Trong tiến trình đổi mới nền kinh tế đất nước, trong những năm vừa qua, cùng với những nỗ lực nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách, biện pháp nhằm tổ chức và phát triển thị trường nội địa, góp phần quan trọng vào kết quả tăng trưởng chung của nền kinh tế. Những chính sách và biện pháp này đã tác động tích cực đối với sản xuất và lưu thông hàng hoá,
122 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1482 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp phát triển thị trường trong nước ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trong tiến trình đổi mới nền kinh tế đất nước, trong những năm vừa qua, cùng với những nỗ lực nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách, biện pháp nhằm tổ chức và phát triển thị trường nội địa, góp phần quan trọng vào kết quả tăng trưởng chung của nền kinh tế. Những chính sách và biện pháp này đã tác động tích cực đối với sản xuất và lưu thông hàng hoá, thị trường nội địa bước đầu được mở rộng, lưu chuyển hàng hoá ngày một tăng, phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ toàn xã hội trong vòng 5 năm qua đã tăng gần gấp 2 lần và đạt mức trên 470 nghìn tỷ đồng vào năm 2005; tỷ lệ tiêu dùng trong GDP đạt khoảng trên 70%; đội ngũ các chủ thể kinh doanh trên thị trường ngày càng đông đảo và đa dạng về thành phần tham gia...
Tuy nhiên, hoạt động thương mại trên thị trường nội địa cũng còn không ít yếu kém và bất cập như: chậm xác lập và phát triển các mô hình tổ chức thị trường và các kênh lưu thông để bảo đảm sự gắn kết ổn định và đa dạng từ sản xuất đến tiêu dùng; kết cấu hạ tầng thương mại chưa được quan tâm đầu tư đúng mức; công tác dự báo cung - cầu, giá cả chưa đáp ứng tốt yêu cầu điều hành nền kinh tế cũng như thực tiễn hoạt động sản xuất, kinh doanh; quá trình liên kết và tích tụ giữa các doanh nghiệp, trước hết là các doanh nghiệp thương mại nhà nước chưa được định hướng rõ nét, do đó không tạo được sức cạnh tranh trước yêu cầu hội nhập; quản lý nhà nước về thương mại còn chưa bám sát được thực tiễn.
Nguyên nhân của tình trạng trên là do cơ chế kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển đổi, hầu hết các doanh nghiệp đều nhỏ bé, thành phần kinh tế tư nhân mới bắt đầu hình thành; nhận thức của các cấp, các ngành, các doanh nghiệp về vị trí, vai trò của thị trường nội địa chưa được đầy đủ; công tác tổ chức thị trường nội địa chưa được chú trọng đúng mức, thiếu sự chỉ đạo cụ thể trong việc thực hiện các cơ chế, chính sách đã có.
Để khắc phục các yếu kém trên đây, phát huy hơn nữa vai trò của thị trường nội địa trong việc thúc đẩy phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế của đất nước, tạo cơ sở vững chắc cho hội nhập kinh tế quốc tế, yêu cầu về việc xây dựng một đề tài phát triển thị trường nội địa trong thời gian tới là hết sức cần thiết.
Vì vậy em chọn đề tài: “Phát triển thị trường trong nước ở nước ta - thực trạng và giải pháp”.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của GS-TS Đặng Đình Đào, Chú Hoàng Thịnh Lâm - Phó vụ trưởng vụ Kế hoạch và Đầu tư Bộ Thương mại, cùng các anh chị trong vụ Kế hoạch và Đầu tư Bộ Thương mại đã giúp em hoàn thành tốt chuyên đề này.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHÁT TRIỂN
THỊ TRƯỜNG TRONG NƯỚC
I. Quan niệm về thị trường và thị trường trong nước và vai trò của nó đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân
1. Quan niệm về thị trường
Theo quan điểm cổ điển
Thị trường là nơi diễn ra quá trình trao đổi và mua bán. Trong thuật ngữ kinh tế hiện đại, thị trường còn bao gồm các hội chợ cũng như các địa dư hoặc các khu vực thị trường phân theo mặt hàng hoặc ngành hàng.
