Trong những năm qua, tình hình kinh tế xã hội đất nước có nhiều chuyển biến tích cực, đời sống xã hội được cải thiện. Tiếp theo việc ký hiệp thương mại Việt - Mỹ là sự kiện Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO. Trước mắt các doanh nghiệp Việt Nam, những thời cơ và thách thức mới đã mở ra đòi hỏi phải có sự nỗ lực rất lớn trên thị trường cả trong nước và ngoài nước. Cùng trào lưu này, các Ngân hàng thương mại Việt Nam trong đó có BIDV nói chung và Chi nhánh Bắc Hà Nội nói riêng cũng đứng trước những thời cơ và thách thức mới.
Vai trò của tín dụng nói chung và tín dụng trung dài hạn đầu tư phát triển nói riêng đối với một quốc gia rất quan trọng, đặc biệt đối với quốc gia đang phát triển như Việt nam bởi nó là bước đầu tiên đặt nền móng cho việc tái thiết cơ sở vật chất phục vụ phát triển kinh tế. Cùng với các kênh dẫn vốn cho nền kinh tế nước ta trên thị trường vốn hiện nay như: thị trường chứng khoán, đầu tư nước ngoài thì không thể thiếu kênh dẫn vốn từ tín dụng của các Ngân hàng thương mại. Phát triển tín dụng Ngân hàng không những mang lại lợi ích cho quốc kế dân sinh mà còn mang lại lợi ích thiết thực cho các Ngân hàng trong giai đoạn hiện nay.(Bởi vì hoạt động tín dụng Ngân hàng là hoạt động sinh lời chủ yếu).
Về mặt lý luận, một quốc gia đang phát triển thì việc tái thiết cơ sở hạ tầng, cơ sở sản xuất vật chất thông qua nguồn vốn tín dụng trung dài hạn là rất cần thiết và đặc biệt quan trọng đối với các công trình trọng điểm, có tầm cỡ Chính phủ như các công trình Thủy điện, cầu cống, đường sá, khu đô thị mới v.v., từ đó mở ra con đường ngắn nhất để đáp ứng yêu cầu thực hiện các mục tiêu phát triển tiếp theo của nền kinh tế. Chính vì vậy, nguồn tín dụng trung dài hạn đầu tư phát triển là một động lực không thể thiếu cho việc thay đổi diện mạo một khu đô thị, một thành phố hay một quốc gia.
Về mặt thực tế tác nghiệp, đối với các Ngân hàng thương mại ở Việt nam nói chung, đặc biệt là trong hệ thống Ngân hàng Đầu tư Phát triển Việt nam mà trọng tâm là Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà nội nói riêng, hoạt động tín dụng còn gặp nhiều khó khăn, nhiều vấn đề còn tồn tại xoay quanh vấn đề chất lượng tín dụng trung dài hạn. Do vậy việc nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn đang là một vấn đề được mọi người trong và ngoài ngành quan tâm và đang là đề tài của nhiều cuộc trao đổi, thảo luận tại các hội thảo, diễn đàn nghiên cứu.
Về mặt thực tiễn nghiên cứu, trên cơ sở tìm hiểu các tài liệu có liên quan, tác giả nhận thấy vấn đề này cũng được nhiều tác giả khác quan tâm nghiên cứu, song chỉ nghiên cứu trên bình diện lý luận chung hoặc đi vào phạm vi nghiên cứu tại các Ngân hàng thương mại cổ phần vừa và nhỏ như Ngân hàng TMCP Quân đội, Ngân hàng Cổ phần Sài gòn Thương tín Một số tác giả khác nghiên cứu với bối cảnh cụ thể là các Ngân hàng thương mại Quốc doanh khác song do tính chất các Ngân hàng khác nhau về tính đặc thù, chuyên biệt hóa, nên không thể lấy kết quả nghiên cứu của họ áp dụng một cách dập khuôn vào mô hình của hệ thống Ngân hàng Đầu tư Phát triển Việt nam, trong có BIDV Bắc Hà nội. Do đó, chưa có bài viết nào chuyên sâu, đặc thù về tín dụng trung dài hạn đầu tư phát triển cho hệ thống BIDV nói chung và BIDV Bắc Hà nội nói riêng.
