Thế kỷ XX ghi nhận trong lịch sử loài người những dấu ấn sâu sắc. Đây là thế kỷ của những cuộc cách mạng khoa học phát triển vượt bậc và nhanh chưa từng có, của những cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc , là thế kỷ của những chiến công và thắng lợi có ý nghĩa lich sử của thời đại. Việt Nam một dân tộc anh dũng đã bước qua cuộc đấu tranh giành độc lập tư do, thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới sự ngạc nhiên và một con mắt nhìn đầy khâm phục của bạn bè thế giới.
31 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1307 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế cá thể tiểu chủ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Thế kỷ XX ghi nhận trong lịch sử loài người những dấu ấn sâu sắc. Đây là thế kỷ của những cuộc cách mạng khoa học phát triển vượt bậc và nhanh chưa từng có, của những cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc , là thế kỷ của những chiến công và thắng lợi có ý nghĩa lich sử của thời đại. Việt Nam một dân tộc anh dũng đã bước qua cuộc đấu tranh giành độc lập tư do, thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới sự ngạc nhiên và một con mắt nhìn đầy khâm phục của bạn bè thế giới. Song song công cuộc xây dựng đất nước phát triển kinh tế -xã hội, với nền kinh tế mang nặng đường lối tập trung quan liêuu bao cấp đã làm cho nước ta tụt hậu xa về mọi mặt từ kinh tế - văn hóa - đời sống xã hội… so với các nước trong khu vực nói riêng và các nước trên toàn thế giới nói chung. Nền kinh tế đó đã tạo ra tình trạng lạm phát, sự khan hiếm hàng hoá, nạn tham nhũng, suy thoái về đạo đức của cán bộ Đảng viên, cùng hàng loạt những tiêu cực xây dựng khác. Đến công cuộc đổi mới sự giác ngộ cùng với những thời cơ mới; Đảng đã đề ra quan điểm phát triển kinh tế - xã hội là : Phải phát triển nhanh hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội nhưng vẫn xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm. Trong đó phải bố trí sao cho cơ cấu ngành, cơ cấu vùng, cơ cấu thành phần kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Về cơ cấu thành phần kinh tế thực hiện nhất quán chính sách nền kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, phải chủ động sắp xếp lại tổ chức, đổi mới và nâng cao hiệu quả các doanh nghiệp Nhà nước, đầu tư chiều sâu, thay đổi trang thiết bị, cổ phần hóa một số doanh nghiệp. Chính những chính sách trên của Đảng đã làm cho nước ta thoát khỏi tình trạng nghèo đói, từ một nước nhập khẩu lương thực nay chúng ta đã trở thành một quốc gai xuất khẩu gạo đứng thứ 2 thế giới, nền kinh tế dần dần được khôi phục và phát triển, đời sống của nhân dân ngày càng được nâng cao. Nhưng nền kinh tế nhiều thành phần voí tư cách là cơ sở kinh tế cho sự tồn tại và phát triển kinh tế hàng hoá đã bị xóa bỏ, thay vào đó là co cấu kinh tế hầu như chỉ có kinh tế Nhà nước và kinh tế thập thể đã làm mất khả năng cạnh tranh và hợp tách trong kinh doanh. Trình độ cơ sở vật chất và kỹ thuật trong các doanh nghiệp còn thấp kém, lạc hậu, sản phẩm làm ra hầu như còn thiếu khả năng cạnh tranh. Kết cấu hạ tầng vật chất xã hội cả về kỹ thuật và mạng lưới giao thông vận tải, điện nước, thông tin lưu điện, thủy lợi… thấp kém không bảo đảm cho việc phát triển kinh tế hàng hoá trong nước cản trở việc triển khai luật đầu tư nước ngoài đối với nước ta. Những nhà doanh nghiệp khá giỏi thích nghi với cơ chế thị trường và kinh doanh theo pháp luật còn ít, người dân nhiều năm sống trong cơ chế bao cấp, mới bước đầu làm quen với cơ chế thị trường. Luật pháp kinh tế mới được hình thành nhưng chưa đồng bộ. Người dân chưa có tập quán hoạt động và kinh doanh theo pháp luật. Các cơ quan thuộc các ngành tư pháp "người cầm cần nảy mực còn chưa nghiêm chỉnh". Thu nhập bình quân đầu người năm 2000 là 300 USD. Thu nhập của những người làm công ăn lương và nông dân ở mức thấp, sức mua hàng hoá và dịch vụ chưa cao nên nhu cầu có khả năng thanh toán còn chậm; dung lượng thị trường trong nước không nhiều. Tình trạng thừa hàng hoá "giả tạo", suy thoái sản xuất kinh doanh và thất nghiệp là khó tránh khỏi.