Lịch sử xã hội loài người đã trải qua các phương thức sản xuất khác nhau nhưng đặc trưng chung nhất đó là tiến hành sản xuất trao đổi hàng hoá. Vào cuối chế độ công xã nguyên thuỷ, do lực lượng sản xuất đã phát triển ở trình độ nhất định, con người đã sản xuất đủ tiêu dùng và bắt đầu có sản phẩm dư thừa, do đó nhu cầu trao đổi các sản phẩm mà họ đang cần. Đây chính là hình thái trao đổi giản đơn nhất và hình thức trao đổi này đã tạo ra mầm mống của thị trường và sản xuất hàng hoá. Nguồn gốc của sản xuất hàng hoá ban đầu chính là sự phân công lao động xã hội và sự khác biệt về sở hữu của những người sản xuất. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, hình thức trao đổi trực tiếp hàng đổi hàng không còn thích hợp, do đó xuất hiện hình thái vật ngang giá chung. Vật ngang giá chung được mọi người thừa nhận là vàng và vàng chính là hình thức sơ khai của tiền tệ.
Sự ra đời của tiền tệ đã thúc đẩy hàng hoá phát triển nhanh chóng kéo theo đó là sự phát triển của thị trường. Về thực chất thị trường ra đời khi có hình thái trao đổi đầu tiên và khi có tiền tệ ra đời thì thị trường đựơc nhìn nhận như một nhân tố không thể thiếu được của sản xuất hàng hoá. Chính sản xuất hàng hoá là sản xuất ra các sản phẩm không phải là để tiêu dùng mà là để bán, mà muốn bán được không còn cách nào khác là đưa ra thị trường. Vì vậy thị trường chính là nơi người mua và người bán gặp nhau, trao đổi sản phẩm với nhau thông qua hình thái giá trị của sản phẩm.
Nghiên cứu khái quát nguồn gốc của sản xuất và trao đổi hàng hoá, chúng ta thấy rằng kinh tế thị trường là hình thái phát triển cao của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Trong nền kinh tế thị trường các quan hệ được tiền tệ hoá, các yếu tố vật chất của sản xuất và tiêu dùng như tài nguyên đất đai, sức lao động vốn, công nghệ và cả chất xám - là sản phẩm của ngành giáo dục đào tạo - đều là hàng hoá. Vậy tổ chức nền kinh tế thị trường như thế nào để đạt hiệu quả cao nhất.
Trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động mua bán đều diễn ra trên thị trường, thị trường là nơi hàng hoá thực hiện giá trị của mình, là điều kiện không thể thiếu được của tái sản xuất xã hội. Mâu thuẫn cơ bản sâu xa nhất của sản xuất hàng hoá, mâu thuẫn giữa tính cá biệt và tính xã hội của lao động sản xuất hàng hoá được sản xuất trên thị trường, tạo động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Quá trình tái sản xuất bao gồm 4 khâu: sản xuất - phân phối - trao đổi - tiêu dùng, trong đó lưu thông hàng hoá là khâu trung gian không thể thiếu thì thị trường cũng chiếm vị trí tương ứng trong nền kinh tế. Trên thị trường, các nhà sản xuất sau mỗi chu kỳ sản xuất tìm đến nhau để xem lao động sản xuất vật phẩm của họ có được xã hội chấp nhận không và tuỳ vào việc chấp nhận hay không chấp nhận đó, họ sẽ quyết định về việc sản xuất của mình. Nền sản xuất xã hội không thể hoạt động nếu như không có thị trường. Thị trường không những là cần thiết, là khách quan với nền sản xuất hàng hoá mà thị trường còn là tấm gương phản ánh trung thực tình trạng của nền kinh tế tồn tại trong thị trường đó.
Theo quan điểm hiện đại
Theo quan điểm của Marketing: Thị trường bao gồm tất cả những khách hàng tiềm ẩn cùng có một nhu cầu hay mong muốn cụ thể, sẵn sàng và có khả năng tham gia trao đổi để thoả mãn nhu cầu và mong muốn đó.
Thị trường là sự biểu hiện thu gọn của quá trình mà thông qua đó các quyết định của các hộ gia đình về tiêu dùng các mặt hàng nào, quyết định của các công ty về sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và các quyết định của người lao động về việc làm, thời gian lao động đều được dung hoà bằng sự điều chỉnh giá cả.