Qua quá trình nghiên cứu tại trường Đại học Quốc Gia Hà Nội và trong quá trình làm việc tại hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), với đặc thù là một Ngân hàng quốc doanh lớn, đầu ngành và giữ vai trò chủ lực của nền kinh tế quốc dân trong vấn đề cho vay tín dụng trung dài hạn phục vụ đầu tư phát triển kinh tế đất nước, tác giả đã đặt ra mục tiêu nghiên cứu chuyên sâu và cụ thể hơn với đề tài:
“ Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà Nội”
114 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1216 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu:
Trong những năm qua, tình hình kinh tế xã hội đất nước có nhiều chuyển biến tích cực, đời sống xã hội được cải thiện. Tiếp theo việc ký hiệp thương mại Việt - Mỹ là sự kiện Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO. Trước mắt các doanh nghiệp Việt Nam, những thời cơ và thách thức mới đã mở ra đòi hỏi phải có sự nỗ lực rất lớn trên thị trường cả trong nước và ngoài nước. Cùng trào lưu này, các Ngân hàng thương mại Việt Nam trong đó có BIDV nói chung và Chi nhánh Bắc Hà Nội nói riêng cũng đứng trước những thời cơ và thách thức mới.
Vai trò của tín dụng nói chung và tín dụng trung dài hạn đầu tư phát triển nói riêng đối với một quốc gia rất quan trọng, đặc biệt đối với quốc gia đang phát triển như Việt nam bởi nó là bước đầu tiên đặt nền móng cho việc tái thiết cơ sở vật chất phục vụ phát triển kinh tế. Cùng với các kênh dẫn vốn cho nền kinh tế nước ta trên thị trường vốn hiện nay như: thị trường chứng khoán, đầu tư nước ngoài… thì không thể thiếu kênh dẫn vốn từ tín dụng của các Ngân hàng thương mại. Phát triển tín dụng Ngân hàng không những mang lại lợi ích cho quốc kế dân sinh mà còn mang lại lợi ích thiết thực cho các Ngân hàng trong giai đoạn hiện nay.(Bởi vì hoạt động tín dụng Ngân hàng là hoạt động sinh lời chủ yếu).
Về mặt lý luận, một quốc gia đang phát triển thì việc tái thiết cơ sở hạ tầng, cơ sở sản xuất vật chất thông qua nguồn vốn tín dụng trung dài hạn là rất cần thiết và đặc biệt quan trọng đối với các công trình trọng điểm, có tầm cỡ Chính phủ như các công trình Thủy điện, cầu cống, đường sá, khu đô thị mới v.v..., từ đó mở ra con đường ngắn nhất để đáp ứng yêu cầu thực hiện các mục tiêu phát triển tiếp theo của nền kinh tế. Chính vì vậy, nguồn tín dụng trung dài hạn đầu tư phát triển là một động lực không thể thiếu cho việc thay đổi diện mạo một khu đô thị, một thành phố hay một quốc gia.
Về mặt thực tế tác nghiệp, đối với các Ngân hàng thương mại ở Việt nam nói chung, đặc biệt là trong hệ thống Ngân hàng Đầu tư Phát triển Việt nam mà trọng tâm là Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà nội nói riêng, hoạt động tín dụng còn gặp nhiều khó khăn, nhiều vấn đề còn tồn tại xoay quanh vấn đề chất lượng tín dụng trung dài hạn. Do vậy việc nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn đang là một vấn đề được mọi người trong và ngoài ngành quan tâm và đang là đề tài của nhiều cuộc trao đổi, thảo luận tại các hội thảo, diễn đàn nghiên cứu.
Về mặt thực tiễn nghiên cứu, trên cơ sở tìm hiểu các tài liệu có liên quan, tác giả nhận thấy vấn đề này cũng được nhiều tác giả khác quan tâm nghiên cứu, song chỉ nghiên cứu trên bình diện lý luận chung hoặc đi vào phạm vi nghiên cứu tại các Ngân hàng thương mại cổ phần vừa và nhỏ như Ngân hàng TMCP Quân đội, Ngân hàng Cổ phần Sài gòn Thương tín…Một số tác giả khác nghiên cứu với bối cảnh cụ thể là các Ngân hàng thương mại Quốc doanh khác song do tính chất các Ngân hàng khác nhau về tính đặc thù, chuyên biệt hóa, nên không thể lấy kết quả nghiên cứu của họ áp dụng một cách dập khuôn vào mô hình của hệ thống Ngân hàng Đầu tư Phát triển Việt nam, trong có BIDV Bắc Hà nội. Do đó, chưa có bài viết nào chuyên sâu, đặc thù về tín dụng trung dài hạn đầu tư phát triển cho hệ thống BIDV nói chung và BIDV Bắc Hà nội nói riêng.
