Đề tài Thực trạng và giải pháp phát triển xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Mỹ

Trong xu thế thế toàn cầu hoá, nền kinh tế thế giới bước vào thế kỷ 21, thì việc chủ động tham gia hội nhập kinh tế và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế là vấn đề đang được Đảng và nhà nước hết sức quan tâm. Với chủ chương mà Đảng và Nhà nước đề ra là: “ Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực,

doc15 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1337 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp phát triển xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Mỹ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Trong xu thế thế toàn cầu hoá, nền kinh tế thế giới bước vào thế kỷ 21, thì việc chủ động tham gia hội nhập kinh tế và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế là vấn đề đang được Đảng và nhà nước hết sức quan tâm. Với chủ chương mà Đảng và Nhà nước đề ra là: “ Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế và chất lượng sức cạnh tranh” thì Việt Nam cần phải thực hiện những biện pháp hữu hiệu nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu, đặc biệt thực hiện những giải pháp mở rộng thị trường nước ngoài nhằm tăng cường xuất khẩu, góp phần thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế của cả nước. Chính vì tầm quan trọng của xuất khẩu, đồng thời để nghiên cứu rõ hơn về xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam, đặc biệt xuất khẩu sang thị trường Mỹ, một thị trường đầy tiềm năng cho hàng xuất khẩu nước ta, nên em đã chọn đề tài: “ Xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Mỹ – Thực trạng và giải pháp phát triển” làm đối tượng nghiên cứu của mình. Nội dung tiểu luận được chia làm 3 chương: Chương I: Khái quát chung về xuất khẩu hàng hoá. Chương II: Xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường Mỹ. Chương III: Những vấn đề đặt ra và giải pháp phát triển xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường Mỹ. Chương I Khái quát trung về xuất khẩu hàng hoá 1) Khái niệm xuất khẩu hàng hoá. Xuất khẩu hàng hoá là việc mua bán trao đổi hàng hoá và dịch vụ của một nước này với một nước khác và dùng ngoại tệ hoặc các giấy tờ có giá khác làm phương tiện thanh toán và trao đổi. Hoạt động kinh doanh xuất khẩu là một hoạt động buôn bán thuộc phạm vi quốc tế, diễn ra trong nền kinh tế có thương mại quốc tế mở rộng và là hoạt động kinh doanh thương mại rất phức tạp gồm nhiều khâu khác nhau, vì vậy người kinh doanh xuất khẩu cần phải có kinh nghiệm và kiến thức nghiệp vụ vững chắc. 2) Vai trò của xuất khẩu hàng hoá trong nền kinh tế quốc dân. Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường mở cửa, hội nhập, giao lưu kinh tế quốc tế. Nhà nước ta đã chủ động thay đổi chiến lược kinh tế từ nhập khẩu sang hướng xuất khẩu, đây là con đường đúng đắn giúp cho nền kinh tế nước ta ngày càng phát triển. Vì vậy, việc đẩy mạnh xuất khẩu có vai trò rất quan trọng đối với phát triển kinh tế, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Xuất khẩu có một số vai trò cơ bản sau: 2.1. Xuất khẩu thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển. Xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất quá nhu cầu nội địa. Nhưng nền kinh tế nước ta hiện nay còn chậm phát triển, sản xuất về cơ bản là chưa đủ cho tiêu dùng. Vì vậy, việc đẩy mạnh xuất khẩu sẽ kích thích sản xuất hàng hoá phát triển cả về quy mô lẫn chất lượng hàng hoá. 2.2. Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường thì việc chuyển dịch cơ cầu kinh tế là rất quan trọng đối với phát triển kinh tế. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới là điều tất yếu đối với nền kinh tế nước ta. Việc đẩy mạnh xuất khẩu sẽ giúp cho Nhà nước ta chủ động chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng xuất khẩu, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế. 2.3. Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để thực hiện thành công công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong một thời gian ngắn, đòi hỏi nước ta phải có nguồn vốn lớn để nhập khẩu máy móc, trang thiết bị và công nghệ tiên tiến mà nước ta chưc tạo ra được để phục vụ cho sản xuất. Để có nguồn vốn này thì nước ta cần huy động bằng nhiều hình thức khác nhau như: đầu tư nước ngoài, vay nợ hoặc viện trợ và ngoại tệ thu được từ các nguồn khác... trong đó nguồn thu từ xuất khẩu là nguồn thu quan trọng. Nếu nguồn thu từ xuất khẩu cao thì nhà nước sẽ giảm được nguồn vay nợ và chủ động hơn trong việc đầu tư phát triển kinh tế của đất nước. 2.4. Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của người dân. Xuất khẩu càng nhiều thì việc sản xuất hàng hoá càng phải phát triển và cần phải có nhiều lao động cho sản xuất, do vậy nó sẽ tạo công ăn việc làm cho hàng triệu lao động với mức thu nhập không nhỏ sẽ giúp cải thiện đời sống của người lao động. Mặt khác, xuất khẩu còn tạo nguồn vốn để nhập khẩu các vật phẩm tiêu dùng mà nước ta chưa sản xuất được phục vụ đời sống và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dân hiện nay. 2.5. Xuất khẩu tạo điều kiện để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của đất nước. Xuất khẩu là một hoạt động kinh tế đối ngoại, khi xuất khẩu phát triển nó cũng thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại khác phát triển, giúp cho việc giao lưu kinh tế, văn hoá của nước ta với các nước bạn ngày càng thân thiết hơn và bình đẳng hơn trên thương trường quốc tế. …. 3) Các hình thức xuất khẩu. Việc xuất khẩu hàng hoá thường được áp dụng các hình thức cơ bản sau: 3.1. Xuất khẩu trực tiếp (direct export). Là hình thức xuất khẩu mà các nhà sản xuất kinh doanh xuất khẩu hàng hoá của mình trực tiếp cho người nhập khẩu mà không qua trung gian. Hình thức xuất khẩu trực tiếp có thể có nhiều rủi ro trong kinh doanh song nó lại có ưu điểm là giảm bớt được chi phí trung gian và từ đó tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Mặt khác, phương thức này giúp cho các doanh nghiệp liên hệ được trực tiếp với khách hàng và thị trường nước ngoài, tạo mối quan hệ hợp tác làm ăn lâu dài để từ đó có thể sản xuất và xuất khẩu hàng hoá theo đúng yêu cầu của khách hàng và phù hợp với thị trường. 3.2. Xuất khẩu gián tiếp (indirect export). Là hình thức xuất khẩu mà người xuất khẩu thông qua trung gian thương mại để xuất khẩu hàng của mình cho người nhập khẩu. Trung gian thương mại có vai trò là người trung gian thay cho người xuất khẩu tiến hành ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương và các thủ tục cần thiết để xuất khẩu hàng hoá và qua đó thu được một số tiền nhất định. Phương thức xuất khẩu này có mức độ rủi ro thấp, không cần bỏ vốn vào kinh doanh mà có thể thu về một khoản lợi nhuận đáng kể, song người sản xuất không tiếp súc trực tiếp được với khách hàng và thị trường và phải phụ thuộc vào trung gian. 3.3. Tái xuất khẩu (reexport). Là hình thức xuất khẩu hàng hoá mà trước đây đã nhập về và xuất khẩu cho người khác, không qua chế biến nhằm thu về một khoản ngoại tệ lớn hơn số vốn bỏ ra ban đầu. Hình thức giao dịch này thường có sự hợp tác giữa ba nước: nước xuất khẩu, nước tái xuất, nước nhập khẩu. Chương II Xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường Mỹ 1)Thực trạng về xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường mỹ. 1.1. Về kim ngạch xuất khẩu. Một số năm qua, thương mại Việt Nam đã đạt được thành công lớn trong việc thâm nhập thị trường Mỹ, đây là kết quả đáng khả quan. Năm Việt Nam xuất sang Mỹ ( tr USD) Việt Nam nhập từ Mỹ ( tr USD) Tổng kim ngạch (tr USD) 2004 5.275,8 1.163,4 6.439,2 2003 4.554,9 1.324,4 5.879,3 2002 2.394,8 580,0 2.974,8 2001 1.053,2 460,4 1.513,6 2000 821,3 367,5 1.188,8 1999 608,4 291,5 899,9 1998 554,1 273,9 828,0 1997 388,4 286,7 675,1 1996 331,8 616,6 948,4 Bảng 1: Kim ngạch thương mại hai chiều Việt Nam - Mỹ Dựa vào bảng trên ta thấy, Trong những năm qua, kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường Mỹ liên tục tăng nhanh, đặc biệt từ sau Hiệp định thương mại Việt - Mỹ (BTA) vào cuối năm 2001. Nếu như trước năm 2001, kim ngạch xuất khẩu vào Mỹ chưa đến 1 tỷ USD thì cho đến năm ngoái co số này đã lên đến hơn 5,2 tỷ USD, và trong năm nay dự kiến sẽ đạt khoảng 5,7 - 5,9 tỷ USD, đây là một kết quả