Ngày nay với xu thế toàn cầu thì xã hội ngày càng phát triển và các mối quan hệ trong xã hội luôn vận động và biến đổi không ngừng. Để có một xã hội luôn tươi đẹp và phồn thịnh thì xã hội ấy phải phát triển theo định hướng của pháp luật.
Như chúng ta cũng đã biết để có một xã hội tốt thì pháp luật cần phải hoàn chỉnh và phù hợp để toàn xã hội hướng tới. Mà ngành Luật Hôn nhân và gia đình là một ngành luật gắn liền với quyền nhân thân của mỗi công dân, điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình - một nhóm quan hệ phổ biến, kèm theo đó là nhiều vấn đề phức tạp như: Tài sản chung vợ chồng, quyền thừa kế, nghĩa vụ đối với con cái, . Với tính chất thiết thực và phức tạp của quan hệ hôn nhân và gia đình thì Luật Hôn nhân và gia đình ra đời và luôn được nhà nước quan tâm và sửa đổi, hoàn thiện sao cho ngày một tiến bộ và phù hợp hơn với thời đại.
Năm 1959, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành Luật Hôn nhân và gia đình với những quy định dựa trên nguyên tắc tiến bộ, tự do, bình đẳng, một vợ một chồng. Đây là một mốc son lịch sử, một phát súng đầu tiên tiến công vào những quan niệm lạc hậu của chế độ trọng nam khinh nữ, hôn nhân lạc hậu và đặt những viên gạch đầu tiên xây dựng một chế độ hôn nhân mới tự nguyện bình đẳng.
Tiếp theo đó là sự ra đời của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 và 2000 giúp cho Luật Hôn nhân và gia đình hoàn thiện hơn phù hợp với sự phát triển của đất nước, của con người, của thời đại. Nhìn chung Luật Hôn nhân và gia đình đã khá hoàn chỉnh quy định một cách hệ thống đầy đủ, rất gần gũi thiết thực cho cuộc sống xã hội. Tuy nhiên để pháp luật đi vào đời sống xã hội có hiệu quả đòi hỏi những nhà thực hiện chính sách xã hội, pháp luật phải có kinh nghiệm thực tế, có kiến thức pháp luật vững vàng.
Được sự giới thiệu của ban giám hiệu trường Đại học Luật Hà Nội và sự giúp đỡ của Toà án tỉnh Hà Tây, được về thực tập tại TAND huyện Phú Xuyên. Được đi sâu vào thực tế công tác xét xử tại địa phương và so sánh những lý thuyết đã học với thực tế áp dụng trong đời sống xã hội, em đã có điều kiện nghiên cứu hoàn thành chuyên đề thực tập: Thực trạng ly hôn và một số giải pháp hạn chế ly hôn tại địa phương nơi thực tập.
25 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 8323 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng ly hôn và một số giải pháp hạn chế ly hôn tại địa phương nơi thực tập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay với xu thế toàn cầu thì xã hội ngày càng phát triển và các mối quan hệ trong xã hội luôn vận động và biến đổi không ngừng. Để có một xã hội luôn tươi đẹp và phồn thịnh thì xã hội ấy phải phát triển theo định hướng của pháp luật.
Như chúng ta cũng đã biết để có một xã hội tốt thì pháp luật cần phải hoàn chỉnh và phù hợp để toàn xã hội hướng tới. Mà ngành Luật Hôn nhân và gia đình là một ngành luật gắn liền với quyền nhân thân của mỗi công dân, điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình - một nhóm quan hệ phổ biến, kèm theo đó là nhiều vấn đề phức tạp như: Tài sản chung vợ chồng, quyền thừa kế, nghĩa vụ đối với con cái, ... Với tính chất thiết thực và phức tạp của quan hệ hôn nhân và gia đình thì Luật Hôn nhân và gia đình ra đời và luôn được nhà nước quan tâm và sửa đổi, hoàn thiện sao cho ngày một tiến bộ và phù hợp hơn với thời đại.
