Đề tài Thực trạng pháp luật về xử lý cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường

Tình thế cấp thiết: Như chúng ta đã biết thì tình môi trường ở nước ta hiện nay đang bị ô nhiễm nghiêm trọng và đáng báo động chẳn những ô nhiễm ở đô thị mà còn ở cả nông thôn, ô nhiễm môi trường làm cho con người phải gánh chịu nhiều hậu quả như dịch bệnh, lao phổi, sốt suất huyết, ung thư, điếc, bệnh tai, mũi, họng, làm cho sức khoẻ của con người yếu ớt và dễ bị bệnh hơn. Nạn ô nhiễm môi trường đã làm cho nguồn nước sạch bị cạn kiệt, ô nhiễm không khí trầm trọng, tiếng ồn và độ rung cũng vượttiêu chuẩn cho phép, khí hậu ngày càng nóng lên, sở dĩ có những hậu quả như thế là là do rất nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân chủ yếu là do các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường, chính vì thế bảo vệ môi trường là vấn đề cấp bách và khẩn trương hơn bao giờ hết. Bảo vệ môi trường là một vấn đề không phải của riêng ai, mà của mọi người dân chúng ta cần phải làm, và đặc biệt là vai trò quản lý của nhà nước về lĩnh vực môi trường. Thật vậy trong hiến pháp 1992 của Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam tại điều 29 có ghi rõ là “ cơ quan nhà nước đơn vị vũ trang, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, mọi cá nhân phải thực hiện các quy định của nhà nước về sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Nghiêm cấm mọi hành động làm suy kiệt tài nguyên và huỷ hoại môi trường” Chính sách môi trường nói chung cũng như chính sách ngăn ngừa ô nhiễm công nghiệp nói riêng, thống nhất các quan điểm cơ bản thể hiện trong chỉ thị số 36/CT/TW của Bộ Chính Trị ngày 25/6/1998 về tăng cường công tác bảo vệ môi trường, trong thời kỳ công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước “ bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, là nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của tất cả các cấp các ngành, là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bần vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, coi phòng ngừa và ngăn chặn ô nhiễm là nguyên chủ đạo, kết hợp với xử lý ô nhiễm, cải thiện môi trường và bảo tồn thiên nhiên, kết hợp phát triển huy nội lực với tăng cường hợp tác quốc tế trong việc bảo vệ môi trường và phát triển bền vững” và quyết định số 64/2003/QĐ-Ttg của thủ tướng chính phủ về kế hoạch xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, chỉ thị 37 của ban Bí Thư Trung Ương, Nghị quyết 41 ngày 15 tháng 11 năm 2004, nhằm đề ra những phướng hướng, chính sách giúp bảo vệ môi truờng ngày càng hoàn thiện và trong lành hơn. Phạm vi nghiên cứu: Vì mục tiêu bảo vệ cho môi trường chúng ta ngày càng sạch hơn vàlàm giảm đến mức thấp nhất nạn ô nhiễm môi trường, nhằm làm cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tạo ra những sản phẩm, và những tác động của họ đối với môi trường ngày càng than thiện hơn, chính vì thế phạm vi nghiên cứu của Tôi là nghiên cứu về pháp luật để xử lý các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ gây ô nhiễm môi trường về xử phạt vi phạm hành chính, hình sự, bồi thường thiệt hại và cả về biện pháp khắc phục hậu quả và phục hồi môi trường, và xem nhưng tồn tại của pháp luật Việt Nam về xử lý các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ như thế nào và tìm ra những đề xuất cơ bản để góp phần xử lý triệt để hơn đối với các cơ sở gây ô nhiễm

