làm là tình trạng việc làm trong đó người lao động không sử dụng hết thơig gian quy định và nhận được thu nhập thấp từ công việc khiến họ có nhu cầu làm thêm.
Theo khái niệm dùng trong thống kê lao động - việc làm ở Việt Nam , người thiếu việc làm gồm những người trong tuần lễ tính đến thời điểm điều tra có tổng số giờ làm việc dưới 40 giờ, hoặc có số giờ làm việc nhỏ hơn 40 giờ làm việc của nhà nước có nhu cầu làm thêm và sẳn sàng làm việc nhưng chưa có việc làm (trừ những người co số giờ làm việc dưới 8 giờ, có nhu cầu làm việc và sẵn sàng làm việc nhưng không tìm được việc làm).
Tình trạng thiếu việc làm còn gọi là bán thất nghiệp. Người lao động ở trong tình trạng này thường là lao động ở nông thôn, theo mùa vụ, lao động ở khu vực thành thị không chính thức (khu vực phi kết cấu) lao động ở các khu vực sản xuất, kinh doanh đang gặp khó khăn, lao động khuvực nhà nước dôi dư.
Tỉ lệ người thiếu việc làm là phần trăm những người thiếu việc làm so với dân số hoạt động kinh tế (lực lượng lao động ). Tỉ lệ sử dụng thời gian lao động là phần trăm của tổng số ngày công làm việc thực tế so với tổng số ngày công có nhu cầu làm việc (bao gồm số ngày công thực tế đã làm việc và số ngày có nhu cầu làm thêm) của dân số hoạt động kinh tế.
2.4. Thất nghiệp.
a. Khái niệm.
Thất nghiệp là tình cảnh của những người có khả năng lao động, có nhu cầu lao động nhưng hiện tại không có việc làm, đang tích cực tìm hoặc đang chờ đợi trở lại làm việc. Người thất nghiệp, theo khái niệm dùng trong thống kê lao động - việc làm ở Việt Nam , là người đủ 15 tuổi trả lên trong nhóm dân số hoạt động kinh tế, mà trong tuần lễ trước điều tra không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc:
Có hoạt động đi tìm việc trong 4 tuần qua, hoặc không có hoạt động trong 4 tuần qua vì lý do không biết tìm việc ở đâu hoặc tìm mãi mà không được. Hoặc trong tuần lễ tính đến thời điểm điều tra có tổng số giờlàm việc dưới 8 giờ, muốn sẵn sàng làm thêm nhưng không tìm được việc.
Khi đánh giá về tình hình thất nghiệp, người ta thường dùng chỉ tiêu tỉ lệ thất nghiệp . Tỉ lệ này tính bằng phần trăm của só người thiếu việc làm sao với dân số hoạt động kinh tế (lực lượng lao động ), theo công thức sau:
Tỷ lệ thất nghiệp (%) = x 100
Tỷ lệ thất nghiệp ở mức cao sẽ ảnh hưởng xấu đến tình hình kinh tế - xã hội . Chính vì thế, các quốc gia phải thường xuyên đưa ra những chính sách biện pháp để giải quyết vấn đề này.
b. Phân loại thất nghiệp.
Thất nghiệp là hiện tượng phức tạp cần phải được phân loại để hiểu rõ về nó.Thất nghiệp được chia thành các loại sau:
b.1. Phân theo loại hình thất nghiệp.
Thất nghiệp là một gánh nặng nhưng gánh nặng đó rơi vào đâu, bộ phận dân cư nào, ngành nghề nào cần biết những điều đó để hiểu rõ về đặc điểm, tính chất, mức độ tác hại... của thất nghiệp trong thực tế. Theo tiêu thức này ta có:
+ Thất nghiệp chia theo giới tính (nam, nữ).
+ Thấp nghiệp chia theo lứa tuổi (tuổi, nghề).
+ Thất nghiệp chia theo vùng lãnh thổ thành thị, nông thôn).
+ Thất nghiệp chia theo nghành nghề.
+ Thất nghiệp chia theo thành phần kinh tế (quốc doanh, ngoài quốc doanh)
+ Thất nghiệp chia theo dân tộc, chủng tộc...
b.2. Phân loại theo lý do thất nghiệp .
Theo lý do thất nghiệp ta chia thành các loại sau:
+ Bỏ việc: Tự ý xin thôi việc vì những lý do khác nhau như cho rằng lương thấp, không hợp nghề, không hợp vùng...
+ Mới vào: Lần đầu bổ sung vào lực lượng lao động nhưng chưa tìm được việc làm (thanh niên đến tuổi lao động đang tìm việc, sinh viên tốt nghiệp đang chờ công tác...)
+ Quay lại: Những người đã rời khỏi lực lượng lao động nay muốn quay lại làm việc nhưng chưa tìm được việc làm .
b.3. Phân loại theo nguồn gốc thất nghiệp .