Năm 1959, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành Luật Hôn nhân và gia đình với những quy định dựa trên nguyên tắc tiến bộ, tự do, bình đẳng, một vợ một chồng. Đây là một mốc son lịch sử, một phát súng đầu tiên tiến công vào những quan niệm lạc hậu của chế độ trọng nam khinh nữ, hôn nhân lạc hậu và đặt những viên gạch đầu tiên xây dựng một chế độ hôn nhân mới tự nguyện bình đẳng.
Tiếp theo đó là sự ra đời của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 và 2000 giúp cho Luật Hôn nhân và gia đình hoàn thiện hơn phù hợp với sự phát triển của đất nước, của con người, của thời đại. Nhìn chung Luật Hôn nhân và gia đình đã khá hoàn chỉnh quy định một cách hệ thống đầy đủ, rất gần gũi thiết thực cho cuộc sống xã hội. Tuy nhiên để pháp luật đi vào đời sống xã hội có hiệu quả đòi hỏi những nhà thực hiện chính sách xã hội, pháp luật phải có kinh nghiệm thực tế, có kiến thức pháp luật vững vàng.
Được sự giới thiệu của ban giám hiệu trường Đại học Luật Hà Nội và sự giúp đỡ của Toà án tỉnh Hà Tây, được về thực tập tại TAND huyện Phú Xuyên. Được đi sâu vào thực tế công tác xét xử tại địa phương và so sánh những lý thuyết đã học với thực tế áp dụng trong đời sống xã hội, em đã có điều kiện nghiên cứu hoàn thành chuyên đề thực tập: Thực trạng ly hôn và một số giải pháp hạn chế ly hôn tại địa phương nơi thực tập.
Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu do chưa có kinh nghiệm nên đề tài của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em mong được sự hướng dẫn từ phía nhà Trường .
Em xin chân thành cảm ơn!
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Gia đình là tế bào của xã hội, gia đình tốt thì xã hội tốt chính vì vậy vấn đề này được Đảng và Nhà nước quan tâm và trú trọng. Trong những năm gần đây tỷ lệ ly hôn ngày càng tăng tạo nên sự bất ổn và mất cân bằng trong xã hội. Vì vậy mà pháp luật về Hôn nhân và gia đình đã có sự đổi mới để phù hợp hơn với thực trạng trên .
Để nghiên cứu sâu hơn vấn đề này, chúng ta nghiên cứu chương về Ly hôn - một chương đã có nhiều bước đổi mới. Từ việc nghiên cứu nó mà chúng ta có thể đánh giá một cách đúng đắn thực trạng, tìm ra nguyên nhân và đề ra những giải pháp nhất định, cần thiết cho vấn đề Ly hôn này. Đây là một vấn đề nóng bỏng mà phải dầy công nghiên cứu.
Bởi những lý do trên và được sự giới thiệu của nhà Trường, sự giúp đỡ của TAND huyện Phú Xuyên, em đã có điều kiện nghiên cứu và liên hệ về thực trạng ly hôn tại địa phương do đó em dã lựa chọn và dành nhiều thời gian công sức để hoàn thành đề tài này .
Sự lựa chọn đề tài của em có thể có nhiều thiếu sót và chưa đầy đủ song đây là một vấn đề mà em thấy gần gũi với cuộc sống và ý thức muốn được nghiên cứu. Em mong được sự hướng dẫn chỉ bảo của các thầy cô giáo để em có thêm kiến thức vững vàng khi tạo lập cuộc sống.
Em xin chân thành cảm ơn !
PHẦN NỘI DUNG
Phần I: Kết hôn có yếu tố nước ngoài .
Trong những năm trở lại đây với chính sách : “..., hoà bình, hữu nghị, mở rộng giao lưu với tất cả các nước trên thế giới” thì ở Việt Nam các quan hệ Hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài ngày càng tăng và phát triển một cách đa dạng, phức tạp cả về bề rộng lẫn chiều sâu.
