Để tiến hành bất kỳ một quá trình sản xuất kinh doanh nào cũng cần phải có vốn. Vốn là điều kiện tiên quyết, có ý nghĩa quyết định tới sự thành bại của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ sử dụng vốn này để mua sắm các yếu tố của quá trình sản xuất kinh doanh như sức lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động. Do sự tác động của lao động vào đối tượng lao động thông qua tư liệu lao động mà hàng hoá dịch vụ được tạo ra và tiêu thụ trên thị trường. Cuối cùng, các hình thái vật chất khác nhau đó được chuyển hoá về hình thái tiền tệ ban đầu. Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra liên tục và phải đạt được mục đích kinh doanh là lợi nhuận. Như vậy số tiền ứng ra ban dầu không chỉ được bảo tồn mà nó phải tăng lên trong thời gian hoạt động của Công ty.
Từ những phân tích trên có thể rút ra: “Vốn kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ giá trị tài sản được huy động, sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục đích sinh lời” ( giáo trình tài chính doanh nghiệp_HVTC, 2007 ). Vốn kinh doanh của doanh nghiệp có trước khi diễn ra hoạt động sản xuất kinh doanh. Vốn kinh doanh phải đạt tới mục tiêu sinh lời và luôn thay đổi hình thái biểu hiện vừa tồn tại dưới dạng tiền vừa dưới dạng tài sản, nhưng kết thúc vòng tuần hoàn phải là hình thái tiền tệ.
Để quản lý và phân biệt vốn kinh doanh với các loại vốn khác ta cần tìm hiểu về đặc điểm của vốn kinh doanh. Vốn kinh doanh có một số đặc điểm như sau :
Thứ nhất: Vốn phải được thể hiện bằng một lượng tài sản có giá trị thực được sử dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh để tạo ra một lượng giá trị sản phẩm khác.
Thứ hai: Vốn phải vận động sinh lời, tạo ra giá trị mới lớn hơn gía trị ban đầu.
Thứ ba: Vốn phải được tích tụ tập trung đến một lượng nhất định mới có thể đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Thứ tư: Vốn luôn có giá trị thực về mặt thời gian. Trong nền kinh tế thị trường dưới ảnh hưởng của giá cả, lạm phát, cơ hội, rủi ro làm cho giá trị đồng tiền ở mỗi thời điểm khác nhau có sức mua khác nhau.
Thứ năm: Vốn được quan niệm như một thứ hàng hóa đặc biệt. Nó đặc biệt ở chỗ khi sử dụng sẽ tạo ra một giá trị lớn hơn gía trị trước và khi tiến hành mua bán trên thị trường người ta có thể mua quyền sử dụng vốn trong một khoảng thời gian đã thỏa thuận trước.
Thứ sáu: Vốn luôn gắn với một chủ sở hữu nhất định, tuyệt đối không có dạng vốn vô chủ, có như vậy mới quản lý có hiệu qủa và sinh lời.
Thứ bảy: Trong quá trình sản xuất kinh doanh cùng có một lúc vốn có thể tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau có thề là hình thái tiền tệ, vật chất hoặc vô hình như: bí quyết công nghệ, bản quyền truyền hình, lợi thế thương mại,
78 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1298 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và các giải pháp chủ yếu nhằm năng cao hiệu quả tổ chức sử dụng vốn kinh doanh tại công ty cp xnk tổng hợp i Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ch¬ng I:
Lý luËn chung vÒ vèn kinh doanh vµ sù cÇn thiÕt ph¶i n©ng cao hiÖu qu¶ sö dông vèn kinh doanh.
1.1 Vốn kinh doanh và nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
1.1.1 Vốn và vốn kinh doanh
Để tiến hành bất kỳ một quá trình sản xuất kinh doanh nào cũng cần phải có vốn. Vốn là điều kiện tiên quyết, có ý nghĩa quyết định tới sự thành bại của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ sử dụng vốn này để mua sắm các yếu tố của quá trình sản xuất kinh doanh như sức lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động. Do sự tác động của lao động vào đối tượng lao động thông qua tư liệu lao động mà hàng hoá dịch vụ được tạo ra và tiêu thụ trên thị trường. Cuối cùng, các hình thái vật chất khác nhau đó được chuyển hoá về hình thái tiền tệ ban đầu. Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra liên tục và phải đạt được mục đích kinh doanh là lợi nhuận. Như vậy số tiền ứng ra ban dầu không chỉ được bảo tồn mà nó phải tăng lên trong thời gian hoạt động của Công ty.
