NHTM là một tổ chức tín dụng kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ,tín dụng với hoạt động thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Mục tiêu hoạt động của NHTM khác hẳn mục tiêu của NHTƯ là kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ để tìm kiếm và tối đa hóa lợi nhuận trong phạm vi khuôn khổ pháp luật, đây là mục tiêu cơ bản xuyên suốt quá trình hoạt động của NHTM.
NHTM có hoạt động gần gũi nhất với mỗi người dân và với nền kinh tế. Nền kinh tế càng phát triển, hoạt động và dịch vụ của NHTM càng đi vào tận cùng ngõ ngách của nền kinh tế và đời sống con người, mọi công dân đều chịu tác động của ngân hàng, dù họ là khách hàng gửi tiền, người đi vay, hay đơn giản là người đang làm việc cho một doanh nghiệp có vốn và sử dụng các dịch vụ ngân hàng.
Ở nước ta, tổ chức tín dụng đầu tiên là Nhà tín dụng, được thành lập năm 1951. Đây là tiền thân của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Từ đó đến nay hệ thống các NHTM đã không ngừng phát triển về loại hình và nghiệp vụ góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế đất nước. Hiện nay Việt Nam có nhiều loại hình NHTM với các hình thức sở hữu, tính chất pháp lý khác nhau (NHTM Quốc doanh hay còn gọi là NHTM nhà nước; NHTM cổ phần; chi nhánh ngân hàng nước ngoài; ngân hàng liên doanh giữa Việt Nam với nước ngoài) và tồn tại với các tên gọi khá phong phú như: NHTM, NH Kỹ Thương. Trong đó, hệ thống NHTM Quốc doanh gồm: NH Công Thương Việt Nam, NH Ngoại thương Việt Nam, NH Đầu tư và phát triển Việt Nam, NH Nông Nghiệp và phát triển Nông thôn, NH Phát triển nhà Đồng Bằng sông Cửu Long và NH chính sách xã hội. NHTM Quốc doanh được tổ chức theo một hệ thống thống nhất từ trung ương đến địa phương. Dưới các NHTM QD là các sở giao dịch, dưới sở giao dịch là các chi nhánh và tiếp theo là phòng giao dịch. Ngoài mạng lưới trong nước và các ngân hàng này còn mở văn phòng đại diện ở nước ngoài, thiết lập quan hệ đại lý với nhiều ngân hàng trên khắp các châu lục .
Ngày nay hoạt động của NHTM rất đa dạng không chỉ là cho vay và làm trung gian thanh toán nó còn mở rộng ra các lĩnh vực kinh doanh mới : Tư vấn đầu tư chứng khoán, bảo lãnh và đại lý,quản lý danh mục đầu tư. Đặc biệt trong Thương mại Quốc tế NHTM còn có khả năng thanh toán, NHTM cung cấp các phương tiện thanh toán cho nền kinh tế, tiết kiệm chi phí cho các chủ thể tham gia thanh toán và nâng cao khả năng tín dụng. Việc mở tài khoản, cung cấp và quản lý các phương tiện thanh toán làm cho NHTM trở thành một trung tâm thanh toán cho nền kinh tế. Thay cho việc thanh toán trực tiếp các doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức có thể nhờ NHTM thực hiện những việc này trên cơ sở những phương tiện thanh toán khác nhau, với kỹ thuật ngày càng tiên tiến và thủ tục ngày một đơn giản. Những dịch vụ thanh toán của NHTM ngày càng được ưa chuộng vì nó đem lại sự thuận tiện, mau chóng, an toàn tiết kiệm chi phí hơn cho những chủ thể trong nền kinh tế.
100 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1239 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp hoàn thiện, phát triển hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn đông Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THANH TOÁN QUỐC TẾ THEO PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ
I. HOẠT ĐỘNG TTQT CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ VAI TRÒ CỦA TTQT
KHÁI QUÁT VỀ NHTM
NHTM là một tổ chức tín dụng kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ,tín dụng với hoạt động thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Mục tiêu hoạt động của NHTM khác hẳn mục tiêu của NHTƯ là kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ để tìm kiếm và tối đa hóa lợi nhuận trong phạm vi khuôn khổ pháp luật, đây là mục tiêu cơ bản xuyên suốt quá trình hoạt động của NHTM.