Thị trường là sự kết hợp giữa cung và cầu trong đó những người mua và người bán bình đẳng cùng cạnh tranh. Số lượng người mua, người bán nhiều hay ít phản ánh quy mô của thị trường lớn hay nhỏ. Việc xác định nên mua hay nên bán hàng hoá và dịch vụ với khối lượng và giá cả là bao nhiêu do cung và cầu quyết định.
Thị trường là phạm trù riêng có của nền sản xuất hàng hoá. Hoạt động cơ bản của thị trường được thể hiện qua 3 nhân tố có mối quan hệ hữu cơ mật thiết với nhau gồm: nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ, cung ứng hàng hoá và dịch vụ, giá cả của hàng hoá và dịch vụ. Cách nhìn nhận thị trường như vậy mới chỉ phản ánh mối quan hệ giữa người sản xuất (người bán - cung) và người tiêu dùng (người mua - cầu) đối với từng loại hàng hoá cụ thể mà chưa phản ánh được mối quan hệ giữa các loại thị trường trong nền kinh tế hiện đại. Có thể sơ đồ hoá quan điểm này như sau:
Thông tin
Sản xuất
(Người bán-cung)
Thị trường
(Người mua-cầu)
Hàng hoá - dịch vụ
Tiền
Thông tin
Hệ thống thị trường đơn giản.
Theo K. Mark “Sự phân công là cơ sở chung của mọi nền sản xuất hàng hoá, ở đâu có sự phân công xã hội và sản xuất hàng hoá thì ở đó có thị trường. Thị trường chẳng qua chỉ là sự biểu hiện của sự phân công và do đó nó có thể phát triển vô cùng tận”. Phân công lao động xã hội càng sâu sắc và càng cao thì thị trường càng phức tạp. Qua thị trường chúng ta có thể xác định được mối tương quan giữa cung và cầu, tức mức độ thoả mãn nhu cầu về hàng hoá dịch vụ, hiểu được phạm vi và quy mô của việc thực hiện cung, cầu dưới hình thức phân chia lao động và được bao bọc trong các thị trường. Quan điểm này cú thể xem xét cụ thể qua sơ đồ sau:
Thị trường các
nguồn tài nguyên
Chính phủ
Thị trường người trung gian
Thị trường những người tiêu dùng
Thị trường
các nhà sản xuất
T
Nguồn tài nguyên
Nguồn lao động
Nguồn lao động
Hàng hoá dịch vụ
Tiền
Tiền Thuế Dịch vụ Tiền
Hàng hoá Tiền
Dịch vụ Thuế
Tiền Tiền Hàng hoá Tiền
Theo các nhà kinh tế học của Hội Quản trị Hoa Kỳ, thị trường là tổng hợp các lực lượng và các điều kiện, trong đó người mua và người bán thực hiện các quyết định chuyển hàng hoá từ người bán sang người mua.
Nói tóm lại, thị trường dù dưới hình thưc giản đơn hay trong nền kinh tế thị trường đều dựa trên cơ sở trao đổi, thị trường chứa tổng số cung và tổng số cầu về một loại hàng hóa hoặc dịch vụ nào đó. Trên thị trường luôn diễn ra các hoạt động mua bán và các quan hệ hàng hóa tiền tệ.
Các cách phân loại thị trường:
● Căn cứ vào vị trí của sự lưu thông hàng hóa, dịch vụ người ta chia thị trường thành:
Thị trường trong nước và thị trường dân tộc: là hoạt động mua bán của những người trong cùng một quốc gia và các quan hệ kinh tế diễn ra trong mua bán chỉ ảnh hưởng tới các vấn đề kinh tế xã hội.
Thị trường thế giới thị trường khu vực I, thị trường khu vực II, Đông Âu, Tây Âu... là nơi diễn ra các hoạt động mua bán hàng hóa giữa các nước với nhau. Quan hệ kinh tế diễn ra trên thị trường thế giới ảnh hưởng trực tiếp tới việc phát triển kinh tế của mỗi nước.
● Căn cứ vào mức độ xã hội hoá của thị trường người ta chia ra thị trường khu vực và thị trường thống nhất toàn quốc.
Thị trường khu vực là thị trường bị chi phối của các nhân tố kinh tế, xã hội, tự nhiên... của các khu vực đó. Sức hút hàng hóa của các khu vực không lớn và thị trường này ít có sự can thiệp của nhà nước.