Từ những phân tích trên có thể rút ra: “Vốn kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ giá trị tài sản được huy động, sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục đích sinh lời” ( giáo trình tài chính doanh nghiệp_HVTC, 2007 ). Vốn kinh doanh của doanh nghiệp có trước khi diễn ra hoạt động sản xuất kinh doanh. Vốn kinh doanh phải đạt tới mục tiêu sinh lời và luôn thay đổi hình thái biểu hiện vừa tồn tại dưới dạng tiền vừa dưới dạng tài sản, nhưng kết thúc vòng tuần hoàn phải là hình thái tiền tệ.
Để quản lý và phân biệt vốn kinh doanh với các loại vốn khác ta cần tìm hiểu về đặc điểm của vốn kinh doanh. Vốn kinh doanh có một số đặc điểm như sau :
Thứ nhất: Vốn phải được thể hiện bằng một lượng tài sản có giá trị thực được sử dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh để tạo ra một lượng giá trị sản phẩm khác.
Thứ hai: Vốn phải vận động sinh lời, tạo ra giá trị mới lớn hơn gía trị ban đầu.
Thứ ba: Vốn phải được tích tụ tập trung đến một lượng nhất định mới có thể đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Thứ tư: Vốn luôn có giá trị thực về mặt thời gian. Trong nền kinh tế thị trường dưới ảnh hưởng của giá cả, lạm phát, cơ hội, rủi ro làm cho giá trị đồng tiền ở mỗi thời điểm khác nhau có sức mua khác nhau.
Thứ năm: Vốn được quan niệm như một thứ hàng hóa đặc biệt. Nó đặc biệt ở chỗ khi sử dụng sẽ tạo ra một giá trị lớn hơn gía trị trước và khi tiến hành mua bán trên thị trường người ta có thể mua quyền sử dụng vốn trong một khoảng thời gian đã thỏa thuận trước.
Thứ sáu: Vốn luôn gắn với một chủ sở hữu nhất định, tuyệt đối không có dạng vốn vô chủ, có như vậy mới quản lý có hiệu qủa và sinh lời.
Thứ bảy: Trong quá trình sản xuất kinh doanh cùng có một lúc vốn có thể tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau có thề là hình thái tiền tệ, vật chất hoặc vô hình như: bí quyết công nghệ, bản quyền truyền hình, lợi thế thương mại,…
Ngoài ra vốn kinh doanh còn thể hiện vai trò quan trọng của mình:
Từ những phân tích ở trên, chúng ta có thể thấy vốn kinh doanh đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong doanh nghiệp. Vốn kinh doanh là tiền đề vật chất không thể thiếu cho sự hoạt động của bất kỳ doanh nghiệp nào.
Muốn có được giấy phép kinh doanh để đi vào hoạt động thì ngay từ khi thành lập doanh nghiệp phải có một lượng vốn nhất định. Lượng vốn này doanh nghiệp dùng để tạo lập cơ sở vật chất ban đầu cho mình. Tiếp theo đó, khi bắt đầu hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp cũng cần một lượng vốn nhất định để xâm nhập và có thế đứng trên thị trường. Sau khi đứng vững trên thị trường, doanh nghiệp phải tìm cách mở rộng thị trường, mở rộng qui mô sản xuất nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Muốn làm được những điều này thì doanh nghiệp cũng cần phải có một lượng vốn nhất định để xây dựng thêm cơ sở vật chất kỹ thuật, mua nguyên vật liệu và cũng cần một lượng vốn lưu động cần thiết để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh không bị gián đoạn cũng như đáp ứng những thương vụ làm ăn của doanh nghiệp.
Hơn thế nữa, khi nền kinh tế ngày càng phát triển, ngày càng có nhiều các cơ hội kinh doanh và đầu tư vào những lĩnh vực mới, để chuyển hướng kinh doanh vào những lĩnh vực thu được nhiều lợi nhuận. Như vậy có thể nói vốn là nguồn tài chính cần thiết để thực hiện các phương án sản xuất kinh doanh.
Do vốn đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động của doanh nghiệp như vậy nên bằng mọi cách doanh nghiệp phải có các biện pháp bảo toàn và phát triển vốn, có các biện pháp quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp. Có như vậy doanh nghiệp mới ngày càng lớn mạnh, có uy tín và vị thế trên thương trường từ đó sẽ có nhiều các cơ hội làm ăn và phát triển.