Quan hệ Hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài được quy định tại khoản 4 Điều 8 như sau: “Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn nhân và gia đình
a. Giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài;
b. Gữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt;
c. Giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài”.
Đối với kết hôn có yếu tố nước ngoài thì được quy định tại Điều 103 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cụ thể như sau: Theo đoạn một khoản 1 Điều 103 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 : “Trong việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, mỗi bên phải tuân theo pháp luật của nước mình về điều kiện kết hôn; nếu việc kết hôn được tiến hành tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam thì người nước ngoài còn phải tuân theo các quy định của luật này về điều kiện kết hôn...” Theo quy định này thì công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài cũng luôn phải tuân theo pháp luật Việt Nam hoặc ở nước ngoài cũng phải tuân theo pháp luật Việt Nam về điều kiện kết hôn, điều kiện cấm kết hôn (Điều 9, 10 Luật Hôn nhân gia đình năm 2000)
Ví dụ : Một nam công dân Anh kết hôn với nữ công dân Việt Nam. Việc kết hôn này được tiến hành trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam thì nam công dân Anh, ngoài việc họ phải tuân theo quy định của Anh về điều kiện kết hôn họ còn phải tuân theo quy định tại các Điều 9,10 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 của Việt Nam.
Ngoài những mục đích kết hôn trong sáng, lành mạnh thì cũng còn nhiều trường hợp dựa vào quy định này để làm sai trái và sai mục đích kết hôn . Vì vậy theo luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng đã quy định: “Nghiêm cấm lợi dụng việc kết hôn có yếu tố nước ngoài để buôn bán phụ nữ, xâm phạm tình dục đối với phụ nữ hoặc vì mục đích trục lợi khác”. Hiện nay các quan hệ hôn nhân và gia đình nhằm những mục đích khác hoặc làm sai các quy định của pháp luật xảy ra không ít và vô cùng phức tạp. Họ đã dựa vào quan hệ hộn nhân và gia đình để buôn bán phụ nữ, xâm phạm thân thể người phụ nữ ,...
Để ngăn chặn tình trạng trên thì Đảng và Nhà nước cần phải có nhiều biện pháp cứng rắn để hạn chế và chấm dứt hiện tượng sai trái đó.
Phần II: Thực trạng ly hôn và một số giải pháp hạn chế ly hôn tại địa phương nơi thực tập tốt nghiệp.
I. Khái quát chung về ly hôn.
Một ngày nên nghĩa là một quan niệm đẹp đã ăn sâu vào tiềm thức của người Phương Đông. Với quan niệm ấy nhiều cặp vợ chồng đã chung sống với nhau hạnh phúc trọn đời. Nhưng những năm trở lại đây do nền kinh tế thị trường phát triển mạnh mẽ nên sự nhìn nhận vấn đề này thay đổi mạnh mẽ. Cái nghĩa vợ chồng mỗi ngày lại được nhìn nhận khác đi. Người ta bây giờ không còn quá coi trọng vấn đề này như ngày xưa nên khi đặt bút ký tên vào đơn ly hôn không còn nặng nề nữa để giải phóng cho một trong các bên vợ chồng. Nếu tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn gia đình tới mức trầm trọng, cuộc sống chung vợ chồng không thể duy trì được thì giải phóng cho nhau là điều tốt. Nhưng đáng tiếc với việc không coi trọng và không cố gắng nâng niu gìn giữ nghĩa vợ chồng mà nhiều cặp vợ chồng nhanh chóng đã có ý định chia tay, chấm dứt một quan hệ vợ chồng khi chưa cân nhắc kĩ đã xảy ra đáng tiếc. Do đó tình trạng ly hôn đang ngày càng có su hướng tăng dần. Và quả thực ly hôn ngày nay không còn quá khó, không còn là vấn đề trọng đại với nhiều cặp vợ chồng .