Qua quá trình nghiên cứu tại trường Đại học Quốc Gia Hà Nội và trong quá trình làm việc tại hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), với đặc thù là một Ngân hàng quốc doanh lớn, đầu ngành và giữ vai trò chủ lực của nền kinh tế quốc dân trong vấn đề cho vay tín dụng trung dài hạn phục vụ đầu tư phát triển kinh tế đất nước, tác giả đã đặt ra mục tiêu nghiên cứu chuyên sâu và cụ thể hơn với đề tài:
“ Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà Nội”
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Phân tích thực trạng và đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà nội.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
Để thực hiện được mục đích trên, Luận văn cần phải thực hiện các nhiệm vụ sau đây:
- Làm rõ cơ sở lý luận về nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn hỗ trợ đầu tư phát triển.
- Phân tích chất lượng tín dụng trung dài hạn của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà nội trong thời gian qua.
- Chỉ ra những ưu điểm, tồn tại trong việc nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn hỗ trợ đầu tư phát triển của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà nội.
- Phân tích các nguyên nhân của các tồn tại và đưa ra hệ thống các giải pháp khắc phục nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà nội.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu : là chất lượng tín dụng trung dài hạn của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà nội.
Phạm vi nghiên cứu : là hoạt động tín dụng trung dài hạn của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà nội từ năm 2003 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn này sử dụng phương pháp chủ yếu là phương pháp định tính và phương pháp phân tích định lượng. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng phương pháp thống kê, phân tích- tổng hợp, dự báo để luận giải các vấn đề khoa học được đề cập trong nội dung đề tài.
5. Kết cấu của Luận văn Thạc sỹ Quản trị Kinh doanh
Ngoài các phần như lời nói đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 3 chương sau:
Chương I: Tín dụng Ngân hàng và chất lượng tín dụng trung dài hạn trong nền kinh tế thị trường
Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng trung dài hạn tại Chi nhánh Ngân hàng ĐT&PT Bắc Hà Nội
Chương III: Giải pháp và kiến nghị nâng cao chất lượng tín dụng tại BIDV Bắc Hà Nội
CHƯƠNG 1
TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG DÀI HẠN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1. Tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Tín dụng là một khái niệm đã tồn tại từ lâu đời trong đời sống xã hội loài người. Theo tiếng Latin, tín dụng – phiên âm của từ “creditim”, nghĩa là sự tín nhiệm. Điều này có nghĩa là trong quan hệ tín dụng người cho vay tin tưởng rằng người đi vay sẽ hoàn trả vào một ngày nào đó trong tương lai như hai bên đã thoả thuận. Như vậy, một cách đơn giản nhất, tín dụng là quan hệ vay mượn trên nguyên tắc hoàn trả cả vốn lẫn lãi giữa người đi vay và người cho vay. Người cho vay tin tưởng vào người vay sẽ sử dụng vốn có hiệu quả và hoàn trả đúng thời hạn cả vốn lẫn lãi.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ giữa một bên là ngân hàng, một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với một bên là các tổ chức, cá nhân trong xã hội, trong đó ngân hàng đóng vai trò vừa là người đi vay vừa là người cho vay.
Với tư cách là người đi vay, ngân hàng huy động mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội bằng các hình thức: nhận tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu để huy động vốn trong xã hội.
Với tư cách là người cho vay, ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn cho các đơn vị, tổ chức, cá nhân khi có nhu cầu thiếu vốn cần được bổ sung trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Với vai trò này, tín dụng ngân hàng đã thực hiện chức năng phân phối lại vốn tiền tệ để đáp ứng yêu cầu tái sản xuất xã hội - cơ sở khách quan để hình thành chức năng phân phối lại vốn tiền tệ cuả tín dụng ngân hàng là do đặc điểm tuần hoàn vốn trong quá trình tái sản xuất xã hội đã thường xuyên xuất hiện hiện tượng tạm thời thừa vốn ở các tổ chức cá nhân này, trong khi các tổ chức cá nhân khác lại có nhu cầu thiếu vốn. Hiện tượng thừa thiếu vốn phát sinh do có sự chênh lệch về thời gian, số lượng giữa các khoản thu nhập và chi tiêu ở tất cả các tổ chức cá nhân trong quá trình tái sản xuất đòi hỏi phải được tiến hành liên tục. Tín dụng thương mại đã không giải quyết được vấn đề này, chỉ có ngân hàng là tổ chức chuyên kinh doanh tiền tệ mới có khả năng giải quyết mâu thuẫn đó khi ngân hàng giữ vai trò vừa là người đi vay vừa là người cho vay.