pdf80 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1593 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng pháp luật về xử lý cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA LUẬT BỘ MÔN THƯƠNG MẠI ---- oOo --- LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP NIÊN KHOÁ (2004-2008) Đề Tài: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ CƠ SỞ SẢN XUẤT GÂY Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG Giáo viên hướng dẫn: Ths. KIM OANH NA Sinh viên thực hiện: HỨA VĂN HIỆP MSSV: 5043967 Lớp: LUẬT THƯƠNG MẠI - K30 Năm 2008 Đề tài luận văn: Thực trạng pháp luật về xử lý cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường. GVHD: Ths.Kim OanhNa SVTH: Hứa văn Hiệp Trang 1 Lời Nói Đầu Tình thế cấp thiết: Như chúng ta đã biết thì tình môi trường ở nước ta hiện nay đang bị ô nhiễm nghiêm trọng và đáng báo động chẳn những ô nhiễm ở đô thị mà còn ở cả nông thôn, ô nhiễm môi trường làm cho con người phải gánh chịu nhiều hậu quả như dịch bệnh, lao phổi, sốt suất huyết, ung thư, điếc, bệnh tai, mũi, họng,…làm cho sức khoẻ của con người yếu ớt và dễ bị bệnh hơn. Nạn ô nhiễm môi trường đã làm cho nguồn nước sạch bị cạn kiệt, ô nhiễm không khí trầm trọng, tiếng ồn và độ rung cũng vượt tiêu chuẩn cho phép, khí hậu ngày càng nóng lên,…sở dĩ có những hậu quả như thế là là do rất nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân chủ yếu là do các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường, chính vì thế bảo vệ môi trường là vấn đề cấp bách và khẩn trương hơn bao giờ hết. Bảo vệ môi trường là một vấn đề không phải của riêng ai, mà của mọi người dân chúng ta cần phải làm, và đặc biệt là vai trò quản lý của nhà nước về lĩnh vực môi trường. Thật vậy trong hiến pháp 1992 của Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam tại điều 29 có ghi rõ là “ cơ quan nhà nước đơn vị vũ trang, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, mọi cá nhân phải thực hiện các quy định của nhà nước về sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Nghiêm cấm mọi hành động làm suy kiệt tài nguyên và huỷ hoại môi trường” Chính sách môi trường nói chung cũng như chính sách ngăn ngừa ô nhiễm công nghiệp nói riêng, thống nhất các quan điểm cơ bản thể hiện trong chỉ thị số 36/CT/TW của Bộ Chính Trị ngày 25/6/1998 về tăng cường công tác bảo vệ môi trường, trong thời kỳ công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước “ bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, là nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của tất cả các cấp các ngành, là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bần vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, coi phòng ngừa và ngăn chặn ô nhiễm là nguyên chủ đạo, kết hợp với xử lý ô nhiễm, cải thiện môi trường và bảo tồn thiên nhiên, kết hợp phát triển huy nội lực với tăng cường hợp tác quốc tế trong việc bảo vệ môi trường và phát triển bền vững” và quyết định số 64/2003/QĐ-Ttg của thủ tướng chính phủ về kế hoạch xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, chỉ thị 37 của ban Bí Thư Trung Ương, Nghị quyết 41 ngày 15 tháng 11 năm 2004,… nhằm đề ra những phướng hướng, chính sách giúp bảo vệ môi truờng ngày càng hoàn thiện và trong lành hơn. Phạm vi nghiên cứu: Vì mục tiêu bảo vệ cho môi trường chúng ta ngày càng sạch hơn và làm