NHTM có hoạt động gần gũi nhất với mỗi người dân và với nền kinh tế. Nền kinh tế càng phát triển, hoạt động và dịch vụ của NHTM càng đi vào tận cùng ngõ ngách của nền kinh tế và đời sống con người, mọi công dân đều chịu tác động của ngân hàng, dù họ là khách hàng gửi tiền, người đi vay, hay đơn giản là người đang làm việc cho một doanh nghiệp có vốn và sử dụng các dịch vụ ngân hàng.
Ở nước ta, tổ chức tín dụng đầu tiên là Nhà tín dụng, được thành lập năm 1951. Đây là tiền thân của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Từ đó đến nay hệ thống các NHTM đã không ngừng phát triển về loại hình và nghiệp vụ góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế đất nước. Hiện nay Việt Nam có nhiều loại hình NHTM với các hình thức sở hữu, tính chất pháp lý khác nhau (NHTM Quốc doanh hay còn gọi là NHTM nhà nước; NHTM cổ phần; chi nhánh ngân hàng nước ngoài; ngân hàng liên doanh giữa Việt Nam với nước ngoài) và tồn tại với các tên gọi khá phong phú như: NHTM, NH Kỹ Thương... Trong đó, hệ thống NHTM Quốc doanh gồm: NH Công Thương Việt Nam, NH Ngoại thương Việt Nam, NH Đầu tư và phát triển Việt Nam, NH Nông Nghiệp và phát triển Nông thôn, NH Phát triển nhà Đồng Bằng sông Cửu Long và NH chính sách xã hội. NHTM Quốc doanh được tổ chức theo một hệ thống thống nhất từ trung ương đến địa phương. Dưới các NHTM QD là các sở giao dịch, dưới sở giao dịch là các chi nhánh và tiếp theo là phòng giao dịch. Ngoài mạng lưới trong nước và các ngân hàng này còn mở văn phòng đại diện ở nước ngoài, thiết lập quan hệ đại lý với nhiều ngân hàng trên khắp các châu lục .
Ngày nay hoạt động của NHTM rất đa dạng không chỉ là cho vay và làm trung gian thanh toán nó còn mở rộng ra các lĩnh vực kinh doanh mới : Tư vấn đầu tư chứng khoán, bảo lãnh và đại lý,quản lý danh mục đầu tư... Đặc biệt trong Thương mại Quốc tế NHTM còn có khả năng thanh toán, NHTM cung cấp các phương tiện thanh toán cho nền kinh tế, tiết kiệm chi phí cho các chủ thể tham gia thanh toán và nâng cao khả năng tín dụng. Việc mở tài khoản, cung cấp và quản lý các phương tiện thanh toán làm cho NHTM trở thành một trung tâm thanh toán cho nền kinh tế. Thay cho việc thanh toán trực tiếp các doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức có thể nhờ NHTM thực hiện những việc này trên cơ sở những phương tiện thanh toán khác nhau, với kỹ thuật ngày càng tiên tiến và thủ tục ngày một đơn giản. Những dịch vụ thanh toán của NHTM ngày càng được ưa chuộng vì nó đem lại sự thuận tiện, mau chóng, an toàn tiết kiệm chi phí hơn cho những chủ thể trong nền kinh tế.
1.2. KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG TTQT CỦA NHTM.
1.2.1. TTQT và sự hình thành phát triển của hoạt động TTQTtại NHTM.
TTQT là việc thanh toán giữa các nước với nhau về những khoản tiền nợ lẫn nhau phát sinh từ các quan hệ giao dịch về kinh tế, chính trị, văn hóa... Chủ thể trong TTQT có thể là pháp nhân hoặc chính phủ của các nước.
TTQT là chức năng ngân hàng quốc tế của NHTM nó được hình thành trên cơ sở phát triển ngoại thương của một nước và NHTM được nhà nước giao cho độc quyền làm công tác thanh toán này. Do vậy, giao dịch thanh toán trong ngoại thương đều phải thông qua ngân hàng. Đây là nghiệp vụ đòi hỏi trình độ chuyên môn ứng dụng công nghệ ngân hàng tạo sự hòa nhập hệ thống ngân hàng Việt Nam và hệ thống NHTM thế giới tạo sự an toàn và hiệu quả đối với NHTM và các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
TTQT đã hình thành từ rất lâu cùng với quá trình hình thành và phát triển hoạt động xuất nhâp khẩu quốc tế. Hình thức thanh toán xuất nhập khẩu sơ đẳng nhất là hàng đổi hàng. Sự xuất hiện của tiền tệ làm cho việc mua bán trao đổi được diễn ra thuận tiện hơn. Nhưng các quốc gia khác nhau lại sử dụng các đồng tiền khác nhau, chính vì vậy mà ngân hàng xuất hiện làm trung gian chuyển hóa loại tiền này sang loại tiền khác, đại diện cho bên mua thanh toán cho bên bán.