Có ba loại quan hệ chủ yếu trong quan hệ tín dụng ngân hàng, bao gồm:
Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với doanh nghiệp.
Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với dân cư.
+ Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với các ngân hàng khác trong và ngoài nước.
Ngày nay, tín dụng ngân hàng đã và đang là nhân tố thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, điều tiết và di chuyển vốn, tăng thêm tính hiệu quả của vốn tiền tệ trong nền kinh tế thị trường.
1.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
1.2.1. Vai trò của tín dụng đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng
Hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của một Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường. Hoạt động tín dụng mang lại lợi nhuận nhiều nhất cho một ngân hàng thương mại.
Trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng thương mại đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội, là trung gian chuyển vốn từ người thừa vốn sang người thiếu vốn để đầu tư. Ngay từ buổi ban đầu, hoạt động của ngân hàng thượng mại đã tập trung chủ yếu vào nghiệp vụ nhận tiền gửi và cho vay để đáp ứng nhu cầu thiếu hụt nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế trong quá trình sản xuất kinh doanh hoặc nhu càu tiêu dùng cá nhân. Trong quá trình phát triển, mặc dù môi trường kinh doanh có nhiều thay đổi, nhiều phương pháp, công cụ kinh doanh mới xuất hiện nhưng hoạt động tín dụng vẫn luôn là hoạt động cơ bản, chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ các hoạt động của ngân hàng thương mại. Hoạt động cho vay thường chiếm trên 70% tổng tài sản có và tỷ trọng huy động tiền gửi thường chiếm trên 60% tổng tài sản nợ của các ngân hàng thương mại. Lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng thường chiếm tỷ lệ cao, ở các nước phát triển khoảng 60% trên tổng lợi nhuận của ngân hàng. ở nước ta trong giai đoạn hiện nay chiếm khoảng 90% lợi nhuận. Điều này thể hiện rõ hoạt độngtín dụng là hoạt động đi vay để cho vay và là hoạt động kinh doanh chủ yếu của các ngân hàng thương mại.
Cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng ngày càng được phát triển một cách đa dạng với sự tham gia của nhiều chủ thể kinh tế, theo đó quan hệ tín dụng cũng được mở rộng cả về đối tượng và quy mô làm cho hoạt động tín dụng ngân hàng càng đa dạng và phức tạp hơn. Để ngân hàng thương mại có thể đứng vững trong điều kiện cạnh tranh thị trường gay gắt và phục vụ nền kinh tế ngày càng tốt hơn, đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải đa dạng hoá hoạt động kinh doanh của mình và nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng.
1.2.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
Thứ nhất, tín dụng ngân hàng huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi chưa sử dụng trong tất cả các thành phần kinh tế để cho các doanh nghiệp, cá nhân vay, góp phần mở rộng sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Sự có mặt của tín dụng ngân hàng được coi như là một công cụ để giải quyết mâu thuẫn giữa người thừa vốn và người thiếu vốn. Lợi tức đi vay và cho vay của ngân hàng luôn là công cụ điều chỉnh các quan hệ cung cầu vốn tín dụng. Nhờ có ngân hàng mà vốn tiền tệ được vận động một cách liên tục, điều đó vừa làm tăng khả năng tích luỹ tư bản (bao gồm cả lợi nhuận) của các ngân hàng, vừa thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế nhờ vào nguồn thu từ việc cấp tín dụng của ngân hàng.
Thứ hai, tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển với các ngành kinh tế mũi nhọn. Tín dụng ngân hàng góp phần thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp-nông nghiệp - dịch vụ. Ngân hàng cung cấp cho các ngành thực hiện đầu tư theo cả chiều rộng và chiều sâu, hình thành các ngành sản xuất mũi nhọn, xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và khai thác triệt để các nguồn lực, điều này thể hiện qua việc cấp tín dụng cho các dự án có hiệu quả, chương trình phát triển để khuyến khích đẩy nhanh tốc độ dịch chuyển cơ cấu kinh tế.
