Theo học thuyết giá trị của C. Mark thì có giá cả sản xuất và giá cả thị trường. Giá cả sản xuất bằng chi phí sản xuất cộng lợi nhuận bình quân. Còn giá cả thị trường là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá, lượng giá trị trong toàn bộ quá trình sản xuất xã hội của một loại sản phẩm tại một chu trình xác định là tổng giá trị bằng tổng giá cả.
70 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1393 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng marketing định giá kinh doanh ở công ty dệt Minh Khai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần I : Cơ sở luận của Marketing định giá và thực hành giá xuất khẩu ở công ty sản xuất - kinh doanh xuất nhập khẩu
I. Khái luận về giá kinh doanh trong hệ thống Marketing của công ty
1. Khái niệm và các loại giá xuất khẩu
1.1. Khái niệm về giá xuất khẩu
Theo học thuyết giá trị của C. Mark thì có giá cả sản xuất và giá cả thị trường. Giá cả sản xuất bằng chi phí sản xuất cộng lợi nhuận bình quân. Còn giá cả thị trường là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá, lượng giá trị trong toàn bộ quá trình sản xuất xã hội của một loại sản phẩm tại một chu trình xác định là tổng giá trị bằng tổng giá cả. Mặc dù giá trị là cơ sở của giá cả nhưng trên thị trường giá cả luôn biến động xoay quanh giá trị của hàng hoá và độ lệch giữa giá cả và giá trị là do những tác động khách quan của các quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu và sức mua của tiền tệ.
Trong kinh doanh và quản trị giá, giá cả được mô tả một cách đơn giản và cụ thể hơn: "Giá là khoản tiền phải trả cho một thứ gì đó". Và thứ gì đó rất đa dạng và phức tạp có thể được coi là hàng hoá đem ra trao đổi mua bán trên thị trường và tạo ra rất nhiều mức giá khác nhau đối với mỗi loại hàng hoá.
Trong lý thuyết Marketing, giá kinh doanh được xem như là một dẫn xuất lợi ích tương hỗ khi cung gặp cầu và được thực hiện, là giá trị tiền tệ của sản phẩm phát sinh trong các tương tác thị trường giữa người bán và người mua. Giá là thuộc tính căn bản của một sản phẩm, thực tế nó là một phần toàn bộ của bản thân sản phẩm.
Qua quá trình nghiên cứu và phân tích, các nhà kinh tế phân định 2 kiểu giá kinh doanh cơ bản giá hiện thực (hoặc giá thị trường) và giá chuẩn. Giá thị trường là mức giá tồn tại trên thị trường đó là giá mà người bán thực nhận được từ sản phẩm của mình và người mua thực trả cho sản phẩm nhận được giá chuẩn là một quan niệm có tính chất lý thuyết để phản ánh mức giá tại điểm cân bằng của hai đường cong cung và cầu thị trường đối với một sản phẩm mà giá thị trường có xu hướng tiệm cận nó. Các nhà kinh tế cho rằng chính giá chuẩn dài hạn mới là mức giá mà người mua sẵn sàng trả cho người bán đủ để bù đắp mọi chi phí và đạt được một lợi nhuận ròng thoả đáng, trên cơ sở lý thuyết. Một công ty không thể buôn bán sản phẩm với giá nhỏ hơn chi phí vì nếu thế thì họ sẽ bị suy thoái nguồn tài chính và khi họ rút khỏi thị trường cung sẽ giảm và dần dần sẽ dẫn tới giá tăng đủ để các công ty còn laị đạt được một mức lợi nhuận nào đó. Như vậy, giá sàn (giới hạn dưới) chính là chi phí sản phẩm cận biên, còn giá hạn trên của nó là giá người mua sẵn sàng trả ở mức cung hiện tại.
Theo một cuộc nghiên cứu thì các Giám đốc Marketing nhận thức giá và cạnh tranh giá như là mối quan tâm hàng đầu trong số các biến số hỗn hợp. Giá thương mại được hiểu là lượng tiền phải trả cho một mặt hàng hoặc dịch vụ bao gồm mọi sự bảo hành giao hàng, chiết giá, dịch vụ hay các điều khoản khác mà có thể xem như là một phần của điều kiện mua bán và không được tách biệt trong các giao dịch và thực hiện thương mại của công ty trên thị trường mục tiêu.