Từ những thực trạng nói trên của nền kinh tế nước ta thì việc đưa ra một chính sách mới để cải thiện và phát triển nền kinh tế nhằm rút ngắn khoảng cách lạc hậu và nghèo khó với các nước trên thế giới là vô cùng cấp bách. Vì lý do trên mà hội nghị lần thứ V ban chấp hành TW Đảng (khoá IX) đã đưa ra nghị quyết về tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách, khuyến khích và phát triển kinh tế tư nhân. Khẳng định "kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, công nghiệp hóa hiện đại hóa, nâng cao phần nội lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế". Vì vậy em chọn đề tài "Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế cá thể tiểu chủ ở Việt Nam" để viết đề án kinh tế chính trị.
NỘI DUNG
Kinh tế tư nhân bao gồm kinh tế cá thể tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. Kinh tế cá thể tiểu chủ là thành phần kinh tế tư hữu nhỏ mà thu nhập hoàn toàn dựa vào lao động và vốn của bản thân gia đình. Kinh tế cá thể tiểu chủ cũng là hình thức tư hữu nhưng có thuê lao động, tuy nhiên thu nhập vẫn chủ yếu dựa vào sức lao động, tay nghề của từng gia đình, từng người lao động. Hiện nay thành phần kinh tế này phần lớn hoạt động dưới hình thức hộ gia đình là một bộ phận đông đảo, có tiềm năng to lớn, có vị trí quan trọng lâu dài. Do đó cần hướng dẫn thành phần kinh tế cá thể tiểu chủ vì lợi ích thiết thân và nhu cầu của sản xuất từng bước đi vào làm ăn hợp tác một cách tự nguyện, hoặc làm vệ tính cho doanh nghiệp Nhà nước hay hợp tác xã, có như vậy mới khắc phục được những hạn chế vốn có như tính tự phát, manh mún, hạn chế tiến bộ kỹ thuật.
Còn kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột lao động làm thuê. Thành phần kinh tế này tồn tại một cách khách quan. Trong điều kiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, thành phần kinh tế này có vai trò đáng kể xét về phương diện phát triển lực lượng xã hội, xã hội hóa sản xuất cũng như phương diện giải quyết vấn đề xã hội. Thành phần kinh tế này tồn tại trong những ngành có lợi cho quốc kế dân sinh mà pháp luật không cấm.
Hơn 10 năm qua, thực hiện đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, được sự đồng tình hưởng ứng tích cực của nhân dân, kinh tế tư nhân gồm kinh tế cá thể tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân, hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân đã phát triển rộng khắp trong cả nước, đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng kinh tế. Trong lĩnh vực nông nghiệp kinh tế tư nhân đã đóng góp vào tổng giá trị sản lượng. Nông lâm ngư nghiệp là 95% điều này đã khẳng định kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp. Hơn nữa đối với nông nghiệp rói riêng, sản lượng lương thực bình quân mỗi năm là 1,1 triệu tấn đưa Việt Nam từ nước nhập khẩu lương thực trở thành nước xuất khẩu gạo thứ II thế giới. Với những vai trò đáng kể này thì khu vực kinh tế tư nhân sẽ là lực lượng cơ bản trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. So với vai trò chủ đạo của kinh tế tư nhân trong lĩnh vực nông nghiệp nói chung thì trong công nghiệp đóng góp của kinh tế tư nhân còn hạn chế, song những đóng góp của khu vực vào sự tăng trưởng của toàn ngành công nghiệp là không thể phủ nhận. Về dịch vụ phần lớn các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân là doanh nghiệp thương mại dịch vụ do các hoạt động này thường có quy mô nhỏ và thu hồi vốn nhanh, thích hợp với khả năng tài chính của các nhà đầu tư tư nhân. Mặt khác khu vực tư nhân còn tham gia vào một số lĩnh vực về: y tế, giáo dục đào tạo. Sự tham gia này vừa có tác dụng hỗ trợ cho Nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu của nhân dân, vừa tạo ra sự cạnh tranh đối với các cơ sở kinh tế của Nhà nước. Kinh tế tư nhân còn có vai trò cải thiện đời sống nhân dân bằng việc tạo ra nhiều việc làm và thu nhập ổn định cho người lao động. Theo ước tính của bộ lao động thương binh và xã hội, sau khi luật doanh nghiệp đi vào cuộc sống mỗi năm sẽ có 14.000 doanh nghiệp moí được thành lập đồng nghĩa với việc có thêm khoảng 50.000 chỗ làm mới mỗi năm. Sự hình thành của các doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty hợp danh mới sẽ góp phần tạo thêm việc làm cho người lao động, đồng thời nhờ sự phát triển mạnh mẽ của các doanh nghiệp này, mức sống của người lao động được cải thiện. Hiện nay thu nhập bình quân của người lao động ở khu vực ngoài quốc doanh là 800.000 - 1.000.000 đ/người/tháng ở thành thị, 500.000 - 600.000 đ/người/tháng ở nông thôn. Con số này cao hơn so với khu vực quốc doanh. Kinh tế tư nhân cũng góp phần đáng kể vào việc tăng Ngân sách Nhà nước. Ngân sách Nhà nước tăng lên cũng tạo điều kiện cho việc khắc phục những khuyết tật vốn có của kinh tế thị trường, tăng kinh phí để Nhà nước đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng; tạo