giảm đến mức thấp nhất nạn ô nhiễm môi trường, nhằm làm cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tạo ra những sản phẩm, và những tác động của họ đối với môi trường ngày càng than thiện hơn, chính vì thế phạm vi nghiên cứu của Tôi là nghiên cứu về pháp luật để xử lý các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ gây ô nhiễm môi trường về xử phạt vi phạm hành chính, hình sự, bồi thường thiệt hại và cả về biện pháp khắc phục hậu quả và phục hồi môi trường, và xem nhưng tồn tại của pháp luật Việt Nam về xử lý các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ như thế nào và tìm ra những đề xuất cơ bản để góp phần xử lý triệt để hơn đối với các cơ sở gây ô nhiễm. Mục tiêu nghiên cứu: Trong quá trình ban hành pháp luật cũng như trong quá trình thực hiện ở mỗi địa phương có khác nhau từ đó không tránh khỏi những thiếu sót, vì thế mục tiêu nghiên cứu của tôi là tìm ra những tồn tại và vướng mắt và đề ra những phương hướng giải quyết được hoàn thiện và tốt hơn. Đề tài luận văn: Thực trạng pháp luật về xử lý cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường. GVHD: Ths.Kim OanhNa SVTH: Hứa văn Hiệp Trang 2 Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp của tôi đi từ chi tiết đến tổng quát và kết hợp áp dụng nhiều phương pháp như phương pháp phân tích câu chữ, phương pháp luật viết, phương pháp so sánh, phương pháp duy vật,… Cơ cấu của luận văn: Cơ cấu của luận văn gồm hai chương: Chương 1: Tình hình môi trường và cơ sở pháp lý về bảo vệ môi trường Chương II: Thực trạng pháp luật về xử lý cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ gây ô nhiễm môi trường: Đề tài luận văn: Thực trạng pháp luật về xử lý cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường. GVHD: Ths.Kim OanhNa SVTH: Hứa văn Hiệp Trang 3 Chương 1: Khái quá về tình hình môi trường và cơ sở pháp lý về bảo vệ môi trường 1. Một số khái niệm: 1.1 Khái niệm về môi trường: Mỗi cơ thể sống dù là cá nhân con người hay bất kỳ một sinh vật nào tồn tại trên trái đất ở trong mọi trạng thái điều bị bao quanh và bị chi phối bởi môi trường. Thuật ngữ môi trường có nguồn gốc từ tiếng pháp “environner” có nghĩa là bao quanh hay chu trình khép kín, thuật ngữ này cũng được các quốc gia sử dụng khá phổ biến trong những năm đầu thập niên 60 thế kỷ XX cụ thể như: “umwell” (German - Đức); “Mileu” (Dutch - Hà Lan); “Medio ambiente” (Spanish - Tây Ban Nha). Môi trường là một phạm trù rất rộng, có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau, cụ thể như sau: “Môi trường” là toàn bộ nói chung những điều kiện tự nhiên và xã hội, trong đó con người hay một sinh vật tồn tại, phát triển trong mối quan hệ con người hay sinh vật ấy1 “Môi trường là một nơi chốn trong số các nơi chốn, nhưng có thể là một nơi chốn đáng chú ý, thể hiện các màu sắc xã hội của một thời kỳ hay một xã hội2 “Môi trường” được hiểu là toàn bộ các hệ thống tự nhiên và các hệ thống do con người tạo ra xung quanh mình, trong đó con người sinh sống và bằng lao động của mình đã khai thác các tài nguyên thiên nhiên hoặc nhân tạo nhằm thoả mãn các nhu cầu của con người3. Ngoài ra còn có một số định nghĩa khác về môi trường ở phạm vi rộng hơn như: môi trường sinh vật, môi trường sinh học, môi truờng gia đình, môi trường xã hội, môi trường sống, môi truờng lao động ...Nói chung các quốc gia có xây dựng khái niệm pháp