- Định giá trong thương mại quốc tế là việc xác định mức giá hay trong một số tổ hợp là khung giá cho từng loại sản phẩm, thích ứng với điều kiện c nhằm đảm bảo cho công ty kinh doanh quốc tế đạt được các mục tiêu của mình. Những quyết định về giá xuất khẩu liên quan đến các vấn đề sau:
+ Quyết định về giá cho sản phẩm sản xuất trong nước nhưng tiêu thụ ở thị trường nước ngoài.
+ Quyết định về giá cho những sản phẩm được sản xuất và tiêu thụ ngay tại thị trường nước ngoài nhưng chịu sự chi phối và kiểm soát tập trung từ một nước.
+ Quyết định về giá cho những sản phẩm xuất khẩu nhưng có ảnh hưởng đến việc tiêu thụ trên thị trường khác.
Về thực chất, giá xuất khẩu thường khó xác định hơn giá bán hàng hoá nội địa. Vì thế định giá xuất khẩu luôn có sự cân nhắc và suy xét cẩn thận hơn khi định giá cho sản phẩm tiêu thụ nội địa.
1.2. Các loại giá xuất khẩu
Gắn liền với hai phương pháp định giá này tồn tại các loại giá xuất khẩu. Các loại giá xuất khẩu được hình thành dựa trên một số cơ sở :
- Sự phân chia giữa bên bán và bên mua về trách nhiệm tiến hành giao hàng như: thuế, phương tiện vận tải (tàu biển, máy bay, đường bộ), về bốc hàng, dỡ hàng, mua bảo hiểm, khai hải quan, nộp thuế xuất nhập khẩu.
- Sự phân chia giữa 2 bên các chi phí về việc giao hàng như chuyên chở hàng, phí bốc dỡ, phí lưu kho, chi phí mua bảo hiểm, tiền thuê.
- Sư di chuyển từ người bán sang người mua về rủi ro và tổn thất hàng hoá.
Từ đó hình thành nên các loại giá xuất khẩu được quy định theo Incoterms 2000:
EXW( giao tại xưởng), FCA( giao cho người chuyên chở), FAS( giao dcọ mạn tầu), FOB( giao trên tầu), CFR(tiền hàng và cước phí), CIF( tiền hàng, bảo hiểm và cước phí), CPT(cước phí trả tới), CIP( cước phí và bảo hiểm trả tới), DAF( giao hàng tại biên giới), DES( giao hàng tại tầu), DEQ( gioa hàng tại cầu cảng), DDU( giao hàng thuế chưa trả), DDP( giao hàng thuế đã trả).
Khi quyết định sử dụng mỗi mức giá trên thị trường xuất khẩu, thì cần phải xem xét các nhân tố sau:
- Việc vận chuyển được công ty trong nước hay công ty nước ngoài thực hiện.
- Mức bảo hiểm có thể có
- Những thông tin có được về các chi phí cần thiết cho hoạt động xuất khẩu.
- Nhu cầu của nhà xuất khẩu về tiền mặt.
- Vấn đề chuyển đổi của đồng tiền.
- Yêu cầu của chính phủ nước nhập khẩu.
2. Vai trò của Marketing giá kinh doanh xuất khẩu
Giá của hàng hoá và dịch vụ đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong đối sách kinh tế. Trong thực tế nó giúp quyết định tiền lương danh nghĩa và thực tế của người lao động.
- Đối với nền kinh tế quốc dân, giá xuất khẩu có vai trò nhằm thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế, giúp cho quá trình hội nhập kinh tế được diễn ra nhanh hơn giữa các quốc gia góp phần làm tăng lượng ngoại tệ cho ngân sách của mỗi quốc gia về lâu dài, giá còn giúp điều phối các hoạt động kinh doanh theo quy luật cung cầu.
- Đối với người tiêu dùng ở thị trường nước ngoài, giá hàng nhập khẩu có thể giúp họ đưa ra quyết định cho việc lựa chọn nên mua hàng hoá ở nước nào vừa rẻ, vừa đẹp vừa chất lượng. Giá cả nó cũng là yếu tố tác dụng quan trọng tới mức sống của họ.
- Đối với các nhà trung gian thương mại: giá cả đôi khi sẽ tạo ra cho họ một mức lợi nhuận lớn bởi nó được thực hiện phân phối ở thị trường nước ngoài trong rất nhiều trường hợp phải qua tổ chức này.