điều kiện cho sự ra đời và phát triển doanh nghiệp, ngân sách Nhà nước tăng lên cũng góp phần bình ổn giá cả thị trường và chống lạm phát, các công trình công cộng vui chơi giải trí phục vụ nhân dân được hình thành, các công trình đường xã cầu cống được Nhà nước đầu tư xây dựng hay thực hiện theo phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm". Sự phát triển của kinh tế tư nhân cũng góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội của đất nước góp phần phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy phân công lao động, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng thêm số lượng công nhân, lao động và doanh nhân Việt Nam, thực hiện chủ trương xã hội hóa y tế, văn hóa, giáo dục…
Tuy vậy kinh tế tư nhân nước ta hiện nay chưa được chú ý phát triển đúng mức phần lớn có qui mô nhỏ và kinh doanh chủ yếu trong lĩnh vực lưu thông. Vốn ít, công nghệ sản xuất lạc hậu; trình độ quản lý yếu kém, hiệu quả và sức cạnh tranh yếu, ít đầu tư vào lĩnh vực sản xuất; còn có nhiều khó khăn, vướng mắc về vốn, về mặt bằng sản xuất kinh doanh, về môi trường pháp lý và môi trường tâm lý xã hội; nhiều đơn vị kinh tế tư nhân chưc thực hiện tốt những quy định của pháp luật đối với người lao động; không ít đơn vị vi phạm pháp luật, trốn lậu thuế, gian lận thương mại, kinh doanh trái phép… Quan điểm của Đảng trên một số vấn đề cụ thể về phát triển kinh tế tư nhân chưa được làm rõ để tạo sự thống nhất. Một số cơ chế, chính sách của Nhà nước chưa phù hợp với đặc điểm của kinh tế tư nhân đại bộ phận có quy mô nhỏ và vừa; quảnlý có phần buông lỏng và có những sở hở, hạn chế việc thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển đúng hướng. Để khắc phục những nhược điểm trên của kinh tế tư nhân nhằm phát triển nền kinh tế Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã xác định : "Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thànhphần kinh tế kinh doanh theo đúng pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh; trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân"; kinh tế cá thể tiểu chủ được Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ phát triển "; "kinh tế tư bản tư nhân" được khuyến khích phát triển rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm". Để thực hiện nghị quyết Đại hội IX của Đảng khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển, không ngừng nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh, tạo thêm việc làm, có mức tăng trưởng hàng năm cao hơn hiện nay, đầu tư nhiều hơn vào khu vực sản xuất, tham gia ngày càng nhiều các hoạt động công ích, hợp tác liên doanh với nhau, với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, trong những năm tới cần làm tốt những nhiệm vụ sau đây:
Thống nhất về các quan điểm chỉ đạo phát triển kinh tế tư nhân: Nhà nước tôn trọng và đảm bảo quyền tự do kinh doanh theo pháp luật, bảo hộ quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân; khuyến khích hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi và định hướng, quản lý sự phát triển của kinh tế tư nhân theo pháp luật, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Các hộ kinh doanh cá thể được Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ để phát triển ở cả nông thôn và thành thị, khuyến khích các hộ liên kết hình thành các hình thức tổ chức hợp tác làm vệ sinh cho doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn. Quá trình này đòi hỏi phải tuân theo những nguyên tắc cơ bản như tự nguyện không gò ép, cùng có lợi ích và phát triển từ thấp đến cao. Không nên hợp tác hoá là con duy nhất để đưa nền kinh tế tiểu nông lên chủ nghĩa xã hội. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý và tâm lý xã hội để các doanh nghiệp của tư nhân phát triển rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm, không hạn chế về qui mô, nhất là trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước; khuyến khích chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động tạo điều kiện để mỗi người lao động đều có một phần tài sản, vốn liếng đóng góp cổ phần của mình vào các cơ sở sản xuất, dịch vụ để tạo điều kiện phát huy vai trò của họ trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội. Bảo vệ lợi ích hợp pháp chính đáng của người sử dụng lao động và người lao động, đảm bảo đời sống của người lao động từng bước được nâng cao, góp phần xoá đói giảm nghèo. Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người lao động và người sử dụng lao động trên cơ sở pháp luật và tinh thần đoàn kết tương thân tương ái. Chăm lo bồi dưỡng, giáo dục các chủ doanh nghiệp nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc, gắn bó với lợi ích của đất nước và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội và các hiệp hội doanh nghiệp đối với kinh tế tư nhân nói cung cũng như trong từng doanh nghiệp.