lý về môi trường trên cơ sở những yếu tố, hoàn cảnh và tự nhiên bao quanh con người. Ở Việt Nam khái niệm pháp lý về môi trường được ấn định trong đạo luật về môi trường, và tính đến thời điểm này thì có đến hai khí niệm được quy định trong luật bảo vệ môi trường 1993 và 2005 như sau: Tại đoạn 1 điều 1 luật bảo vệ môi trường 1993 “môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo có quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và tự nhiên”. Còn khái niệm môi trường được quy định trong luật bảo vệ môi trường 2005 thì ở khoản 1 điều 3 đã định nghĩa như sau “môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật”. 1.2 Khái niệm về ô nhiễm môi trường: Ô nhiễm môi trường là một khái niệm được nhiều ngành khoa học định nghĩa. Dưới góc độ sinh học khái niệm này chỉ tình trạng môi trường trong đó nhữnh chỉ số hoá học, lý học của nó bị thay đổi theo chiều hướng xấu đi. Dưới góc độ kinh tế học ô nhiễm môi trường là sự thay đổi không có lợi cho môi trường sống về các tính chất vật lý, hoá học, sinh học, mà qua đó có thể gây tác 1 từ điển tiếng việt nhà xuất bản Đà Nẵng trang 618 2 trong quyển môi trường và tài nguyên Việt Nam NXB Khoa hoc và kinh tế Hà Nội,1994 3 tuyên ngôn 1981 của Unesco Đề tài luận văn: Thực trạng pháp luật về xử lý cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường. GVHD: Ths.Kim OanhNa SVTH: Hứa văn Hiệp Trang 4 hại tức thời hoặc lâu dài đến sức khoẻ con người, các loài động thực vật và cá điều kiện đời sống khác. Dưới góc độ pháp lý “ ô nhiễm môi trường là sự thay đổi các thành phần môi trường không phù hợp với tiêu chuẩn môi trường, gây ảnh hưởng đến con người, sinh vật4 ” Có thể thấy điểm chung nhất giữa các định nghĩa nêu trên về môi trường điều có đề cập đến sự biến đổi của các thành phần môi trường theo chiều hướng xấu gây bất lợi cho con người và sinh vật. Sự biến đổi của các thành phần môi trường có thể bắc nguồn từ nhiều nguyên nhân chủ yếu là các chất gây ô nhiễm. Các chất gây ô nhiễm được các nhà môi trường học định nghĩa là chất hoặc yếu tố vật lý khi xuất hiện trong môi trường làm cho môi trường bị ô nhiễm thông thường các chất gây ô nhiễm là các chất thải tuy nhiên chúng còn có thể xuất hiện dưới dạng nguyên liệu, thành phẩm, phế phẩm, chế phẩm...và được phân thành các loại sau đây: Chất gây ô nhiễm tích luỹ chất dẻo, chất phóng xạ và chất ô nhiễm không tích luỹ (tiếng ồn). Chất gây ô nhiễm trong phạm vi địa phương (tiếng ồn), trong phạm vi vùng (mưa axít) và trên phạm vi toàn cầu là (chất CEC). Chất gây ô nhiễm từ nguồn có thể xác định ( chất thải từ các cơ sở sản xuất, kinh doanh) và chất gây ô nhiễm không xác định được nguồn ( hoá chất dùng trong nông nghiệp). Chất gây ô nhiễm do phát thải liên tục ( chát thải từ các cơ sở sản xuất, kinh doanh) và chất thải do phát thải không liên tục ( tràn dầu do sự cố tràn dầu). Môi trường có thể bị ô nhiễm với nhiều mức độ khác nhau như ô nhiễm, ô nhiễm nghiêm trọng, và ô nhiễm đặc biệt nghiêm trọng. Mức đô ô nhiễm đối với các thành phần cụ thể thường được xác định dựa vào mức vượt tiêu chuẩn chất lượng môi trường của các chất gây ô nhiễm có trong thành phần môi trường. Theo pháp luật hiện hành thì tại điều 92 Luật Bảo Vệ Môi Trường 2005 quy định rằng: “ Môi trường bị ô nhiễm trong trường hợp hàm lượng một hoặc nhiều chất gây ô nhiễm vượt quá tiêu chuẩn về chất lượng môi