Khi kỹ thuật nghiệp vụ và mạng lưới hoạt động phát triển hơn, ngân hàng có thể đại diên cho bên bán yêu cầu bên mua trả tiền trị giá món hàng đã mua. Đến đây vai trò của ngân hàng còn giới hạn ở mức làm dịch vụ giúp hai đối tác và không can thiệp vào quyết định mua bán thanh toán của họ, hai bên mua bán vẫn phải hiểu rõ và tín nhiệm lẫn nhau.
Ngoại thương phát triển tạo ra khả năng để các đối tác dù chưa hiểu nhau vẫn có thể mua bán với nhau để tạo thị trường và tăng lợi nhuận. Bằng các nghiệp vụ của mình ngân hàng trở thành gạch nối giữa hai bên mua và bán cách xa nhau về mặt địa lý, hàng rào ngôn ngữ, phong tục tập quán, chưa hiểu rõ nhau có thể làm ăn song phẳng với nhau. Ngân hàng cung cấp thêm dịch vụ mới : dịch vụ cho mượn uy tín, giúp các đối tác kinh doanh xuất nhập khẩu thanh toán mau chóng, thuận lợi và an toàn.
1.2.2. Vai trò của thanh toán Quốc tế
Tất cả các quan hệ trao đổi mua bán hàng hóa, dịch vụ và các hoạt động khác trong nền kinh tế đều được kết thúc bằng khâu thanh toán. Thanh toán quốc tế không chỉ đem lại lợi ích cho những bên tham gia mua bán hàng hóa dịch vụ , nó còn đem lại lợi nhuận cho các ngân hàng cũng như đem lại lợi ích cho toàn bộ nền kinh tế.
vai trò của TTQT đối với doanh nghiệp XNK
Thông qua thương mại quốc tế và thanh toán quốc tế, nhu cầu của cả nhà
Xuất khẩu và Nhập khẩu đều có điều kiện được đáp ứng. Nhà xuất khẩu bán được hàng, mở rộng được hoạt động kinh doanh, đưa sản phẩm của mình ra phạm vị khu vực và thế giới, tăng doanh thu và lợi nhuận...Nhà nhập khẩu thì lại nhập được hàng hóa mà mình hay thị trường đang cần. Chính vì vậy, tổ chức tốt khâu thanh tóan trong thương mại quốc tế không chỉ có tác dụng phục vụ, thúc đẩy mà còn góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, và là điều kiện đảm bảo cho tình hình tài chính được đảm bảo ổn định và vững chắc.
Phần lớn các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân đều không thể tự thực hiện TTQT do có khó khăn về mặt địa lý, phong tục tập quán và rất nhiều khó khăn khác nữa dẫn đến nhu cầu thanh toán hộ được thực hiện bởi các ngân hàng. Ngân hàng với sức mạnh về năng lực, uy tín của mình có thể giúp các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu hạn chế được rủi ro trong thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt. Ngoài ra, cũng nhờ thanh toán qua ngân hàng mà các nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu có thể tận dụng được các hình thức tín dụng hoặc tài trợ xuất nhập khẩu đi kèm hoạt động thanh toán để hỗ trợ về tài chính cho hoạt động buôn bán, kinh doanh đó của mình.
vai trò của TTQT đối với NHTM
- Khi thực hiện chức năng trung gian thanh toán ngân hàng sẽ có khả năng tăng doanh thu và lợi nhuận thu từ phí các dịch vụ phát sinh nhu:
+ Những khoản thu được do kinh doanh ngoại vì buôn bán với nước ngoài đòi hỏi phải có ngoại tệ và ngân hàng chính là người đảm nhân vai trò cung cấp ngoại tệ cho các bên tham gia buôn bán.