Tạo môi trường thuận lợi về thể chế và tâm lý xã hội cho sự phát triển của kinh tế tư nhân: Sửa đổi, bổ sung luật doanh nghiệp và một số quy định chưa thống nhất giữa các văn bản pháp luật đã ban hành về những vấn đề liên quan đến kinh tế tư nhân theo hướng xóa bỏ phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế; bảo đảm thể hiện đồng bộ, nhất quán các quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế tư bản tư nhân, tính cụ thể, minh bạch và ổn định của pháp luật; tiếp tục tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong luật pháp, thủ tục hành chính . Qui định rõ những ngành nghề, lĩnh vực kinh tế tư nhân không được phép kinh doanh hoặc kinh doanh có điều kiện; khi thay đổi các qui định cần có thời gian chuyển tiếp và chính sách bổ sung để doanh nghiệp thích ứng, giảm thiểu thiệt hại cho người kinh doanh. Xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước trong đăng ký kinh doanh và quản lý hoạt động của kinh tế tư nhân; sửa đổi, bổ sung một số quy định theo hướng vừa tạo thuận lợi, vừa chặt chẽ trong cấp đăng ký kinh doanh, theo yêu cầu "một cửa, một dấu"; nghiên cứu xây dựng hệ thống lý lịch tư pháp của công dân; ra soát lại, bài bỏ những giấy phép, chứng chỉ hành nghề không cần thiết, gây khó khăn cho đăng ký kinh doanh và hoạt động của doanh nghiệp, đồng thời quản lý chặt chẽ và có chế tài xỷ lý nghiêm minh những vi phạm của các đơn vị kinh tế tư nhân trong đăng ký kinh doanhvà hoạt động, cũng như những vi phạm của cơ quan cán bộ Nhà nước trong thi hành công vụ. Làm tốt công tác phổ biến, tuyên truyền quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với việc phát triển kinh tế tư bản tư nhân. Cổ vũ và biểu dương kịp thời những doanh nhân, đơn vị sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, đúng pháp luật, có đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội đất nước, đảm bảo lợi ích người lao động, tạo điều kiện cho tổ chức Đảng, các đoàn thể nhân dân phát huy vai trò của mình trong doanh nghiệp. Bảo hộ sự phát triển, tạo môi trường tâm lý xã hội thuận lợi cho phát triển kinh tế tư nhân.
Sửa đổi, bổ sung một số cơ chế, chính sách: Tập trung sửa đổi, bổ sung một số cơ chế, chính sách bảo đảm sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế về cơ hội và khả năng lựa chọn các điều kiện để phát triển ; tiếp tục tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, sửa đổi những quy định chưa phù hợp với trình độ, quy mô kinh doanh để kinh tế tư nhân có thể thụ hưởng những chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với các ngành, các vùng, các sản phẩm và dịch vụ cần ưu tiên hoặc khuyến khích phát triển không phân biệt và dân chủ giữa các thành phần kinh tế. Điều này được biểu hiện ở mối quan hệ giữa lợi ích và nghĩa vụ của các thành phần kinh tế với nhau và với Nhà nước. Ở đây không đề cập tới dân chủ về mặt chính trị, mà chỉ giới hạn trong kinh tế. Dân chủ trong kinh tế đó là quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản, quyền hưởng thụ kết quả kinh doanh và nghĩa vụ đóng góp đối với Nhà nước. Dân chủ không thể thực hiện được bằng mệnh lện mà phải được thể chế hoá bằng luật pháp, cơ chế và dân chủ phải đảm bảo tính tập trung. Nhà nước cần chú trọng tạo điều kiện thuận lợi cho những doanh nghiệp vừa và nhỏ đồng thời tài trợ cho một số lĩnh vực, mặt hàng sản phẩm khuyến khích hoặc đáp ứng yêu cầu thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội. Việc tài trợ này không phân biệt thành phần kinh tế, thành phần nào làm được thì hưởng ưu đãi.