trường. Môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng khi hàm lượng của một hoặc nhiều hoá chất, kim loại nặng vượt quá tiêu chuẩn về chất lượng môi trường từ 3 lần trở lên hoặc hàm lượng của một hoặc nhiều chất gây ô nhiễm khác vượt quá tiêu chuẩn về chất lượng môi trường từ 5 lần trở lên. Môi trường bị ô nhiễm đặc biệt nghiêm trọng khi hàm lượng của một hoặc nhiều hoá chất, kim loại nặng vượt quá tiêu chuẩn về chất lượng môi trường từ 5 lần trở lên hoặc hàm lượng của một hoặc nhiều chất gây ô nhiễm khác vượt quá tiêu chuẩn về chất lượng môi trường từ 10 lần trở lên”. 1.3 Khái niệm bảo vệ môi trường: Bảo vệ môi trường tại sao chúng ta lại phải bảo vệ môi trường? Vậy môi trường là gì? Như chúng ta đã biết môi trường là như thế nào được nêu phần khái niệm phía trên thì môi trường cực kỳ quan trọng đối với cuộc sống của chúng ta, chúng ta sống phụ thuộc vào môi trường, môi trường trong sạch thì con người chúng ta thoải mái dễ chiu…và ngược lại môi trường bị ô nhiễm thì hậu quả của nó cực kỳ tệ hại khói, bụi, nước thải của các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ là những vũ khí giết người thầm lặng, nó có thể làm cho con người mất nhiều thứ bệnh như ung thư, lao phổi, phế quản,…vì vậy đòi hỏi mọi cá nhân, mỗi gia đình, và toàn xã hội và đặc biệt là vai trò của nhà nước phải tăng cường hơn nữa trong quá trình bảo vệ môi trường sống của chúng ta ngày càng tốt hơn, bảo vệ môi trường không phải là của riêng ai mà là của tất cả mọi người, của gia đình, của xã hội và của quốc gia cũng như của toàn thế giới chính vì thế mới có ngày môi trường thế giới là ngày 5 tháng 6 hàng năm còn ở 4 khoản 6 điều 3 luật bảo vệ môi trường 2005 Đề tài luận văn: Thực trạng pháp luật về xử lý cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường. GVHD: Ths.Kim OanhNa SVTH: Hứa văn Hiệp Trang 5 Việt Nam chúng ta thì có rất nhiều những ngày bảo vệ môi trường như tuần lễ xanh- sạch- đẹp, tuần lễ vệ sinh môi trường và nhiều chương trình bảo vệ môi trường khác như chương trình nước sạch nông thôn và đặc biệt là nghị quyết 64 về xử lý các cơ sơ sản xuất gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, và chỉ thị số 36/CT – TW ngày 25 tháng 6 năm 1998 của Bộ Chính Trị cũng nhấn mạnh bảo vệ môi trường là một vấn đề sống còn của đất nước, cả nhân loại là nhiệm vụ có tính xã hội sâu sắc, gắn liền với cuộc đấu tranh xóa đói giảm nghèo ở mỗi nước, với cuộc đấu tranh vì hòa bình và tiến bộ xã hội trên phạm vi toàn thế giới, những vấn đề những biện pháp trong việc bảo vệ môi trường. Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn dân, toàn xã hội, bảo vệ môi trường không phải một ngày một bửa mà phải thường xuyên, liên tục có như thế thì môi trường chúng ta mới ổn định và muốn phát triển bền vững thì phải bảo vệ môi trường. Vậy bảo vệ môi trường phải làm như thế nào nó đã được nêu trong luật bảo vệ môi trường 2005 tại khoản 3 điều 3 như sau: “ Bảo vệ môi trường là hoạt động bảo vệ cho môi trường trong lành, sạch đẹp, phòng ngừa hạn chế, tác động xấu đối với môi trường, ứng phó sự cố môi trường, khắc phục ô nhiễm, suy thoái, phục hồi cải thiện môi trường, khai thác sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên; bảo vệ đa dạng sinh học”. 