+ Những khoản lợi nhuận thu từ phí dịch vụ thanh toán quốc tế, lãi thu được từ tài trợ thương mại mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng. Cũng qua đó tạo điều kiện cho các dịch vụ bảo lãnh thanh toán, tài trợ tín dụng xuất nhập khẩu, kinh doanh ngoại tệ... của ngân hàng ngày càng phát triển.
+ TTQT làm tăng tính thanh khoản cho ngân hàng. Bởi lẽ muốn thanh toán qua ngân hàng khách hàng phải mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng(ký quỹ) tỉ lệ với giá trị mà ngân hàng bảo lãnh sẽ thanh toán. Trên cơ sở đó giúp ngân hàng huy động số dư tài khoản tiền gửi của ngân hàng để cho vay, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh.
- Kinh doanh ngân hàng là lĩnh vực kinh doanh nhiều rủi ro nhất(rủi ro tín dụng, rủi ro lãi xuất, rủi ro ngoại hối, rủi ro thanh khoản...)TTQT giúp ngân hàng phân tán rủi ro thông qua việc kinh doanh trong nhiều lĩnh vực. Lợi nhuận thu được từ hoạt động TTQT sẽ hỗ trợ khi thị trường biến động giúp ngân hàng phát triển ổn dịnh bền vững. Hơn nữa thông qua TTQT , ngân hàng có thể giám sát được tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, có thông tin chính xác về tình hình tài chính của các doanh nghiệp này.
- Hoạt đông TTQT giúp cho quy mô hoạt động của NH vượt ra khỏi phạm vi quốc gia làm tăng cường quan hệ đối ngoại. NH thực hiện TTQT sẽ có được quan hệ đại lý với ngân hàng và các đối tác nước ngoài. Mối quan hệ này dựa trên cơ sở hợp tác và tương trợ. Với thời gian hoạt động nghiệp vụ càng lâu, mối quan hệ ngày càng mở rộng giúp khai thác được các nguồn tài trợ của ngân hàng nước ngoài, nguồn vốn trên thị trương tài chính quốc tế.
1.3. CÁC PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN QUỐC TẾ CHỦ YẾU ĐƯỢC ÁP DỤNG TRONG TMQT
Phương thức TTQT là toàn bộ quá trình, cách thức nhận trả tiền hàng trong giao dịch mua bán ngoại thương giữa người nhập khẩu và người xuất khẩu. Trong quan hệ ngoại thương, có rất nhiều phương thức thanh toán khác nhau như: chuyển tiền, ghi sổ, nhờ thu, tín dụng chứng từ ... Mỗi phương thức đều có ưu nhược điểm, thể hiện thành mâu thuẫn quyền lợi giữa người nhập khẩu và người xuất khẩu.Vì vậy, việc chọn phương thức thanh toán thích hợp phải được 2 bên bàn bạc thống nhất, ghi vào hợp đồng mua bán ngoại thương.
1.3.1. Phương thức chuyển tiền.
a. Khái niệm:
Đây là phương thức thanh toán đơn giản nhất, trong đó một khách hàng (người trả tiền, người mua, người nhập khẩu, người mắc nợ...) ủy nhiệm cho ngân hàng phục vụ mình trích từ tài khoản của mình một số tiền nhất định chuyển cho người khác ( người bán, người xuất khẩu, chủ nợ...) ở một địa điểm nhất định và trong một thời gian nhất định.
Thanh toán chuyển tiền là thanh toán trực tiếp giữa người chuyển tiền và người nhận. Ngân hàng khi thực hiện việc chuyển tiền và trả tiền, chỉ đóng vai trò trung gian thanh toán theo ủy nhiệm để được hưởng hoa hồng, và không bị ràng buộc gì cả đối với người mua lẫn người bán.
Việc chuyển tiền xem như hoàn tất khi thanh toán hết số tiền cho người thụ hưởng; trước thời điểm này, số tiền trong tài khoản vẫn thuộc quyền sở hữu của người chuyển tiền và người này có quyền hủy bỏ lệnh chuyển tiền, mà người thụ hưởng không thể khiếu nại gì với ngân hàng. Như vậy, việc trả tiền phụ thuộc vào thiện chí của người mua, quyền lợi của người xuất khẩu không đảm bảo.