Chính sách đất đai: Sửa đổi bổ sung luật đất đai theo hướng : Đối với đất ở của tư nhân đã được cấp quyền sử dụng, đất đang được tư nhân dùng làm mặt bằng sản xuất, kinh doanh do được chuyển nhượng lại một cách hợp tác pháp quyền sử dụng hoặc được Nhà nước giao đã nộp trên sử dụng đất theo đúng quy định của pháp luật, thì tư nhân đso được tiếp tục sử dụng mà không phải nộp thêm tiền thuê đất cho Nhà nước khi dùng đất này vào sản xuất, kinh doanh. Nhà nước có chính sáhc xây dựng những khu công nghiệp với cơ sở hạ tầng cần thiết; có giá phù hợp để khuyến khích các doanh nghiệp trong đó có kinh tế tư nhân, thuê làm mặt bằng sản xuất kinh doanh. Có chính sách khuyến khích mạnh mẽ việc sử dụng ở các vùng còn nhiều đất chưa được sử dụng, đất trắng, đồi núi trọc. Doanh nghiệp tư nhân được dùng giá trị quyền sử dụng đất để thế chấp vay vốn ngân hàng hoặc góp cổ phần liên doanh với doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. Đẩy mạnh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở cho nhân dân. Trong khi chờ sửa đổi, bổ sung luật đất đai và các văn bản pháp luật có liên quan, thí điểm thực hiện các chủ trương trên.
Chính sách tài chính tính dụng: Thực hiện chính sách tài chính, tín dụng đối với kinh tế tư nhân bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác; đảm bảo để kinh tế tư nhân tiếp cận và được hưởng các ưu đãi của Nhà nước chokt hộ, doanh nghiệp nhỏ và vừa, cho đầu tư theo các mục tiêu được Nhà nước khuyến khích. Nhà nước hỗ trợ về xây dựng cơ sở hạ tầng chung (giao thông, điện, nước, thông tin liên lạc….), tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển. Sớm ban hành quy định của Nhà nước về cơ chế tài chính đối với doanh nghiệp của tư nhân. Tiếp tục đổi mới chế độ kê khai và nộp thếu phù hợp với đặc điểm của các hộ kinh doanh, doanh nghiệp nhỏ và vừa, vừa tạo thuận lợi cho người kinh doanh, vừa chống thất thu thuế. Có chính sách bảo hiểm rủi ro cho hoạt động của kinh tế tư nhân trong kinh tế thị trường, khuyến khích thành lập và tham gia quỹ bảo hiểm tương hỗ của các doanh nghiệp có sự hỗ trợ của Nhà nước. Ban hành quy định về đăng ký sở hữu tài sản, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động kinh doanh. Kinh tế tư nhân dùng tài sản hình thành từ vốn vay để thế chấp vay vốn ngân hàng. Đơn giản hóa các thủ tục cho vay đi liền với tăng cường các dịch vụ thanh toán, bảo lãnh, tư vấn cho kinh tế tư nhân; bổ sung, sửa đổi một số quyết định để tạo thuận lợi cho việc xử lý tài sản thế chấp khi người vay không trả được nợ đến hạn. Sớm triển khai hoạt động các quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Sửa đổi bổ sung chế độ kế toán phù hợp với trình độ của doanh nghiệp nhỏ và vừa, tạo điều kiện cho doanh nghiệp của tư nhân sử dụng dịch vụ kiểm toán; thực hiện công khai tình hình tài chính người hàng năm.
Chính sách lao động tiền lương: Kinh tế tư nhân phải thực hiện đúng quy định của Bộ luật Lao động về việc ký kết hợp đồng lao động, tiền lương, tiền công, thời gian làm việc, đảm bảo các điều kiện vệ sinh an toàn lao động…, bổ sung chế tài cần thiết để xử lý vi phạm sớm ban hành đồng bộ các quy định về bảo hiểm xã hội để người lao động trong hộ kinh doanh cá thể và doanh nghiệp của tư nhân đều được tham gia. Tiến tới hình thành đa dạng về mô hình tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội phù hợp với từng nhóm đối tượng, có nhiều mức đóng, mức hưởng khác nhau. Nghiên cứu ban hành chính sách bảo hiểm thất nghiệp theo hướng người s