Thị trường thống nhất toàn quốc là thị trường tại đó các quan hệ kinh tế diễn ra trên thị trường ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế quốc dân. Sức hút hàng hóa của thị trường này lớn và nó chi phối sự vận động của các kênh lưu thông trong toàn quốc.
● Căn cứ vào hàng hóa lưu thông trên thị trường chia ra: thị trường tư liệu sản xuất và thị trường tiêu dùng.
Thị trường tư liệu sản xuất thường có quy mô lớn, sự cạnh tranh diễn ra mạnh mẽ, có khả năng hình thành thị trường thống nhất toàn quốc. Nhu cầu trên thị trường tư liệu sản xuất luôn phong phú đa dạng như thị trường tiêu dùng, nhưng nhu cầu đó tương đối rõ ràng. Thị trường sản xuất bị phụ thuộc nhiều vào thị trường tư liệu tiêu dùng và chủ yếu là thị trường bán buôn. Thị trường tư liệu tiêu dùng rát đa dạng, phong phú vì nó đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng. Các hình thức mua bán trên thị trường tiêu dùng rất phong phú như bán buôn, bán lẻ nhưng chủ yếu là bán lẻ.
● Căn cứ vào vai trò của người mua và người bán người ta chia ra thành thị trường người mua và thị trường người bán.
Thị trường người bán vai trò quyết định thuộc về người bán. Các quan hệ kinh tế hình thành trên thị trường ( quan hệ cung cầu, quan hệ giá cả, quan hệ cạnh tranh... ) hình thành không khách quan. Giá cả bị áp đặt, cạnh tranh bị thủ tiêu hoặc không đủ điều kiện để hoạt động các kênh phân phối. Nhiều loại mặt hàng cung ứng trên thị trường không theo yêu cầu của thị trường, vai trò của người mua bị thủ tiêu.
Sự hình thành thị trường người bán đó là tập hợp tất cả những người có loại sản phẩm hàng hoá có thể mang ra bán trên thị trường.
Trong quan hệ mua bán thì vai trò quyết định lại thuộc về người mua. Chính vì vậy người mua có vai trò quyết định trong quá trình tái sản xuất hàng hóa. Hiện nay các doanh nghiệp đang thực hiện khẩu hiệu "bán cái thị trường cần, chứ không phải là bán cái doanh nghiệp có". Các quan hệ kinh tế trên thị trường cũng được hình thành một cách khách quan (quan hệ cung cầu, quan hệ giá cả và cung cầu...). Như vậy thị trường người mua là môi trường khách quan cho sự hoạt động của các quy luật kinh tế thị trường.
● Căn cứ vào vai trò của từng khu vực thị trường trong hệ thống chia ra thị trường chính và thị trường phụ.
Thị trường chính (thị trường trung tâm) là thị trường có khối lượng hàng hóa tiêu thụ chiếm tuyệt đại bộ phận so với tổng khối lưọng hàng hóa đưa ra tiêu thụ ở các khu vực thị trường. Trên thị trường chính có một số lượng lớn các nhà kinh doanh và thường có nhiều nhà kinh doanh lớn. Sự cạnh tranh của các nhà kinh doanh gay gắt và phức tạp hơn thị trường phụ.
Thị trường phụ là thị trường có khối lượng hàng hoá tiêu thụ ít. Cạnh tranh trên thị trường này không gay gắt, giá cả của sản phẩm trên thị trường này phụ thuộc vào giá cả trên thị trường chính. Thị trường phụ mặc dù hoạt động hiệu quả không lớn nhưng nó lại luôn tồn tại song song với thị trường chính.
● Căn cứ vào vai trò, số lượng người mua và người bán trên thị trường chia ra thị trường độc quyền và thị trường cạnh tranh.
Thị trường độc quyền là thị trường mà giá cả và các quan hệ kinh tế khác bị chi phối rát lớn bởi các nhà độc quyền. Tuy nhiên không vì thế mà cho rằng các quan hệ kinh tế, giá cả tiền tệ... trên thị trường độc quyền là hoàn toàn chủ quan. Bởi vì, trên thị trường vẫn còn có sự canh tranh "tương đối" giữa người mua và người bán, vẫn có sự hoạt động của quy luật kinh tế thị trường.