Trong quan hệ mua bán, thanh toán quốc tế, phương thức chuyển tiền chỉ được chọn làm phương tiện thanh toán đối với các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu, cung ứng dịch vụ có quan hệ thân thiết, tin cậy lẫn nhau, vì khâu thanh toán này dễ nảy sinh việc chiếm dụng vốn của người bán, nếu bên mua cố tình dây dưa, kéo dài việc ra lệnh thanh toán, trong khi phương thức chuyển tiền, đặc biệt là chuyển tiền bằng điện, là phương thức thanh toán nhanh nhất hiện nay.
Có hai hình thức chuyển tiền: chuyển tiền bằng thư (mail transfer, M/T) và chuyển tiền bằng điện báo (telegraphic transfer T/T ). Hình thức chuyển tiền bằng điện có lợi cho người xuất khẩu vì nhận tiền nhanh, không có lợi cho người nhập khẩu vì chi phí cao.
b. quá trình tiến hành nghiệp vụ
Trong phương thức thanh toán này, có các bên liên quan:
- Người phát hành lệnh chuyển tiền (người mua, người nhập khẩu ...)
- Ngân hàng nhận thực hiện việc chuyển tiền (ngân hàng nơi đơn vị chuyển tiền mở tài khoản tiền gửi ngoại tệ...)
-Ngân hàng trả chuyển tiền (ngân hàng đại lý của ngân hàng chuyển tiền)
- Người nhận chuyển tiền (người bán, tổ chức xuất khẩu ...)
Quy trình thanh toán theo phương thức chuyển tiền
Bước 1: Sau khi thỏa thuận đi đến ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương, tổ chức xuất khẩu thực hiện việc cung ứng hàng hóa, dịch vụ cho tổ chức nhập khẩu, đồng thời chuyển giao toàn bộ chứng từ( vận đơn, hóa đơn, chứng từ về hàng hóa...) cho tổ chức nhập khẩu.
Bước 2: Tổ chức nhập khẩu sau khi kiểm tra chứng từ, hóa đơn, viết lệnh chuyển tiền gửi đến ngân hàng phục vụ mình, trong đó phải ghi rõ ràng và đầy đủ những nội dung theo quy định.
Bước 3: Sau khi kiểm tra, nếu hợp lệ và đủ khả năng thanh toán, ngân hàng sẽ trích tài khoản của đơn vị để chuyển tiền, gủi giấy báo nợ, giấy báo đã thanh toán cho đơn vị nhập khẩu.
Bước 4: Ngân hàng chuyển tiền ra lệnh( bằng thư hay điện báo) cho ngân hàng đại lý mình ở nước ngoài để chuyển trả cho người nhận tiền.
Bước 5: Ngân hàng đại lý chuyển tiền cho người được hưởng( trực tiếp hoặc gián tiếp qua ngân hàng khác) và gửi giấy báo Có cho đơn vị.
- Ưu điểm: Đây là phương thức thanh toán đơn giản, dễ thực hiện nhất trong các phương thức TTQT. Hơn nữa, thủ tục phí thấp nên làm giảm thiểu chi phí trong giao dịch, mà vẫn an toàn vì tiền được chuyển thông qua hệ thống tài khoản liên ngân hàng.
- Nhược điểm: Phương thức này tạo ra quyền chủ động trong nghĩa vụ phải trả tiền của người chuyển tiền nên việc trả tiền sẽ phụ thuộc vào thiện chí, sự chủ động và khả năng của người chuyển tiền. Ngân hàng chỉ là trung gian thực hiện theo ủy nhiệm để hưởng hoa hồng chứ không bị ràng buộc gì cả. Do vậy, trong phương thức này rủi ro không nhận được tiền của người hưởng lợi là rất cao
- Trường hợp áp dụng: phương thức này thường được áp dụng trong lĩnh vực chuyển vốn hoặc cấp kinh phí ra nước ngoài, chuyển kiều hối, hay áp dụng trong thanh toán phi mậu dịch hoặc thanh toán các chi phí có liên quan đến XNK hàng hóa.Tuy nhiên, nếu được thực hiện để thanh toán tiền hàng thì chỉ sử dụng trong trường hợp 2 bên mua bán tin cậy, tín nhiệm lẫn nhau.
Phương thức ghi sổ:
Khái niệm:
Phương thức ghi sổ là phương thức thanh toán mà qua đó tổ chức xuất khẩu khi xuất khẩu hàng hóa, cung ứng dịch vụ, thì ghi nợ cho bên nhập khẩu (bên cung ứng), vào một cuốn sổ riêng của mình, và việc thanh toán các khoản nợ này được thực hiện trong tưng thời kỳ nhất định.