Thứ ba, tín dụng ngân hàng tác động có hiệu quả tới sản xuất, thúc đẩy cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ, doanh nghiệp cần vốn đầu tư máy móc thiết bị và luôn phải đổi mới công nghệ... tín dụng ngân hàng đáp ứng được yêu cầu đó với điều kiện phải hoàn trả cả vốn vay và lãi; nếu vi phạm hợp đồng tín dụng, doanh nghiệp phải chịu phạt như chịu lãi suất nợ quá hạn cao, mất quyền sử dụng, sở hữu tài sản thế chấp...Do vậy, doanh nghiệp luôn phải nâng cao hiệu quả sản xuất, cạnh tranh trên thị trường để kinh doanh có lãi, thu hồi vốn đầu tư trả nợ cho ngân hàng.
Thứ tư, tín dụng ngân hàng góp phần tích cực vào sự phát triển các công ty cổ phần. Để thành lập công ty cổ phần đòi hỏi phải có một số vốn ban đầu do các cổ đông đóng góp và ngân hàng có thể là một cổ đông lớn. Và trong quá trình hoạt động, việc phát hành việc phát hành cổ phần mới thông qua ngân hàng là một biện pháp hữu hiệu.
Thứ năm, tín dụng ngân hàng tạo điều kiện cho việc phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại. Trong điều kiện hiện nay, các nước đều thực hiện nền kinh tế mở, nên nhu cầu giao lưu kinh tế với các nước khác là rất cần thiết. Tín dụng ngân hàng là một phương tiện nối liền kinh tế các nước với nhau thông qua hoạt động đầu tư vốn xuyên quốc gia. Mặt khác, muốn kinh doanh xuất nhập khẩu thì phải có vốn và vốn tín dụng ngân hàng sẽ đáp ứng nhu cầu này kịp thời.
Như vậy, tín dụng ngân hàng có một vai trò rất lớn, không chỉ đối với ngân hàng mà còn đối với nền kinh tế và xã hội. Xã hội càng phát triển thì tín dụng ngân hàng càng trở nên cần thiết.
1.3. Các hình thức tín dụng ngân hàng
Ngân hàng cấp tín dụng dưới nhiều hình thức khác nhau, và luôn tìm ra các hình thức tín dụng mới phù hợp và đáp ứng nhu cầu của quá trình tái sản xuất, từ đó đa dạng hoá danh mục đầu tư để mở rộng tín dụng, thu hút thêm nhiều khách hàng, tăng lợi nhuận và thực hiện phân tán rủi ro. Căn cứ theo các tiêu chí phân loại khác nhau thì tín dụng ngân hàng có các hình thức khác nhau, cụ thể như sau:
Căn cứ vào mục đích sử dụng có các hình thức tín dụng sau:
Cho vay bất động sản: là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng bất động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
Cho vay công nghiệp và thương mại: là loai cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
Cho vay nông nghiệp: là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động, nhiên liệu...
Cho vay tiêu dùng cá nhân: là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như mua sắm các vật dụng đắt tiền. Ngày nay ngân hàng còn thực hiện cho vay để trang trải chi phí thông thường của đời sống thông qua phát hành thẻ tín dụng.
Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng có các hình thức tín dụng sau:
+ Cho vay không bảo đảm: là loại cho vay không có tài sản thế chấp cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của khách hàng.
+ Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay phải có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba.
Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng có các hình thức tín dụng sau:
- Cho vay bằng tiền: là loại cho vay mà hình thái giá trị của tín dụng được cung cấp bằng tiền như tín dụng ứng trước, thấu chi, tín dụng thời vụ, tín dụng trả góp...
- Cho vay bằng tài sản: phổ biến là tài trợ thuê mua.
Căn cứ vào xuất xứ tín dụng có các hình thức tín dụng sau:
- Cho vay trực tiếp: ngân hàng trực tiếp cấp vốn cho khách hàng và khách hàng trực tiếp trả gốc và lãi cho ngân hàng.
- Cho vay gián tiếp: là khoản cho vay được thực hiên thông qua việc mua lại các khế ước hoặc các chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán. Bao gồm các hình thức :
Chiết khấu thương mại
Mua các phiếu bán hàng tiêu dùng và máy móc trả góp
Mua các khoản nợ của doanh nghiệp
Tín dụng chấp nhận
+ Tín dụng chứng từ
Căn cứ vào thời hạn cho vay có các hình thức tín dụng sau:
- Cho vay ngắn hạn: loại này có thời hạn dưới 12 tháng và được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.
- Cho vay trung và dài hạn:
Theo quy định của NHNN Việt Nam tín dụng trung và dài hạn là các khoản vay có kỳ hạn trên một năm, từ 1 đến 3 năm coi là tín dụng trung hạn và từ 3 năm trở lên được coi là tín dụng dài hạn.