Mỗi gia đình là một phần của xã hội, là một xã hội thu nhỏ gia đình tác động đến xã hội và ngược lại xã hội có ảnh hưởng mạnh mẽ đến mỗi gia đình. Vì vậy mà chính sách xã hội thay đổi kéo theo mỗi con người mỗi gia đình khác đi rất nhiều; và trong ly hôn do là biểu hiện của sự gia tăng các vụ ly hôn. Và chính các mâu thuẫn gia đình , những vụ ly hôn đã gây ảnh hưởng sấu cho xã hội. Tình trạng suy giảm đạo đức nề nếp gia phong trong gia đình ngày càng phổ biến, cảnh những đứa con bơ vơ giữa cuộc đời khi ở bên mẹ thì vắng cha, ở bên cha thì vắng mẹ, chúng có mẹ có cha đấy nhưng lại thiếu sự chăm sóc của một trong hai người. Thiếu mẹ hay cha đều để lại những thương tích không bao giờ lành trong trái tim mỗi đứa con tội nghiệp nhìn cha mẹ chia tay nhau. Dù thế nào thì ly hôn trong mọi trường hợp đều là giải pháp bất đắc dĩ. Đối với mỗi con người không có gì quý hơn một mái ấm gia đình hoà thuận và hạnh phúc. Vợ chồng chia tay có thể là giải pháp chút bỏ gánh nặng cho nhau nhưng những đứa con mới thực sự thiệt thòi. Mong sao trước khi đặt bút ký vào đơn ly hôn những người cha người mẹ hãy thận trọng và suy xét kỹ càng. Trước hết và quan trọng nhất là mỗi cá nhân phải sống với nhau bằng tình thương và trách nhiệm, phải làm tròn bổn phận vun đắp cho tổ ấm được hạnh phúc hoà thuận, bền vững.
Để hạn chế cảnh vợ chồng chấm dứt quan hệ hôn nhân, và ngày càng chăm lo đến cuộc sống gia đình, tuyên truyền những điều tốt đẹp, xoá bỏ những quan hệ, quan điểm, tập quán lạc hậu, chúng ta đề ra và thực hiện một cách sâu rộng về pháp luật nhằm tạo một hành lang pháp lý an toàn cho mỗi cuộc hôn nhân, mỗi quan hệ vợ chồng .
Ngày nay nam nữ được quyền tự do tìm hiểu, tự nguyện kết hôn điều đó được pháp luật cho phép và bảo hộ không vi phạm các điều cấm của pháp luật. Khi kết hôn có nghĩa là hai cá thể với hai tư tưởng khác nhau hợp lại nhằm xây dựng một gia đình mới – một tế bào của xã hội do đó các cá thể cần vun đắp và nuôi dưỡng nó phát triển. Vợ chồng có nghĩa vụ yêu thương, chung thuỷ quý trọng lẫn nhau cùng nhau xây dựng một gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.
Mặt khác pháp luật bảo vệ và tôn trọng sự lựa chọn của vợ chồng khi nó phù hợp với thực tế với các quy định của pháp luật nhằm giải phóng cho cả vợ và chồng những gánh nặng về tư tưởng để cả hai tự lựa chọn xây dựng một gia đình mới phù hợp với mình. Điều đó cũng phù hợp với bản chất của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Để có được sự hợp pháp đó đòi hỏi cả hai vợ chồng phải được sự công nhận của pháp luật qua hình thức ly hôn .
Về ly hôn, theo khoản 8 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Ly hôn là chấm dứt quan hệ vợ chồng do Toà án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng” .
Như vậy ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng do một bên yêu cầu hoặc cả hai bên thuận tình được Toà án công nhận bằng bản án xử cho ly hôn hoặc bằng quyết định thuận tình ly hôn. Hay nói cách khác ly hôn là sự chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật.