- Đối với các nhà nhập khẩu, giá hàng hoá là nhân tố quan trọng để họ đảm bảo thực hiện tốt chức năng tổ chức, lưu thông hàng hoá từ lĩnh vực sản xuất tới lĩnh vực tiêu dùng nhằm gia tăng hơn nữa khối lượng hàng hoá lưu chuyển trong nước với mục đích kiếm lời. Giá cả nó là một trong những biến số quyết định khả năng, thực lực của họ trong hoạt động thương mại quốc tế cũng như khả năng sinh lời của nó.
- Đối với các nhà xuất khẩu: Giá cả giúp cho khả năng tiêu thụ hàng hoá được nhanh hơn. Nó là một trong những biến số quan trọng I, vì mục tiêu chủ yếu của marketing là bán hàng ở mức giá đảm bảo trang trải mọi chi phí và đạt được một lợi nhuận ròng hợp lý mà lợi nhuận lại chính là động lực hàng đầu của kinh doanh. Vì vậy giá còn có vai trò thúc đẩy các công ty áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ mới, kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất để không ngừng nâng cao sức cạnh tranh về giá.
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến giá kinh doanh xuất khẩu của công ty.
Hoạt động kinh doanh nói chung, và kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng đều chịu sự tác động của rất nhiều nhân tố mà trong một số trường hợp nó có thể dẫn tới sự phá huỷ cả một hợp đồng lớn. Tham gia hoạt động THươNG MạI QUẩC Tế, các công ty có thể sẽ chịu sự ảnh hưởng của một số nhân tố sau:
3.1. Các nhân tố thị trường ảnh hưởng tới việc định giá : Nó phản ánh tới bản chất của thị trường mục tiêu và các phản ứng mong muốn của khách hàng tới việc định giá và phát triển giá sản phẩm hoặc chụ của công ty kinh doanh. Nó bao hàm các khía cạnh.
- Sự cảm nhận của khách hàng đối với các mức giá khác nhau và sự phát triển của giá. Đây là yếu tố ấn định mức giá trần của sản phẩm hoặc dịch vụ.
- Mức thu nhập của dân cư: Mức thu nhập của dân cư ở các thị trường có sự khác nhau, nó phản ánh số lượng và loại sản phẩm dịch vụ được tiêu dùng. Với các quốc gia khác nhau, có sự khác biệt lớn về thu nhập về mức giá và độ co giãn của nhu cầu về một loại hàng hoá.
Các công ty quốc tế xây dựng giá sản phẩm bằng các cân nhắc độ co giãn giá trong mỗi quốc gia. Nhưng thực tế có nhiều áp lực không cho phép vận dụng vì giá cả có sự khác biệt rất lớn giữa các quốc gia.
Cạnh tranh: Trong kinh doanh, bản chất và cường độ cạnh tranh ảnh hưởng rất lớn tới các mức giá trong một thị trường nhất định. Khi công ty đóng vai trò cung ứng độc quyền về một sản phẩm cho một thị trường sẽ được hưởng sự linh động về giá cả lớn hơn. Nhưng ngược lại, một công ty cạnh tranh với nhiều đối thủ địa phương và quốc tế, thì số lượng và loại đối thủ cạnh tranh ảnh hưởng tới chiến lược giá trên một thị trường nhất định. Bản chất của sự cạnh tranh giữa đối thủ địa phương và quốc tế có sự khác biệt nhau rất lớn. Các đối thủ cạnh tranh địa phương có cấu trúc chi phí khác với công ty nước ngoài vì thế tạo ră mặt bằng giá khác nhau. Mức giá của đối thủ cạnh tranh và sự ưa thích của khách hàng đối với chúng sẽ tác động mạnh tới các khách hàng đang sẵn sàng mua sản phẩm của công ty và đó là sự thách thức lớn đối với sự tồn tại của công ty. Thế nhưng trong một số trường hợp, giá cả thị trường lại có do sự được thoả thuận giữa các đối thủ cạnh tranh địa phương. Vì thế, khi công ty kinh doanh mới xâm nhập thị trường phải quyết định nên chấp nhận mức giá hiện tại hay xây dựng các mức giá khác biệt với mức cạnh tranh đã định sẵn.