Thị trường cạnh tranh là thị trường có nhiều người mua và nhiều người bán, thế lực của họ ngang nhau, họ cạnh tranh với nhau. Trên thị trường cạnh tranh các quan hệ kinh tế diễn ra tương đối khách quan và ổn định
Phân biệt các loại thị trường
Cung cầu
Vô số
Thiểu số
Độc quyền
Vô số
Cạnh tranh hoàn hảo
Độc quyền bán
Độc quyền bán
Thiểu số
Độc quyền mua thiểu số
Độc quyền song phương
Độc quyền bán giới hạn
Độc quyền
Độc quyền mua
Độc quyền mua có giới hạn
Độc quyền song phương
2. Thị trường trong nước và vai trò của phát triển thị trường trong nước đối với nền kinh tế
2.1. Thị trường trong nước
Thị trường trong nước là yếu tố quyết định để phát triển kinh tế hàng hóa ở một quốc gia, không thể nói đến kinh tế hàng hóa và phát triển nền kinh tế hàng hóa mà không có thị trường, mà trước hết là thị trường trong nước. Thị trường trong nước là một đòn bẩy kinh tế mạnh thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hóa phát triển.
Hai mươi năm qua, kể từ năm 1986 đến nay, Đảng ta đã ban hành nhiều Nghị quyết quan trọng (từ Đại hội VI đến Đại hội IX) và Nhà nước đã ban hành một loạt văn bản pháp luật và cơ chế, chính sách nhằm đổi mới toàn diện đất nước. Mặc dù còn không ít tồn tại, yếu kém, nhưng có thể nói: đường lối, chính sách đổi mới của Đảng, Nhà nước đã được tổ chức thực hiện thành công với nhiêu thành tựu to lớn trên hầu khắp các lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội, trong đó, có thương mại nói chung, thị trường và thương mại nội địa nói riêng. Sự phát triển của thị trường và thương mại trong nước trong hai mươi năm qua đã góp phần tích cực vào quá trình phát triển sản xuất, thay đổi cơ cấu kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân.
Sự phát triển của thị trường trong nước sẽ từng bước tạo dựng môi trường kinh doanh thông thoáng và thuận lợi; hàng hóa được tự do mua bán; thương nhân được tự do hoạt động theo pháp luật và các quy luật của kinh tế thị trường. Một thị trường cạnh tranh cũng bắt đầu xuất hiện với cường độ và qui mô ngày càng tăng cao và mở rộng. Các độc quyền tạo ra từ cơ chế cũ được phá vỡ dần và xóa bỏ từng bước. Các phương thức kinh doanh, phương thức mua bán ngày càng đổi mới, phong phú và linh hoạt hơn. Hoạt động điều hoà cung cầu, điều tiết thị trường ngày càng tiến bộ và đã mang lại kết quả tích cực. Thị trường với các hoạt động sôi nổi và phong phú của nó đã có tác động tích cực đối với sản xuất, từng bước đưa sản xuất gắn với thị trường.
Môi trường kinh doanh không bình đẳng gây dư luận bất bình và làm nản lòng không ít doanh nghiệp khi muốn đầu tư mở rộng kinh doanh. Để phát triển thị trường và thương mại nội địa, cần tạo ra môi trường cạnh tranh thực sự bình đẳng giữa thương nhân thuộc các thành phần kinh tế .
2.2. Vai trò của thị trường trong nước
2.2.1. Đối với người tiêu dùng
Đáp ứng được các nhu cầu phong phú đa dạng về các loại sản phẩm và dịch vụ, phù hợp với thị hiếu(sở thích) và sự tự do lựa chọn một cách đầy đủ kịp thời, thuận lợi với dịch vụ văn minh, đảm bảo được người tiêu dùng thỏa dụng đến mức tối đa( do khách hàng được tự lựa chọn các loại hàng hóa và dịch vụ trên thị trường).
Thúc đẩy nhu cầu, gợi mở nhu cầu, đưa đến cho nguời tiêu dùng những sản phẩm mới( nhất là các sản phẩm chất lượng cao, văn minh và hiện đại) đồng thời thúc đẩy văn minh tiêu dùng, nâng cao hơn nữa vị thế của người tiêu dùng. Trên thị trường tiêu thụ nội địa, khách hàng được coi là thựơng đế, là người bỏ lá phiếu quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp.