Theo Điều 90 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn mà hoà giải tại toà án không thành nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thảo thuận về việc chia tài sản , việc trông nom chăm sóc, nuôi dưỡng gáo dục con cái thì toà án cộng nhận thuận tình ly hôn và sự thoả thuận về tài sản và con cái trên cơ sở bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ và con, nếu không thoả thuận hoặc tuy có thoả thuận nhưng không đảm bảo quyền lợi của vợ và con thì Toà án quyết định”.
Còn Điều 91 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định : “Khi một bên vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hoà giải tại Toà án không thành thì Toà án xem xét giải quyết việc ly hôn”.
Ly hôn là việc chẩm dứt hôn nhân, là kết quả của hành vi có ý chí của vợ chồng. Ngoài hai vợ chồng ra không một người nào khác có thể yêu cầu ly hôn được và việc chấm dứt hôn nhân giữa hai vợ chồng phải được Toà án có thẩm quyền quyết định hoặc công nhận thì mới có giá trị pháp lý.
Trên thực tế có nhiều cặp vợ chồng sau khi xây dựng gia đình được một thời gian thì bỏ nhau, nhưng không ly hôn, không được Toà án công nhận và cả hai đều đi xây dựng gia đình mới. Điều này không được pháp luật cho phép và bảo vệ vì nó trái với các quy định của pháp luật. Khi chưa được pháp luật công nhận là vợ chồng đã ly hôn bằng quyết định của Toà án thì hôn nhân là không hợp pháp, pháp luật không công dân và cho phép .
Khi xử cho vợ chồng ly hôn Toà án căn cứ vào các quy định của pháp luật để giải quyết . Căn cứ ly hôn là những tình tiết được quy định của pháp luật và chỉ khi có những điều kiện đó thì Toà án cho ly hôn .
Điều 89 Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “ Toà án xem xét yêu cầu ly hôn nếu thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục dích hôn nhân không đạt được thì Toà án quyết định cho ly hôn”.
Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Toà án tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Toà án giải quyết cho ly hôn .
Như vậy, theo tinh thần của điều luật thì khi vợ chồng hoặc cả hai vợ chồng có yêu cầu ly hôn thì Toà án nhân dân tiến hành điều tra, hoà giải nhằm đoàn tụ gia đình. Nếu hoà giải không thành thì Toà án mới xử cho ly hôn và chỉ cho ly hôn nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được.
Tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài không đơn thuần là tình yêu không còn nữa mà là muốn nói tới một thực trạng đó là ảnh hưởng tới việc nuôi dưỡng, giáo dục con cái.
Khi hai người nam nữ đến với nhau họ có cùng mục đích là xây dựng một gia đình mới ấm no, hạnh phúc, vợ chồng có trách nhiệm, có tình thương đối với nhau, cùng nhau nuôi dạy con cái. Như thế trước khi kết hôn cả hai người đều có chung mục đích nhưng sau khi kết hôn thì mục đích của cuộc hôn nhân đó không thể thực hiện được dẫn đến cuộc sống tình cảm có nhiều mâu thuẫn lục đục làm cho cả hai vợ chồng chán ghét nhau, không quan tâm đến nhau, thậm trí không muốn nhìn mặt nhau nên việc ly hôn là một giải pháp tích cực nhằm giải phóng cho nhau để mỗi bên tự đi tìm và xây dựng cho mình một hạnh phúc mới thông qua đó bảo đảm được quyền tự do, bình đẳng bảo đảm quyền và lợi ích của vợ chồng theo quy định của pháp luật hiện hành.
II . Thực trạng ly hôn tại địa phương.