Tín dụng trung và dài hạn là nhằm thoả mãn các nhu cầu về mua sắm máy móc thiết bị khoa học công nghệ, xây dựng cơ sở vật chất của một doanh nghiệp. Trong một nền kinh tế, nhu cầu tín dụng trung và dài hạn thường xuyên phát sinh do các doanh nghiệp luôn tìm cách phát triển mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ, đổi mới các phương tiện vận chuyển, kỹ thuật tin học. ..
Đặc điểm của tín dụng trung và dài hạn là thời hạn cho vay dài nên tính rủi ro càng cao, do đó lãi suất cho vay trung và dài hạn thường là phải cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn. Hơn nữa chính vì mục đích cho vay khác nhau nên tín dụng ngắn hạn có thể xem như một bộ phận đảm bảo khả năng thanh khoản của ngân hàng, còn tín dụng trung và dài hạn chịu tác động của nhiều yếu tố thay đổi như chính sách Nhà nước, thị trường tiêu thụ sản phẩm, nguyên nhiên vật liệu...nên tính lỏng kém, rủi ro cao. Do vậy các ngân hàng muốn có sự bảo đảm chắc chắn hơn. Tài sản dùng để đảm bảo cho nợ vay phải có giá trị lâu dài, không bị mất giá theo thời gian. Giá trị các tài sản đảm bảo nợ phải được đánh giá đúng và mức đảm bảo nợ chọn ở mức nhỏ hơn giá trị tài sản thế chấp.
Nguồn hình thành nên tín dụng trung và dài hạn chủ yếu là vốn tự có của các ngân hàng thương mại do góp vốn hoặc do tích luỹ được trong quá trình kinh doanh. Ngoài ra còn được hình thành từ những nguồn huy động vốn của dân cư dưới hình thức phát hành trái phiêú dài hạn,tiền gửi dài hạn hoặc vốn vay từ ngân hàng Nhà nước, hoặc vay nợ nước ngoài... nhưng những nguồn này có số lượng hạn chế, không đáng kể. Thời hạn cho vay, kỳ hạn trả nợ và mức trả nợ của từng kỳ hạn của loại hình tín dụng này được xác định theo tính chất khoản vay, chu chuyển vốn vay phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh, nguồn vốn trả nợ của khách hàng và được ghi rõ ràng vào hợp đồng tín dụng và khế ước.
Tín dụng ngân hàng nói chung và tín dụng trung dài hạn nói riêng đều có vai trò đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế đang phát triển. Tín dụng trung dài hạn ngày càng được các doanh nghiệp yêu thích hơn vì phù hợp với điều kiện thực tế của các doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp nhỏ. Các doanh nghiệp cổ phần cũng thích vay trung và dài hạn hơn việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu.
Tín dụng trung và dài hạn sử dụng cho việc mua sắm nhà xưởng, máy móc, thiết bị của các doanh nghiệp để cải tiến công nghệ sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm hoặc để mở rộng sản xuất chiếm lĩnh thị trường mới. Có thể nói tín dụng trung và dài hạn là trợ thủ đắc lực của các doanh nghiệp trong việc thoả mãn các cơ hội kinh doanh. Khi có cơ hội kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải mở rộng sản xuất, gia tăng lượng sản phẩm để chiếm lĩnh thị trường, khi cơ hội sản xuất không còn vốn được hoàn trả ngân hàng cho vay. Đó là ưu thế của vốn trung và dài hạn, nó linh hoạt hơn các hình thức huy động vốn dài hạn khác như trái phiếu, cổ phiếu, tránh được các chi phí phát hành, lệ phí bảo hiểm, đăng ký chứng khoán...
Trong điều kiện Việt nam hiện nay, nhu cầu vốn trung dài hạn cho đầu tư xây dựng các công trình sản xuất kinh doanh mới hiện đại hoá các công nghệ sản xuất, mở rộng các ngành sản xuất đang có.. . đòi hỏi phải có một nhu cầu vốn rất lớn. Nhu cầu vốn này được thoả mãn một phần bằng vốn ngân sách cấp phát, vay nước ngoài và một phần như huy động từ dân cư. Nhưng cho dù là nguồn vốn xuất phát từ đâu, việc cung cấp tín dụng thông qua hệ thống các ngân hàng thương mại, đặc biệt là các ngân hàng thương mại quốc doanh dưới hình thức cho vay trung và dài hạn là rất quan trọng và khả thi.
Vấn đề là các ngân hàng thương mại làm sao cung cấp tín dụng nói chung, t