Nhờ sự sẵn có cũng như sự đa dạng phong phú của hàng hóa, dịch vụ trên thị trường tiêu thụ mà người tiêu dùng từ bỏ tâm lý đầu cơ, tích trữ đồng thời tiết kiệm được thời gian, sức lực… Điều này làm giảm sự tồn đọng không cần thiết của các nguồn lực( vốn, vật tư, lao động…) nằm trong các sản phẩm và hàng hóa tích trữ gây lãng phí cho xã hội.
2.2.2 Đối với doanh nghiệp
Thị trường trong nước giúp cho doanh nghiệp thực hiện về mặt giá trị( được thị trường tiêu thụ thừa nhận) các loại sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp đã sản xuất và cung ứng ra thị trường, đảm bảo cho sản xuất phát triển liên tục với quy mô ngày càng mở rộng. Khi sản phẩm của doanh nghiệp được sản xuất ra tức là vốn của doanh nghiệp tồn tại dưới dạng vốn hàng hóa, để có thể tiếp tục tái sản xuất phải có vốn, nghĩa là phải tiêu thụ được hàng hóa, chuyển vốn từ trạng thái hiện vật sang giá trị, thu hồi lại vốn sản xuất và đầu tư cho chu kỳ sản xuất tiếp theo. Chu kì sản xuất dài hay ngắn phụ thuộc vào tốc độ hay thời gian tiêu thụ sản phẩm. Sau khi tiêu thụ sản phẩm trên thị trường, doanh nghiệp không chỉ thu được vốn bỏ ra mà còn thực hiện được giá trị thặng dư, thể hiện ở phần thu nhập thuần túy của doanh nghiệp.
Thị trường trong nước là nơi thu thập thông tin kinh tế giúp cho doanh nghiệp thấy được ảnh hưởng của các yếu tố thuộc môi trường kinh doanh đối với doanh nghiệp cũng như các cơ hội và thách thức, thấy được nhu cầu và xu hướng biến động nhu cầu của các khách hàng hiện tại và tiềm năng của mình, thấy được chiến lược và các đối sách của đối thủ cạnh tranh, thị trường trong nước là môi trường mà doanh nghiệp có thể bộc lộ khả năng của chính mình từ đó doanh nghiệp có cơ sở để đánh giá, điều chỉnh lại chiến lược kinh doanh, chiến lược tiêu thụ sản phẩm cho phù hợp.
Thị trường trong nước là cầu nối giữa người sản xuất và người tiêu dùng, là thước đo đánh giá độ tin cậy của người tiêu dùng đối với nhà sản xuất. Tiêu thụ được nhiều sản phẩm chứng tỏ phạm vi tiêu dùng của các giá trị sử dụng của sản phẩm được mở rộng, cho thấy uy tín của doanh nghiệp được nâng cao, có cơ sở vững chắc để mở rộng sản xuất tạo ra sự cân đối cung cầu trên thị trường trong nước, xóa bỏ tư tưởng sính dùng hàng ngoại trong nhân dân.
Thị trường trong nước là tấm gương phản chiếu tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, thông qua thị trường này, người ta có thể đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh bằng một số chỉ tiêu( doanh số bán, quy mô thị trường, khối lượng và số lượng sản phẩm tiêu thụ…), qua đó thấy được và dự đoán được doanh nghiệp đó đang phát triển hay đang gặp nguy cơ khó khăn.
Hoạt động kinh doanh được tiến hành qua nhiều khâu kế tiếp nhau, các khâu có quan hệ chặt chẽ với nhau trong đó tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng và là khâu quan trọng nhất quyết định sự thắng lợi hay thất bại của doanh nghiệp. Đây là hoạt động nghiệp vụ cơ bản nhất chi phối và quyết định các nghiệp vụ khác, những hoạt động khác đều nhằm mục tiêu là tiêu thụ sản phẩm và thu được lợi nhuận. Vì vậy, mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đều hướng vào mục tiêu này và thông qua thị trường tiêu thụ sản phẩm.
2.2.3. Đối với nền kinh tế quốc dân.
Thị trường trong nướ