3.2. Các nhân tố nội tại của công ty.
3.2.1. Chi phí: Giá bán được xác định bởi các chi phí sản xuất và Marketing cho sản phẩm, thông thường bao gồm đầy đủ chi phí sản xuất, kinh doanh và dịch vụ. Tuy nhiên, định giá trong THươNG MạI QUẩC Tế thường phát sinh các chi phí khác và tính vào giá bán ở thị trường nước ngoài, điều đó ảnh hưởng tới mức giá thấp nhất của sản phẩm. Những chi phí đó bao gồm:
- Chi phí vận tải: Nếu hai quốc gia có sự cách xa nhau về mặt địa lý thì sẽ dẫn tới mức chi phí vận tải lớn và với những sản phẩm công nghệ cao thì ít nhạy cảm với chi phí vận tải so vói sản phẩm tiêu chuẩn hóa, đối với những sản phẩm đắt tiền (công cụ đtư phức tạp ...) thì chi phí vận chuyển chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng chi phí và ít tác động tới việc định giá. Khi đó, các công ty kinh doanh cần tìm kiếm công nghệ vận tải để giảm chi phí đvị và tăng khả năng cạnh tranh.
- Thuế quan: Trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu các quốc gia thường áp đặt các mức thuế cho những sản phẩm xuất khẩu và nhập khẩu (chỉ có một số trường hợp có thoả thuận đặc biệt giữa các quốc gia có liên quan). Thuế được tính trên gái hàng đến nơi (nó bao gồm cả tiền vận chuyển tới nước nhập khẩu). Do đó thuế cũng làm phát triển giá cả sản phẩm lên một mức đáng kể đối với các sản phẩm nhập khẩu có ảnh hưởng tới người tiêu dùng cuối cùng ở thị trường nước ngoài. Ngày nay với xu hướng toàn cầu hoá và khu vực hoá thì thuế quan có xu hướng giảm, tuy nhiên nó vẫn còn ảnh hưởng tới quyết định giá tại một số quốc gia.
- Chi phí cho phân phối hàng hoá: thông thường các sản phẩm tham gia vào thị trường nước ngoài sẽ có sự khác nhau về kênh phân phối, độ dài kênh do sự khác biệt ở mỗi quốc gia, điều này ảnh hưởgn tới giá sản phẩm và tới lợi nhuận của công ty.
3.2.2. Mục tiêu của công ty ở thị trường nước ngoài:
Các công ty kinh doanh khi tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế không thể chỉ ở trên một thị trường mà luôn luôn có xu hướng mở rộng thị trường sang nhiều quốc gia khác. Tuy nhiên mỗi một thị trường tuỳ vào đặc điểm cũng như một số nhân tố ảnh hưởng tới: mà các công ty theo đuổi các mục tiêu kinh doanh khác nhau.
- Khi thị trường tăng trưởng cao và ổn định, công ty sẽ quan tâm tới mục tiêu là tăng thị phần và sẽ áp dụng một chính sách giá xâm nhập thị trường.
- Nhưng khi có sự trì trệ và sức cầu giảm thì công ty cố gắng duy trì chất lượng sản phẩm để giữ vững doanh số bằng việc đưa ra những mức giá phù hợp.
3.3. Các nhân tố môi trường ảnh hưởng tới giá:
Khi tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế công ty luôn chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố khách quan. Khó có thể kiểm soát được sự tác động của những yếu tố này trong nhiều trường hợp có ảnh hưởng mạnh tới LN của công ty. Vì thế các công ty, trước khi tham gia vào một thị trường cần thiết phải có sự nghiên cứu các yếu tố môi trường tác động tới, nó bao hàm một số nhân tố sau :
3.3.1. Sự dao động của tỉ giá hối đoái: đây là nhân tố không dự đoán được mà sự tác động của nó đến giá cả là rất lớn. Bởi lẽ đồng tiền thanh toán giữa các quốc gia khác nhau là khác nhau vì chỉ có thể trao đổi với nhau thông qua tỉ giá chỉ với một sự dao động nhỏ của nó có thể cũng tạo ra cơ hội mới cho công ty nhưng nó cũng có thể gây khó khăn trong điều hành mà đặc biệt là đối với các công ty điều hành trong các quốc gia có đồng tiền tăng giá.
3.3.2. Tỉ lệ lạm phát: Yếu tố này cũng ảnh hưởng lến đến quyết định giá xuất khẩu. Lạm phát cao đòi hỏi điều chỉnh giá theo chu kỳ để trang trải hết các chi phí, bởi tỉ lệ lạm phát không giống nhau ở các khu vực thị trường. Tỉ lệ lạm phát buộc các công ty cần thiết phải có những phản ứng đặc biệt vì một vấn đề phức tạp là sự phát triển tỉ lệ lạm phát và kèm theo đó là rủi ro tài chính và nó thường xuyên dao động cùng thời gian và rất khác nhau giữa các quốc gia.