1.4 Khái niệm cơ sở sản xuất: Cơ sở sản xuất là gì thì chưa có một ai định nghĩa được, cơ sở sản xuất có thể được hiểu là nơi sản xuất ra hàng hoá để bán, và phải trãi qua nhiều giai đoạn, và nó có một chu trình khép kín như cơ sở sản xuất nước mắm, cơ sở sản xuất nước tương, cơ sở sản xuất thức ăn gia súc…Và các cơ sở sản xuất này chủ yếu sản xuất ra sản phẩm để bán. Ngoài ra còn có thể hiểu là “sản xuất là để tạo ra của cải vật chất, nói chung sản xuất lương thực, sản xuất vật phẩm tiêu dùng, hoạt động sản xuất tạo ra vật phẩm cho xã hội bằng cách dùng tư liệu lao động tác động vào đối tượng như sản xuất công nghiệp, sản xuất nông nghiệp5”. Cơ sở sản xuất là một phạm trù rất rộng, đối với cá nhân qui mô nhỏ như sản xuất bánh tráng, bánh in, bánh phòng, sản xuất nem. Còn qui mô lớn như sản xuất thuốc trừ sâu, sản xuất tôm giống, sản xuất nước đá…Còn đối với tổ chức như các khu công nghiệp, khu chế xuất có hoạt động sản xuất như sản xuất nhôm, sản xuất rượu bia, sản xuất thuốc trừ sâu…nói chung thì cơ sở sản xuất rất rộng tuy nhiên tôi chỉ đề cập đến các cơ sở sản xuất thuộc đối tượng phải lập báo cáo đánh giá môi trường chiến lược và đối tượng phải lập báo cáo đánh gía tác động môi trường được qui định trong luật bảo vệ môi trường 2005. Cụ thể như tại danh mục I các dự án phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường ban hành kèm theo Nghị định số 80/2006/NĐ-CP ngày 09 tháng 8 năm 2006 của Chính phủ như: Dự án nhà máy sản xuất chất dẻo công suất thiết kế từ 1.000 tấn sản phẩm/năm trở lên, dự án nhà máy sản suất phân hoá học công suất thiết kế từ 10.000 tấn sản phẩm/năm trở lên và dự án nhà máy sản xuất sơn cơ bản, hoá chất công suất thiết kế từ 1.000 tấn sản phẩm/năm trở lên,… và tại mục II là danh mục các dự án liên ngàng, lên tỉnh thuộc trách nhiệm thẩm định và phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường của Bộ Tài Nguyên và Môi Trường Ban hành kèm theo Nghị định số 80/2006/NĐ-CP ngày 09 tháng 8 năm 2006 của Chính phủ như: Dự án nhà máy thủy điện, công trình thủy lợi có dung tích hồ chứa từ 5 trong từ điển tiếng việt trang 815 nhà xuất bản Đà Nẵng 1998 Đề tài luận văn: Thực trạng pháp luật về xử lý cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường. GVHD: Ths.Kim OanhNa SVTH: Hứa văn Hiệp Trang 6 100.000.000 m3 nước trở lên hoặc làm ảnh hướng đến nguồn cung cấp nước mặt và nước ngầm của từ 02 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trở lên,… 2 Khái quát tình hình môi trường nước ta qua các thời kỳ: Ở Việt Nam đã có một quá trình biến đổi lâu dài theo thời gian, một điều khẳng định là môi trường nước ta lúc mới hình thành tốt đẹp hơn hiện nay rất nhiều lần, nguồn nước, bầu không khí, …rất trong sạch, các loài động thực vật phong phú và đa dạng theo tài liệu lịch sử ban đầu ở nước ta rừng phủ kín đất tự nhiên loài rỗ quý, nguồn đất trồng khi đó cũng rất giàu dinh dưỡng thuận lợi cho phát triển của nhiều loài thực vật. Ngay từ những ngày đầu của lịch sử tổ tiên người Việt đã có gắn bó với môi trường dựa vào môi trường tự nhiên để sinh sống. Từ hang động ra tổ tiên đã biết làm nhà để ở trồng lúa, rau đậu chăn nuôi, kết hợp thu nhặc săn bắn, hái lượm trong rừng để bổ sung cho các bữa ăn hang ngày tất cả mọi hành động để duy trì sự sinh tồn và phát triển con người điều phải tác động vào môi trường tự nhiên và thai thác tự nhiên làm cho môi trường tự nhiên có sự thai đổi. Trong suốt thời kỳ Hùng Vương dựng nước và hơn một nghìn năm bắc thụôc tổ tiên người