Khi thực hiện phương thức này, tổ chức xuất khẩu đã thực hiện một tín dụng cho tổ chức nhập khẩu dưới dạng tín dụng thương mại.
Bước 1,2 : Người Nhập khẩu tiến hành cung cấp hàng hóa, dịch vụ và gửi chứng từ hàng hóa cho người nhập khẩu, đồng thời báo Nợ trực tiếp cho người nhập khẩu .
Bước 3: Người nhập khẩu dùng phương thức chuyển tiền để trả cho người bán khi đến kỳ hạn thanh toán.
Quy trình tiến hành nghiệp vụ thanh toán theo phương thức ghi sổ
-Ưu nhược điểm: Đây là phương thức đơn giản và vì không có sự tham gia của các ngân hàng với tư cách là người mở tài khoản hoặc thực chi thanh toán trong từng chuyến hàng nên sẽ tiết kiêm được chi phí thanh toán. Tuy nhiên, giá trong phương thức ghi sổ này cao hơn giá hàng bán trả tiền ngay do có trênh lệch là tiền lãi phát sinh của số tiền ghi sổ trong khoảng thời gian bằng định kỳ thanh toán theo mức lãi suất được người mua chấp nhận.
Ngoài ra, đây là phương thức rủi ro nhất. Phương thức này có nhược điểm là không đảm bảo cho nhà xuất khẩu kịp thời thu tiền và cũng dễ gặp rủi ro trong thanh toán nếu không có quan hệ tin cậy với nhà nhập khẩu. Phương thức này chỉ có lợi cho người mua.
-Trường hợp áp dụng:Phương pháp này thường được áp dụng thanh toán những khoản chi phí mậu dịch hoặc theo phương thức mua bán hàng đổi hàng nhiều lần, thường xuyên( ghi sổ để khấu trừ ngay trên sổ ), giữa công ty mẹ và chi nhánh, đại lý, công ty con ở các nước, thường diễn ra trong thời kỳ kế hoạch hóa tập trung và trong trường hợp hai bên mua bán thực sự tin cậy nhau.
Phương thức nhờ thu.
Khái niệm:
Phương thức thanh toán nhờ thu là phương thức thanh toán, mà qua đó tổ chức xuất khẩu sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ gởi hàng, giao chứng từ hàng hóa ủy thác cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ số tiền trên cơ sở hối phiếu do mình lập ra ở người nhập khẩu thông qua ngân hàng phục vụ người nhập khẩu. Người nhập khẩu khi nhận được giấy báo nhờ thu của ngân hàng, phải tiến hành ngay việc chi trả tiền để nhận lại chứng từ hàng hóa và đi lãnh hàng.
Trong mối quan hệ này, ngân hàng ở cả hai bên nước nhà nhập khẩu lẫn nhà xuất khẩu, chỉ tham gia với tư các là người trung gian đi thu tiền hộ, có nhận giữ các chứng từ có liên quan đến hàng hóa đã gửi đi, nhưng không bị ràng buộc trách nhiệm, phải kiểm tra các chứng từ gửi nhờ thu, cũng như việc giấy nhờ thu có được nhà nhập khẩu chấp nhận và thanh toán hay không. Phương thức thanh toán này hoàn toàn dựa vào sự tín nhiệm lẫn nhau giữa nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu, nó đảm bảo hơn hai hình thức thanh toán bằng séc và chuyển tiền ở chỗ, nhà xuất khẩu yêu cầu ngân hàng bên mua không giao chứng từ đi lãnh hàng cho nhà nhập khẩu, khi người này chưa thanh toán tiền. Tuy nhiên tốc độ thanh toán vẫn chậm, rủi ro cho bên xuất khẩu lớn, trường hợp nhà nhập khẩu không chịu thanh toán, từ chối nhận hàng vì lý do giá mua sản phẩm đang xuống thấp mà người bán không chấp nhận giảm giá, và nhất là vì lô hàng nhập về không còn phù hợp thị hiếu người tiêu dùng.
Quá trình tiến hành nghiệp vụ:
Trong phương thức thanh toán nhờ thu, có các bên liên quan như sau:
Tổ chức xuất khẩu, người cung ứng dịch vụ, người ký phát hối phiếu tức là người ra lệnh.