Như vậy vốn kinh doanh không chỉ là điều kiện tiên quyết đối với sự ra đời của doanh nghiệp mà nó còn là một trong những yếu tố giữ vai trò quyết định trong quá trình hoạt động và phát triển của doanh nghiệp.
1.1.2 Phân loại vốn kinh doanh
Trong điều kiện hiện nay, vốn kinh doanh của các doanh nghiệp có thể được phân thành nhiều loại tuỳ theo các tiêu thức khác nhau. Tuỳ theo yêu cầu quản lý trong doanh nghiệp mà mỗi doanh nghiệp lựa chọn cho mình một tiêu thức thích hợp để phân loại vốn kinh doanh cho hợp lý nhằm đem lại hiệu quả quản lý sử dụng cao nhất
+ Phân loại vốn kinh doanh căn cứ vào đặc điểm chu chuyển vốn. Vốn kinh doanh của doanh nghiệp có thể được chia làm: vốn cố định và vốn lưu động. Ta sẽ đi tìm hiểu cụ thể từng loại vốn:
Vốn cố định của doanh nghiệp (VCĐ)
Vốn cố định của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp. Nhìn chung vốn cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh và nó được luân chuyển dần từng phần, phải sau một thời gian dài mới hình thành một vòng luân chuyển.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, sự vận động của vốn cố định gắn liền với hình thái biểu hiện vật chất của nó là tài sản cố định. Vì thế qui mô của vốn sẽ quyết định qui mô của tài sản cố định. Song đặc điểm của tài sản cố định lại quyết định đến đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển giá trị của vốn cố định tạo nên đặc điểm vận động của vốn cố định:
- Vốn cố định tham gia nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm và chuyển dần từng phần vào giá thành sản phẩm tương ứng với phần hao mòn của tài sản cố định.
- Vốn cố định được thu hồi dần từng phần tương ứng với phần hao mòn của tài sản cố đinh, đến khi tài sản cố định hết thời hạn sử dụng thì giá trị của nó được thu hồi đủ và vốn cố định mới hoàn thành một vòng luân chuyển.
Thông thường vốn cố định là một bộ phận quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc điểm luân chuyển lại theo tính quy luật riêng vì vậy việc quản lý sử dụng vốn cố định có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tài sản cố định được phân chia thành nhiều loại theo các tiêu thức khác nhau. Căn cứ hình thái biểu hiện và công dụng kinh tế thì tài sản cố định được chia thành tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình. Căn cứ theo mục đích sử dụng thì tài sản cố định của doanh nghiệp bao gồm: tài sản cố định dùng cho mục đích kinh doanh và tài sản cố định dùng cho mục đích phúc lợi, sự nghiệp, an ninh quốc phòng. Căn cứ theo tình hình sử dụng tài sản cố định, có thể chia tài sản cố định của doanh nghiệp thành các loại: tài sản cố định đang dùng, tài sản cố định chưa cần dùng, tài sản cố định không cần dùng và chờ thanh lý.
Vốn lưu động của doanh nghiệp (VLĐ)
“Vốn lưu động của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền toàn bộ tài sản lưu động của doanh nghiệp phục vụ cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp” ( giáo trình lý thuyết tài chính-HVTC,2003). Trong quá trình hoạt động sản xuất, khác với vốn cố định, lưu động luân thay đổi hình thái biểu hiện. Vì vậy giá trị của nó cũng được dịch chuyển một lần vào giá trị sản phẩm sản xuất ra và được thu hồi ngay sau khi tiêu thụ sản phẩm. Thông thường, nó hoàn thành một vòng tuần hoàn khi kết thúc một chu kỳ sản phẩm. Trong doanh nghiệp thương mại, do hoạt động trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá, có thể nói sự vận động của vốn lưu động trải qua hai giai đoạn theo trình tự : T-H-T’
Ở giai đoạn thứ nhất, để đảm bảo quá trình lưu chuyển hàng hoá, doanh nghiệp phải ứng trước một số tiền nhất định để mua vật tư, hàng hoá từ nhiều nguồn khác nhau về dự trữ. Vốn lưu động ở giai đoạn này chuyển từ hình thái tiền tệ sang hình thái hiện vật (T-H)
Sang giai đoạn sau, khi doanh nghiệp đưa hàng hoá dự trữ đi tiêu thụ và thu tiền về và vòng tuần hoàn của vốn được kết thúc, vốn lưu động chuyển từ hình thái hiện vật sang hình thái tiền tệ (H-T’)
Vốn lưu động sẽ được chia thành nhiều loại khác nhau tuỳ theo tiêu thức phân loại. Căn cứ vào sự vận động của vốn lưu động thì vốn lưu động được chia thành vốn lưu động trong khâu dự trữ, vốn lưu động trong khâu sản xuất và vốn lưu động trong khâu lưu thông.