3.3.3. Sự kiểm soát của chính phủ: Các hoạt động của chính phủ và những qui định của nó tác động đến giá cả - chính phủ có thể áp đặt kiểm soát giá đối với những sản phẩm cụ thể như: mức giá trần, mức
4. ý nghĩa của Marketing giá kinh doanh
- Trong các biến số Marketing - mix, giá là yếu tố chiến lược quan trọng trực tiếp tạo ra đthu và lợi nhuận, bởi vì nó ảnh hưởng tới sự chấp nhận chất lượng sản phẩm và do đó đóng vai trò quan trọng đối với vị thế của sản phẩm, đồng thời giá cũng là một biến số chiến thuật chủ yếu vì nó có thể được phát triển nhanh chóng để phục vụ cho các mục đích cạnh tranh.
- Giá kinh doanh được hiểu là giá thị trường và chịu sự điều tiết của quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu. Do vậy, nó phản ánh tính toàn diện và tính tự chủ của một công ty trên thị trường, nó phản ánh tính hiện thực trong hoạt động kinh doanh của công ty. Vì thế các nhà quản trị công ty khi phải đối diện với tình huống cạnh tranh về giá sẽ nhanh chóng đưa ra được một chính sách phù hợp để phản ứng lại những phát triển về giá trên thị trường. Vì vậy một vùng giá được hình thành với giá sàn (được xác định trên cơ sở chi phí kinh doanh) và giá trần (được xác định trên cơ sở nhu cầu thị trường ) và những thông tin liên quan tới các nhân tố ảnh hưởng đến giá khác là cơ sở tốt để nhà quản trị linh hoạt tìm ra mức giá tối ưu theo mục tiêu của mình.
II. Phân định những nội dung cơ bản của Marketing giá xuất khẩu
1. Xác định mục tiêu định giá xuất khẩu
Mục tiêu giá phụ thuộc vào mục tiêu Marketing nói chung của xuất khẩu va quyết định của anh ta về phương pháp cũng như kỹ thuật để đạt được mục tiêu đó. Các công ty kinh doanh xuất nhập khẩu có thể theo đuổi bất kỳ mục tiêu nào trong số các mục tiêu sau :
Thứ 1: thâm nhập thị trường (hay đoạn thị trường) quốc tế.
Mục tiêu cơ bản mà các công ty muốn đạt được đó là cần phải định vị trí một cách chắc chắn sản phẩm của mình trên thị trường. Nhu cầu thị trường luôn phát triển cùng với sự biến động của các yếu tố khách quan khó kiểm soát. Trong hoạt động thương mại quốc tế, công ty không chỉ dừng lại ở một thị trường mình đang hoạt động mà luôn tìm cách mở rộng thị trường cũng như đánh gái rõ hiện trạng thị trường đó. Với mục tiêu này, các công ty có thể có những chiến lược giá thấp cho đoạn thị trường này nhằm định vị sản phẩm của mình trên thị trường và có thể cạnh tranh được.
Thứ 2: Phát triển thị phần và dân số bán.
Mục tiêu lớn thứ hai mà các công ty kinh doanh quốc tế mong muốn đạt được ở thị trường nước ngoài là phát triển thị phần. Bởi vì, thị phần thể hiện mức độ hiện hữu của công ty trên thị trường đó. Họ tin rằng công ty nào có được thị phần lớn nhất sẽ được hưởng chi phí thấp nhất và lợi nhuận về lâu dài cao nhất. Họ theo đuổi mục tiêu phát triển thị phần bằngcách định gái càng thấp càng tốt. Cùng với việc phát triển thị phần thì kéo theo đó là mức doanh số bán tăng lên đáng kể.
Thứ 3 : Tối đa hoá lợi nhuận.
Các công ty đều muốn đề ra một mức giá để tối đa hoá lợi nhuận hiện tại. Họ ước lượng mức cầu và chi phí đó liền với những mức giá khác nhau và chọn ra mức giá sẽ tạo được lợi nhuận hiện tại, lượng tiền mặt và tỉ lệ thu trên vốn đầu tư tối đa. Giá xuất khẩu cũng được cân nhắc, tính toán để đảm bảo công ty được mức lợi nhuận mong muốn. Trong tất cả mọi trường hợp, công ty đều nhấn mạnh đến sự tính toán tài chính hiện tại hơn là sự thanh toán về lâu dài.