Ngân hàng nhờ thu là ngân hàng nhận sự ủy thác thu tiền, ngân hàng bên xuất khẩu.
Ngân hàng nhận nhiệm vụ thu tiền: thông thường là ngân hàng đại lý của ngân hàng bên xuất khẩu tại nước nhập khẩu.
Tổ chức nhập khẩu là người quyết định thanh toán, là người mà hối phiếu, chứng từ sẽ gửi đến cho họ.
Căn cứ vào nội dung chứng từ thanh toán gửi đến ngân hàng nhờ thu, người ta chia phương thức thanh toán này thành hai loại:
Nhờ thu phiếu trơn( Clean collection):Người xuất khẩu giao hàng và bộ chứng từ cho người nhập khẩu, sau đó lập hối phiếu ủy quyền cho ngân hàng phục vụ mình nhờ thu tiền từ người nhập khẩu.
Nhờ thu kèm chứng từ( Documentary collection): Người xuất khẩu chỉ giao hàng cho người nhập khẩu, sau đó lập hối phiếu cùng bộ chứng từ giao hàng ủy quyền cho ngân hàng phục vụ mình nhờ thu.
Ngoài ra, tùy theo thời hạn thanh toán còn có nhờ thu chứng từ đổi lấy sự chấp nhận(D/A: Documents against Acceptance): Theo phương thức này, người nhập khẩu khi nhận được hối phiếu có kỳ hạn do người xuất khẩu lập chỉ cần chấp nhận thanh toán trên hối phiếu là có thể nhận được bộ chứng từ nhận hàng, việc thanh toán xảy ra sau một kỳ hạn ghi trên hối phiếu. Nhờ thu chứng từ đổi lấy sự thanh toán (D/P: Documents against Payment) thì khó khăn hơn: Người nhập khẩu phải thanh toán tiền hàng tại ngân hàng nhờ thu, ngân hàng mới giao chứng từ nhận hàng.
Quy trình
Bước 1: Người xuất khẩu sau khi ký hợp đồng, trong đó qui định phương thức thanh toán là Nhờ thu, sẽ tiến hành giao hàng cùng bộ chứng từ giao hàng cho người nhập khẩu.
Bước 2: Người xuất khẩu sau đó chuyển hối phiếu ( nếu là nhờ thu trơn) hoặc bộ chứng từ kèm hối phiếu (nếu là nhờ thu kèm chứng từ) cho ngân hàng phục vụ mình ủy thác để nhờ thu.
Bước 3: Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu chuyển hối phiếu (hoặc hối phiếu kèm chứng từ) cho ngân hàng phục vụ người nhập khẩu để nhờ thu.
Bước 4: Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu chuyển hối phiếu (hoặc hối phiếu kèm chứng từ) cho người nhập khẩu để đổi lấy tiền hoặc đổi lấy sự chấp nhận của ngân hàng mình.
Bước 5: Người nhập khẩu chuyển trả tiền hoặc trả lại hối phiếu đã chấp nhận cho ngân hàng của mình.
Bước 6: Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu chuyển tiền hoặc hối phiếu đã chấp nhận cho ngân hàng phục vụ người xuất khẩu.
Bước 7: Ngân hàng phục vụ người xuất khẩu báo Có hoặc trả lại hối phiếu cho người xuất khẩu.
(Trong trường hợp nhờ thu đổi lấy sự chấp nhận, khi đến hạn thanh toán người nhập khẩu tiến hành các bước (5)(6)(7) lần nữa để tiến hành thanh toán)
Quy trình thanh toán theo phương thức nhờ thu
Ưu nhược điểm :
- Nhờ thu phiếu trơn: Thích hợp khi hai bên mua bán tin cậy lẫn nhau hoặc áp dụng trong thanh toán một số dịch vụ liên quan đến xuất khẩu hàng hóa không cần chứng từ. Tuy vậy, nó có nhược điểm là chưa ràng buộc trách nhiệm trả tiền của người nhập khẩu dẫn đến rủi ro không nhận được tiền hàng của người xuất khẩu hoặc bị kéo dài thời hạn thanh toán,điều này không đảm bảo quyền lợi cho người bán. nhưng đối với người mua phương thức này cũng mang lại nhiều bấ