2.1. Giới thiệu chung.
Về điều kiện tự nhiên: Phú Xuyên là một huyện nằm ở phía đông nam của tỉnh Hà Tây, dọc theo quốc lộ 1A. Phú Xuyên là cửa ngõ phía nam của thủ đô Hà Nội và mọi giao lưu với các tỉnh phía nam đều phải qua địa phận của huyện. Là một huyện cách không xa trung tâm văn hoá, kinh tế, chính trị xã hội của đất nước nên những ảnh hưởng của nó đến tình hình phát triển chung của huyện là rất lớn.
Phú Xuyên có hai thị trấn: thị trấn Phú Minh và thị trấn Phú Xuyên .
Do ảnh hưởng lớn đó mà tình hình kinh tế trong những năm gần đây của huyện phát triển không ngừng từ nông nghiệp, công nghiệp, đến thủ công nghiệp. Góp phần không nhỏ tới nền kinh tế chung của toàn huyện. Trong hai năm trở lại đây các làng nghề thủ công đặc biệt phát triển đã tạo công ăn việc làm cho những lao dộng nhàn dỗi ở nông thôn và từng bước đưa nền kinh tế của huyện phát triển. Về văn hoá xã hội thì trên địa bàn huyện có bốn trường PTTH như: Trường Phú Xuyên A, Phú Xuyên B, trường Đồng Quan, trường Tân Dân là những cơ sở giáo dục có chất lượng đào tạo tốt; hàng năm có tỷ lệ học sinh đỗ Đại học cao. Ngoài ra còn có những cơ sở dạy nghề nhằm đào tạo và bồi dưỡng những thợ, những công nhân lành nghề đáp ứng nhu cầu của xã hội. Đời sống xã hội được nâng cao, sức khoẻ của nhân dân trong huyện được đảm bảo và được chăm lo chu đáo.Trong toàn huyện đã có một trung tâm y tế nằm tại thị trấn huyện và từng xã cũng đã có những trạm y tế riêng với đội ngũ cán bộ y tế có chuyên môn vững vàng.
Do là cửa ngõ của thủ đô nên tốc độ đô thị hoá diễn ra khá nhanh nhưng chưa được đồng bộ giữa các xã. Nhiều nơi vẫn có những tư tưởng phong kiến lạc hậu trọng nam khinh nữ, trình độ hiểu biết pháp luật vẫn còn yếu nên vẫn còn nhiều những vi phạm pháp luật xảy ra trên địa bàn đòi hỏi các nhà thực hiện pháp luật phải vận dụng có hiệu quả hơn nữa những chính sách pháp luật vào đời sống xã hội .
2.2. Tình hình ly hôn tại địa phương.
Trong hai năm trở lại đây (2003- 2004) trên địa bàn huyện Phú Xuyên, số lượng án nói chung được thụ lý khá nhiều, trong đó lượng án về hôn nhân và gia đình chiếm tỷ lệ cao nhất. Theo báo cáo tổng kết của Toà án nhân dân huyện Phú Xuyên trong hai năm 2003- 2004 như sau:
Năm
Tổng số vụ thụ lý
Án HNvàGĐ
Tạm ĐC, ĐC
HG
Công nhận thuận ly
Xử LH
Bác đơn
2003
116
55
10
1
30
8
1
2004
96
48
4
2
30
8
1
Trên đây là những con số thực về tỷ lệ án ly hôn so với các án khác nó lên tới 47,4% năm 2003 và 50% năm 2004. Trong đó số vụ được giải quyết là 90% - 94% tổng số vụ đã thụ lý. Đặc biệt trong số án hôn nhân gia đình được thụ lý thì có đến 69% đến 79% kết quả là ly hôn, số được hoà giải đoàn tụ là từ 2% đến 4% còn lại là tạm đình chỉ, đình chỉ và bác đơn hoặc chuyển án.
Trong quá trình thực tập được tham gia hoà giải, bản thân em thấy sự tích cực của cán bộ toà án khi hoà giải các vụ ly hôn. Họ đã không ngại khó khăn, sẵn sàng đi vào đời sống xã hội để tìm hiểu ngọn ngành, phân tích khuyên giải quyền lợi của người vợ người chồng một cách thấu tình đạt lý nhưng đôi khi kết quả vẫn không như mong đợi.