Căn cứ theo nội dung kinh tế, vốn lưu động bao gồm: vốn hàng hoá, vốn bằng tiền, vốn công cụ lao động nhỏ, vốn bao bì, vật liệu đóng gói, vốn thuộc các khoản phải thu, vốn đầu tư tài chính ngắn hạn và các khoản thế chấp ký quỹ...
1.1.3 Nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
Để tiến hành sản xuất kinh doanh doanh nghiệp cần có vốn: vốn đầu tư ban đầu và vốn bổ sung để mở rộng sản xuất kinh doanh. Vốn kinh doanh của mỗi doanh nghiệp được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, mỗi nguồn hình thành có đặc điểm riêng. Để quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn kinh doanh thì cần phải nghiên cứu các nguồn vốn để có định hướng huy động hợp lý.
1.1.3.1 Căn cứ vào quan hệ sở hữu VKD của doanh nghiệp.
Theo cách phân lọai này VKD của doanh nghiệp được huy động từ hai nguồn:
+ Nguồn vốn chủ sở hữu (NVCSH): Là nguồn vốn thuộc quyền sở hữu của chủ doanh nghiệp, doanh nghiệp có đầy đủ các quyền chiếm hữu, sử dụng, chi phối và định đoạt. Tùy theo loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau mà VCSH có nội dung cụ thể như: Vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước; vốn do doanh nghiệp tư nhân tự bỏ ra; vốn góp cổ phần trong các công ty cổ phần; vốn góp thành viên trong doanh nghiệp liên doanh…Khi thành lập doanh nghiệp vốn chủ sở hữu hình thành vốn điều lệ. Khi doanh nghiệp hoạt động kinh doanh thì ngoài phần vốn điều lệ còn có một số nguồn vốn khác cũng thuộc vốn chủ sở hữu như: lợi nhuận không chia, quỹ đầu tư phát triển… và vốn do Nhà nước đầu tư (nếu có).
+ Nợ phải trả (NPT): là khoản nợ phát sinh trong quá trình kinh doanh, doanh nghiệp có trách nhiệm thanh toán cho các tác nhân kinh tế như các khoản vay (vay ngắn hạn, vay dài hạn), các khoản phải trả người bán, phải trả công nhân viên, phải nộp ngân sách và một số khoản phải trả, phải nộp khác.
1.1.3.2 Căn cứ vào phạm vi huy động vốn.
Theo tiêu thức này VLĐ của doanh nghiệp cũng có thể được huy động từ hai nguồn: nguồn vốn bên trong và nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp.
+ Nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp: là nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể huy động từ bản thân các họat động của doanh nghiệp bao gồm: tiền khấu hao tài sản cố định, lợi nhuận để lại, các khoản dự trữ dự phòng…
+ Nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp: là nguồn vốn có thể huy động được từ bên ngoài doanh nghiệp để đáp ứng các nhu cầu về vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình như: vay vốn ngân hàng, vốn của các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước, góp vốn kinh doanh, phát hành chứng khoán...
1.1.3.3 Căn cứ vào thời gian huy động vốn.
Theo tiêu thức này nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp được chia thành hai loại là nguồn vốn thường xuyên và nguồn vốn tạm thời.
+ Nguồn vốn thường xuyên: là nguồn vốn có tính chất ổn định mà doanh nghiệp có thể sử dụng dài hạn vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Nguồn vốn này thường được sử dụng để mua sắm tài sản cố định và một bộ phận của tài sản cố định thường xuyên cần thiếy cho hoạt động kinh doanh cua doanh nghiệp. Có thể xác định nguồn vốn thường xuyên theo công thức:
Nguồn vốn thường xuyên = Vốn chủ sở hữu + Nợ dài hạn
= Giá trị tổng tài sản của DN – Nợ ngắn hạn.
Nguồn vốn lưu động thường xuyên của doanh nghiệp mang tính ổn định, là một phần quan trọng trong khoản chi tiêu ban đầu cần thiết đối với một dự án đầu tư. Vì nó cần thiết để chi trả cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Nguồn vốn tạm thời: là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn (dưới 1năm) mà doanh nghiệp có thể sử dụng để đáp ứng nhu cầu tạm thời về vốn phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh. Nguồn vốn này bao gồm: các khoản vay ngắn hạn ngân hàng và các tổ chức tín dụng, các khoản vốn chiếm dụng được từ các nhà cung cấp,…
Nguồn vốn tạm thời = Tổng TSLĐ – Nguồn VLĐ thường xuyên.