Tìm hiểu nguồn gốc thất nghiệp có ý nghĩa phân tích sâu sắc về thực trạng thất nghiệp. Theo cách phân loại này, ta có:
+ Thất nghiệp tạm thời: Xảy ra khi có một số người lao động đang trong thời gian tìm kiếm công việc hoặc nơi làm việc tốt hơn hoặc những ngươì mơí bước vào thi trường lao động đang tìm kiếm việc làm hoặc chờ đợi đi làm.
+ Thất nghiệp cơ cấu: xảy ra khi có sự mất cân đối cung- cầu giữa các loại lao động (giữa các nghành, nghề khu vực...). Loại này gắn với sự biến động cơ cấu kinh tế và khả năng điều chỉnh cung của thị trường lao động ( tổ chức đào tạo lại, môi giới...).
+ Thất nghiệp do thiếu cầu: xảy ra khi mức cầu chung về lao động giảm xuống. Nguồn gốc chính là ở sự suy giảm tổng cầu. Loại thất nghiệp này thường gắn với thời kỳ suy thoái của chu kỳ kinh doanh nên còn gọi là thất nghiệp chu kỳ.
+ Thất nghiệp do yếu tố ngoài thị trường: Loại thất nghiệp này xảy ra khi chính phủ hoặc công đoàn ấn định mức lương cao hơn mức lương cân bằng thực tế của thị trường lao động.
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến vấn đề việc làm .
3.1. Số lượng, chất lượng nguồn lao động và cơ cấu đào tạo.
Đây là yếu tố thuộc về cung lao động. Chúng đóng vai trò quyết định đối với tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ thiếu việc làm cao hay thấp ở các quốc gia. Số lượng lao động càng lớn thì áp lực giải quyết việc làm sẽ càng lớn. Ngược lại nếu một quốc gia giảm dần được tốc độ tăng dân số quy mô lực lượng lao động sẽ biến đổi với tốc độ chậm dần, số lao động dư thừa trong nền kinh tế sẽ ít đi, khi đó tỉ lệ thất nghiệp sẽ giảm xuống.
Chất lượng lao động và cơ cấu đào tạo quyết định khả năng đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế mà cụ thể là của các đơn vị kinh tế sử dụng lao động. Thực tế cho thấy chất lượng lao động thấp là nguyên nhân của tình trạng không tuyển được nhân cần có trình độ chuyên môn kỹ thuật cuả các công ty, nhất là các khu công nghiệp, các công ty có vốn đầu tư nước ngoài. Cơ cấu đào tạo giữa lao động có trình độ cao đẳng, đại học trở lên với lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp và số công nhân kỹ thuật bất hợp lý cũng là nguyên nhân của tình trạng “vừa thừa, vừa thiếu”.
Các nước đang phát triển như Việt Nam luôn ỏ trong tình trạng dân số đông, lực lượng lao động lớn nhưng chất lượng lao động thấp, cơ cấu đào tạo không hợp lý. Vì thế, đối với các quốc gia này tình trạng thất nghiệp thiếu việc làm đang là một vấn đề nan giải.
3.2. Tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tăng năng suất lao động.
Nền kinh tế tăng trưởng nhanh sẽ tạo ra nhiều chỗ làm việc cho người lao động. Nhân tố này lại phụ thuộc vào việc tăng cường huy động và sử dụng các nguồn vốn đầu tư trong nước và từ nước ngoài (như FDI, ODA) và sự phát triển của các ngành các địa phương, của mọi thành phần kinh tế. Việc tăng chi tiêu của Chính phủ cũng góp phần làm giảm bớt tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm trong xã hội.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế luôn gắn liền với sự chuyển dịch cơ cấu lao động của các ngành. Thông thường nếu như năng suất lao động không đổi hoặc tăng không đáng kể, tỷ trọng của một ngành trong GDP tăng lên ( như ngành Công nghiệp và Dịch vụ) hoặc giảm xuống ( như ngành Nông nghiệp) thì tỷ trọng lao động của ngành đó cũng sẽ tăng lên hoặc giảm xuống tương ứng. Khi GDP và năng suất lao động của các ngành đều tăng nhanh, mức tăng lao động trong các ngành sẽ chậm lại. Quá trình chuyển dịch kinh tế diễn ra đồng thời với việc tăng nhanh năng suất lao động có thể gây ra sự dôi dư lao động trong nền kinh tế. Chính vì vậy việc nghiên cứu xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tăng năng suất lao động sẽ là căn cứ quan trọng để đưa ra các biện pháp nhằm giải quyết các vấn đề về lao động việc làm.
3.3. Sự ổn định kinh tế, chính trị.
Sự ổn địn