Một thực tế trong các vụ ly hôn thì người đứng đơn chủ yếu là người vợ- những người có lòng chịu thương chịu khó và có sức chịu đựng tốt hơn nam giới.
Một con số thực tế là năm 2003 có 55 vụ thụ lý thì có tới 40 đơn do vợ đứng đơn còn lại là 15 đơn do chồng đứng đơn. Về công tác xét xử nhìn chung có những vụ án đa dạng, phức tạp với nhiều tình huống khó giải nhưng với sự cố gắng và vững vàng trong chuyên môn với tâm huyết nghề nghiệp cán bộ toà án đã giải quyết đúng đắn, chính xác mà nhanh chóng các vụ án, từ đó giảm được nhiều chi phí, nhiều thủ tục không đáng có cho đương sự, đem lại lòng tin vào cơ quan pháp luật từ phía nhân dân.
2.3. Đường lối gải quyết.
Kể từ khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 01/01/2001 đã nhanh chóng được thực thi trong toàn quốc. So với các luật trước thì luật này có nhiều bước tiến mới với nhiều điều khoản quy định một cách rõ ràng cụ thể.
Từ khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực thì trong công tác xét xử của huyện Phú Xuyên cũng có nhiều thuận lợi từ đó giảm được nhiều án tồn đọng trong những năm trước khi có luật mới. Và từ khi có luật mới thì những sai sót để phải sửa chữa không nhiều, giảm đáng kể so với trước đây.
- Trong nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/06/2000 quy định về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 .
- Nghị định 77/ 2001/ NĐ- CP ngày 22/10/2001 quy định chi tiết về đăng ký kết hôn theo Nghị quyết 35/ QH10 của Quốc hội về thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
Ngoài ra còn có một số Thông tư liên tịch của Hội đồng thẩm phán hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
Bên cạnh đó thì Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự mới và Luật đất đai năm 2003 cũng được xem xét áp dụng giải quyết các vụ án về hôn nhân.
a. Về hôn nhân.
Sau khi nhận đơn Toà án xem xét thấy vụ án thuộc thẩm quyền của mình thì Toà án tiến hành thụ lý và đưa án ra giải quyết theo đúng trình tự thủ tục pháp luật quy định. Toà án sẽ xem xét thấy cuộc hôn nhân này không vi phạm điều kiện thủ tục quy định tại các Điều 9,10,11 và Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì Toà án tiến hành điều tra hoà giải. Trong vụ án hôn nhân hoà giải là một thủ tục bắt buộc trong quá trình tố tụng. Nếu sau khi đã hoà giải mà các đương sự vẫn không thể cải thiện được đời sống tình cảm, không thể kéo dài đời sống chung, mục đích hôn nhân không đạt được thì Toà án xử cho ly hôn. Nếu sau khi nhận đơn mà Toà án xét thấy hôn nhân đó là không hợp pháp thì Toà án ra quyết định huỷ kết hôn trái pháp luật theo Điều 16 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và buộc hai bên nam nữ phải chấm dứt quan hệ vợ chồng theo Điều 17 Luật HN&GĐ năm 2000.
Hiện nay Luật Hôn nhân và gia đình không còn công nhận hôn nhân thực tế nên các vụ ly hôn mà không có giấy chứng nhận đăng ký kết hôn từ năm 2000 trở đi là không hợp pháp. Trên thực tế thì Toà án vẫn giải quyết một số vụ án không có giấy chứng nhận đăng ký kết hôn theo quy dịnh của pháp luật, khi gặp những vụ án đó thì từng trường hợp cụ thể Toà án sẽ có cách giải quyết khác nhau.
- Nếu hôn nhân đó được xác lập trước khi Luật Hôn nhân và gia đình có hiệu lực và hôn