2. Các chiến lược giá cơ bản
Để có thể thành công ở địa phương, các công ty cần có hiểu biết sâu sắc vè từng thị trường nước ngoài nó đang kinh doanh và năng lực địa phương nhằm khai thác những hiểu biết này để phục vụ và đáp ứng với những nhu cầu và yêu cầu riêng biệt của thị trường quốc gia. Chiến lược giá được định ra nhằm giúp công ty có thể đối phó với những thay đổi thị trường nhằm đạt được các mục tiêu Marketing đã định ra. Công ty có thể áp dụng 2 chiến lược định giá cơ bản sau :
2.1. Chiến lược định giá cao:
Việc định giá cao trong một số trường hợp lại đạt hiệu quả, vì thế các công ty có thể áp dụng chiến lược định giá cao khi :
Sản phẩm có đặc tính riêng biệt và được bảo vệ tốt về mặt luật pháp cả thị trường trong nước và ngoài nước để không diễn ra bất cứ sự cạnh tranh trực tiếp hay gián tiếp. Khi dung lượng thị trường được đánh giá là nhỏ và không đủ thu hút cạnh tranh. Nhà sản xuất, kinh doanh có nguồn tài chính giới hạn nên không thể mở rộng nhanh chóng thị trường quốc tế. Cuối cùng sản lượng không thể tăng lên nhanh chóng để thoả mãn nhu cầu thị trường, do có những khó khăn về mặt kỹ thuật. Có hai kiểu định giá trong chiến lược này là :
2.1.1. Chiến lược định giá lướt nhanh qua thị trường hay "sứt váng sữa"
Các công ty áp dụng chiến lược này nhằm mục đích thu được lợi nhuận cao trong ngắn hạn và cũng rút lui nhanh khỏi thị trường. Việc định giá được nâng cao nhưng trong giới hạn của khung giá và hạ thấp sau một thời gian nhất định, để giành thắng lợi trong cạnh tranh. Khi công ty áp dụng một chiến lược giá này sẽ cho phép đạt được mục tiêu lợi nhuận ngắn hạn và dễ dàng áp dụng giảm giá về phương diện tâm lý khách hàng. Tuy nhiên chiến lược này chỉ có thể áp dụng thành công nếu công ty tiến hành tốt việc phân đoạn thị trường và chọn lựa đoạn thị trường mục tiêu. Bên cạnh đó khi áp dụng chiến lược này thì sản phẩm chỉ tồn tại một thời gian ngắn trên thị trường, chi phí sản xuất quá cao, cầu ít co giãn và khó đánh giá, sự đe doạ cạnh tranh lớn cũng như yếu tố môi trường không ổn định.
2.1.2. Chiến lược định giá trượt xuống theo đường cầu :
Khi áp dụng chiến lược này công ty ban đầu định giá dựa trên cơ sở cầu của thị trường rồi sau đó định giá trên cơ sở chi phí với bước đi nhịp nhàng hơn. Với chiến lược này thì các công ty lại phải quan tâm nhiều hơn với đối thủ cạnh tranh tiềm tàng và cần phải có sự giảm giá khi có những phản ứng của người tiêu dùng làm giảm nhu cầu. Công ty mong muốn bán một sản lượng trên thị trường nước ngoài trước khi đối thủ cạnh tranh kịp hản ứng nhưng nó chỉ thực hiện được khi công ty có sự đổi mới sản phẩm.
2.2. Chiến lược định giá thấp :
Trong nhiều trường hợp để thoả mãn các mục tiêu của mình các công ty lại áp dụng chiến lược định giá thấp. Tuy nhiên, nó chỉ có hiệu quả khi mà sản phẩm phải được tiêu dùng rộng rãi, có thể mở ra những thị trường mới. Dung lượng thị trường nước ngoài đủ lớn để thực hiện những cố gắng khuyếch trương với cường độ lớn. Với chiến lược này có các phương pháp định giá sau :
2.2.1. Định giá xâm nhập :
Khi các công ty bắt đầu có ý định xâm nhập vào một thị trường nào đó thì cần phải áp dụng chiến lược giá này. Mục đích là đưa r