1.2 Sự cần thiết nâng cao hiệu quả sử dụng VKD của doanh nghiệp.
1.2.1 Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh.
Hiệu quả theo nghĩa chung nhất được hiểu là một chỉ tiêu chất lượng phản ánh các lợi ích kinh tế xã hội do một hoạt động nào đó đem lại. Hiệu quả được đánh giá trên hai mặt là hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Tuỳ theo mục đích của hoạt động mà cho ta hiệu quả kinh tế hay hiệu quả xã hội là tốt nhất. (Ở đây chúng ta chỉ xem xét đến hiệu quả về kinh tế).
Hiệu quả kinh tế là chỉ tiêu chất lượng quan trọng phản ánh mối quan hệ giữa kết quả đạt được về mặt kinh tế với chi phí bỏ ra để đạt được hiệu quả đó.
Hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội có mối quan hệ biện chứng với nhau vì thế để đánh giá được đầy đủ về hiệu quả người ta không chỉ đánh giá một loại hiệu quả đơn thuần mà phải đặt trong mối quan hệ với hiệu quả còn lại.
Như vậy, đối với doanh nghiệp thương mại việc nâng cao hiệu quả là một vấn đề cần thiết và luôn đòi hỏi chủ doanh nghiệp phải đưa ra các biện pháp sao cho hoạt động sản xuất kinh doanh mang lại hiệu quả cao nhất.
Sau khi nghiên cứu về hiệu quả nói chung, ta đi nghiên cứu về một bộ phận của hiệu quả kinh tế đó là hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Hiệu quả kinh tế cuối cùng thể hiện ở mức doanh lợi đạt được. Điều này phụ thuộc vào việc tạo lập và sử dụng vốn một cách hợp lý, tiết kiệm, góp phần tăng vòng quay của vốn từ đó làm tăng doanh thu. Vì vậy, hiện nay khi doanh nghiệp được tự chủ về vốn thì vấn đề sử dụng vốn luôn được quan tâm, việc đánh giá hiệu quả sử dụng vốn sẽ thấy được chất lượng quản lý sản xuất kinh doanh, vạch ra được các biện pháp nhằm tiết kiệm và nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn. Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh lợi ích đạt được từ quá trình sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Nói cách khác nó là chỉ số phản ánh quan hệ giữa kết quả đạt được với số vốn kinh doanh bỏ ra trong kỳ.
KQ HV=
Vbq
Trong đó: HV là hệ số hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
KQ là kết quả thu được (doanh thu, doanh thu thuần, lợi nhuận, khối lượng sản phẩm...)
Vbq là vốn kinh doanh bình quân trong kỳ
Từ công thức ta thấy hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tỷ lệ với kết qủa thu được và tỷ lệ nghịch với vốn kinh doanh bỏ ra. Như vậy, muốn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh thì kết quả đạt được phải lớn và phải trên cơ sở sử dụng tiết kiệm vốn kinh doanh.
1.2.2 Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng Vốn kinh doanh trong doanh nghiệp.
Vốn là điều kiện tiên quyết cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Vấn đề mà doanh nghiệp quan tâm là khả năng sinh lời và phát triển của đồng vốn vì điều này liên quan trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Cụ thể việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn xuất phát từ những lý do sau đây :
+ Xuất phát từ mục đích kinh doanh của doanh nghiệp.
Với bất kỳ doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào đều hướng tới mục tiêu lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của các hoạt động sản xuất kinh doanh, là khoản chênh lệch giữa thu nhập và chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để có được khoản thu nhập đó từ các hoạt động của doanh nghiệp.
Lợi nhuận là chỉ tiêu chất lượng đánh giá hiệu quả kinh tế các hoạt động của doanh nghiệp. Là nhà quản lý giỏi phải biết làm sao cho đồng vốn phải đạt mức sinh lời cao nhất, sử dụng lãng phí vốn sẽ không làm tăng đựơc lợi nhuận hay tình trạng thiếu vốn kinh doanh sẽ làm giảm lợi nhuận do quá trình sản xuất bị gián đoạn. Hiệu quả của vốn đầu tư mang lại thể hiện mối quan hệ giữa kết quả mang lại do thực hiện đầu tư và cho phí bỏ ra để thực hiện hoạt động đó. Đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả vốn đầu tư là lợi nhuận do đầu tư mang lại. Lợi nhuận là yếu tố đảm bảo vững chắc khả năng tài chính của doanh nghiệp.