Việt sinh sống hoà đồng với môi trường, trong quá trình sản xuất con người đã khai thác vật liệu của tự nhiên để làm ra những sản phẩm cần thiết cho mình và môi trường tự nhiên cũng có những thay đổi do sự tác động của con người tuy nhiên ở thời kỳ đầu mới hình thành cộng đồng người Việt còn rất ít người các yếu tố cấu thành môi trường tự nhiên lại rất phong phú, hơn nữa các yếu tố cấu thành của môi trường tự nhiên lại rất lớn vì vậy không có vấn đề ô nhiễm môi trường. Dưới thời các triều vua nhà Nguyễn và chính sách đô hộ của thực dân pháp (1884-1945), với chính sách khai thác thuộc địa của thực dân pháp để phục vụ cho các tập đoàn tư bản, nhiều nguồn tài nguyên quý hiếm của nước ta đã bị khai thác bừa bãi, các nhà tư bản pháp đã khai thác triệt để lợi dụng những điều kiện thuận lợi của Việt Nam về thời tiết khí hậu, đất đai để trồng các cây nông sản nhiệt đới, cây công nghiệp như chè, cao su, cà phê…nhằm mục đích thu lợi nhuận cao, trong quá trình này một mặc chúng bóc lột sức lao động rẽ mạc ở nước ta, mặc khác chúng quan tâm tới lợi nhuận nên vấn đề môi trường không được chú trọng, đất đai bị vắc kiệt chất dinh dưỡng, nhiều chất độc hại ô nhiễm không qua xử lý được thải luôn vào môi trường làm cho môi trường không còn trong sạch như trước nữa. Trong hai cuộc kháng chiến môi trường nước ta bị tổn thương và ô nhiễm nặng, do chiến tranh nhiều khu rừng đã bị phá trịu, nguồn nước cho sản xuất và sinh hoạt bị ô nhiiễm điều đặc biệt nguy hại đối với chúng ta là Mỹ đã rãi chất độc hoá học ở nhiều vùng trên đất nước ta nhằm huỷ duyệt sự sống làm cho môi trường bị tàn phá rất nặng, nhiều sinh vật đã bị huỷ diệt, nguồn nước, bầu không khí, cũng bị ô nhiễm nặng mà hậu quả của nó còn để lại sau chiến tranh đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đối với sản xuất và đời sống. Môi trường nước ta trong điều kiện cơ chế hoá tập trung: Qua tổng kết đánh giá thì thực trạng ô nhiễm môi trường trong thời kỳ thực hiện cơ chế hoá tập trung ít nghiêm trọng hơn thời kỳ sau này, mặc khác vấn đề môi trường lại ít được quan tâm, tại sao vậy? phải chăng phát triển kinh tế xã hội của đất nước theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung sẽ bảo vệ được môi trường hơn là theo hướng kinh tế thị trường? Có những biểu hiện như nhận xét trên là do trong điều kiện kinh tế kế hoạch hoá tập trung, kinh tế quốc doanh là thành phần kinh tế nắm Đề tài luận văn: Thực trạng pháp luật về xử lý cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường. GVHD: Ths.Kim OanhNa SVTH: Hứa văn Hiệp Trang 7 vững mọi lĩnh vực hoạt động khai thác sản xuất và lưu thông hàng hoá trên thị trường cũng bởi vì thế bên cạnh việc khai thác một cách lén lút tài nguyên phục vụ nhu cầu nhỏ trước mắc của nhân dân thì mọi sự khai thác đều lên kế hoạch và đặc dưới sự quản lý của nhà nước chỉ có thành phần kinh tế quốc doanh mới được khai thác, sơ chế và tiêu thụ tài nguyên. Không có thành phần kinh tế khác, không có sự tự do trong sản xuất như trong kinh tế thị trường nên việc khai thác rỗ, đánh, bắt động vật quý hiếm không xảy ra bừa bãi và thường xuyên như hiện nay. Thời kỳ phát triển kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, dân số nước ta còn ít so với bây giờ, đời sống còn hết sức khó khăn, các cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chưa nhiều và sản xuất c
Tài liệu liên quan