+ Xuất phát từ vị trí, vai trò của vổn trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn là phạm trù kinh tế quan trọng trong doanh nghiệp. Vốn được sử dụng cho qua trình sản xuất kinh doanh nhưng doanh nghiệp sẽ không thể tồn tại nếu quá trình kinh doanh thua lỗ kéo dài. Vì vậy vai trò của VKD là phải khai thác tốt nhất mọi tiềm năng và lợi thế của doanh nghiệp.
+ Xuất phát từ ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả sử dụng VKD:
Nâng cao hiệu quả sử dụnh VKD sẽ giúp doanh nghiệp tăng nhanh được vòng quay của vốn, một đồng vốn bỏ ra nhưng chỉ trong một thời gian ngắn có thể đem lại những kết quả cao, thông qua đó doanh thu được tăng cao. Đây là cơ sở làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nghĩa là nguồn vốn được sử dụng tiết kiệm thông qua việc tiết kiệm các chi phí. Bởi vì mỗi doanh nghiệp thường huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau. Nếu biết kết hợp hài hòa tỷ lệ vốn dài hạn và vốn ngắn hạn thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp sử dụng vốn được thuận lợi, chủ động hơn và tiết kiệm được chi phí lãi vay, nhờ đó giúp doanh nghiệp tiết kiệm các chi phí góp phần tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
+ Xuất phát từ sự tác động của cơ chế:
Mỗi doanh nghiệp là một tế bào của nền kinh tế quốc dân, một đơn vị kinh tế độc lập. Do vậy nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ngày càng trở nên cần thiết và cấp bách đối với doanh nghiệp.
Như vậy từ các lý do trên có thể nói rằng việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp là rất cần thiết. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh, tăng thị phần, tăng lợi nhuận giúp cho doanh nghiệp ngày càng phát triển.
1.2.3 Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh.
Mục đích tối cao của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường là lợi nhuận, muốn vậy các doanh nghiệp phải khai thác triệt để mọi nhuồn lực sẵn có tức là việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là yêu cầu bắt buộc đối với doanh nghiệp. Để đạt được điều đó, các doanh nghiệp cần có một hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn bảo dảm phản ánh và đánh giá được hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Các chỉ tiêu phản ánh và đánh giá được hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp phải đảm bảo tính hệ thống và toàn diện. Các chỉ tiêu đánh giá phải có sự liên hệ so sánh được với nhau, phải có phương pháp tính cụ thể thống nhất. Từ đó, có thể xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh trong doanh nghiệp như sau:
1.2.3.1 Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
Có rất nhiều chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh, sau đây ta lần lượt nghiên cứu từng chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh.
+ Vòng quay toàn bộ vốn: Hệ số này được xác định trên cơ sở so sánh tương đối giữa doanh thu thuần đạt được trong kỳ với tổng số vốn kinh doanh bình quân trong kỳ:
Doanh thu thuần (DTT)
Vòng quay toàn bộ vốn =
Vốn kinh doanh bình quân trong kỳ
Trong đó vốn kinh doanh bình quân trong kỳ được tính theo công thức đơn giản sau:
vốn kinh doanh đầu kỳ + vốn kinh doanh cuối kỳ
Vốn kinh doanh =
bình quân trong kỳ 2
1/2V1+V2+...+Vn-1+1/2Vn
Vốn kinh doanh =
bình quân trong kỳ n-1
Trong đó V1,V2....Vn vốn kinh doanh tại các thời điểm đầu tháng hoặc đầu quý trong kỳ phân tích.
Hệ số vòng quay vốn kinh doanh phản ánh cứ mỗi đồng vốn kinh doanh sử dụng trong kỳ thì tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu hay phải ánh trong kỳ vốn kinh doanh quay được bao nhiêu vòng. Qua chỉ tiêu này có thể đánh giá được khả năng sử dụng tài sản của doanh nghiệp, thể hiện qua doanh thu thuần được sinh ra từ tài sản mà doanh nghiệp đã đầu tư.
+ Tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh: Hệ số này được xác định bằng tỷ số giữa lợi nhuận trong kỳ với vốn kinh doanh bình quân trong kỳ.
Lợi nhuận sau thuế (LNST)
Tỷ suất lợi nhuận vốn =
kinh doanh vốn kinh doanh bình quân trong kỳ
Tỷ su