đáng khả quan cho các mặt hàng xuất khẩu của nước ta vào thị trường Mỹ, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế của đất nước. 1.2. Về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu. Hiện nay, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của nước ta vào Mỹ ngày càng được cải thiện, có nhiều mặt hàng cùng với mẫu mã hàng hoá đa dạng. Một số nhóm hàng của ta xuất khẩu vào Mỹ có kim ngạch cao là dệt may, thuỷ sản, da giày… Riêng 3 nhóm hàng này đã đạt tổng kim ngạch gần 3 tỷ USD trong năm 2004 chiếm khoảng 57% kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của nước ta sang thị trường Mỹ. Hàng nông sản, thủ công mỹ nghệ cũng xuất khẩu được khối lượng lớn, nhưng vì giá rẻ nên kim ngạch không được cao. Một số nhóm hàng khác như thực phẩm chế biến, đồ nhựa, bao bì … có số lượng xuất khẩu không nhiều, chủ yếu là để chào hàng và thăm dò thị trường. Trong năm nay, một số mặt hàng xuất khẩu vào thị trường Mỹ nổi nên mạnh, đặc biệt là đồ gỗ, hàng giày dép và mặt hàng rau quả… Về mặt hàng giày dép, kim ngạch xuất khẩu 9 tháng đầu năn 2005 tăng khoảng 52% so với cùng kỳ năm ngoái ước đạt khoảng 450 triệu USD. Với tốc độ tăng trưởng như hiện nay, xuất khẩu giày dép nước ta sang Mỹ năm 2005 sẽ đạt khoảng 650 triệu USD tăng 60% so với năm 2004. Bên cạnh đó, xuất khẩu đồ gỗ sang thị trường Mỹ cũng tăng rất nhanh. Kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ sang thị trường Mỹ vào năm 2004 đạt 370 triệu USD, ước tính năm nay đạt khoảng 500 - 550 triệu USD. Các nguồn hàng chủ lực như dệt may, thuỷ sản… hiên đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Mặt hàng dệt may Việt Nam vẫn đang còn chịu hạn ngạch nên cạnh tranh vất vả hơn với các nước thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã thoát khỏi sự áp đặt này. ở mặt hàng thuỷ sản cũng đang gặp khó khăn do các vụ kiện từ phía Mỹ, do mặt hàng tôm Việt Nam bị áp thuế chống phá giá nên xuất khẩu vào Mỹ đã giảm 21% trong năm 2004 so với năm 2003. Trong những năm qua, tuy kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường Mỹ đã đạt được những thành tựu đáng kể như trên nhưng nó vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của Việt Nam cũng như với một thị trường Hoa Kỳ rộng lớn, đầy tiềm năng. Qua đó còn để lại nhiều mặt tồn tại, khó khăn, và thách thức mà nhà nước và các doanh nghiệp Việt Nam cần phải giải quyết. 2) Những khó khăn và tồn tại. Trong việc tiến hành các hoạt động thương mại với Hoa Kỳ, nước ta đang phải đối diện với nhiều khó khăn và thách thức. Khả năng cung cấp và xúc tiến xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều yếu kém. Bên cạnh những yếu kém mang tính phổ biến và truyền thống của các doanh nghiệp Việt Nam như chủng loại hàng hoá nghèo nàn, chất lượng và mẫu mã chưa phù hợp, giá cả không cạnh tranh, năng lực tiếp thị kém… thì một điểm yếu nổi bật của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường Mỹ là quy mô sản xuất và khả năng liên kết giữa các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu còn nhiều hạn chế. Mặt khác, hàng hoá của Việt Nam còn xuất khẩu sang Mỹ bằng hình thức xuất khẩu gián tiếp, tức là xuất khẩu với thương hiệu của một doanh nghiệp của nước khác, điều này đã làm cho hàng hoá của Việt Nam khó tiếp cận và tạo dựng được chỗ đứng trong thị trường Mỹ. Ngoài ra, các hoạt động xúc tiến thương mại ( tham gia hội chợ, triển lãm, tổ chức hội thảo…) còn chưa thực hiện được nhiều hoặc nếu có thì hiệu quả hoạt động còn chưa cao. Về thuế xuất nhập khẩu, hàng hoá của Việt Nam vẫn bị đối xử khác biệt khi thâm nhập vào thị trường Mỹ. Trước khi BTA có hiệu lực thì hàng hoá của Việt Nam vào thị trường Mỹ phải chịu mức thuế phân biệt, đối xử, cao hơn nhiều lần so với mức thuế tối huệ quốc (MFN). Đặc biệt là các sản phẩm chế tạo sử dụng nhiều lao động, trước đây phải chịu thuế xuất nhập khẩu là 40%, hiện nay mức thuế xuất chỉ còn 3 - 4%. Tuy nhiên, hiện nay một số chủng loại hàng hoá của Việt Nam vẫn phải chịu mức thuế cao hơn so với hàng cùng loại nhập từ các nước khác như các mặt hàng nông hải sản, cao su … Môi trường cạnh tranh trên thị trường Mỹ rất mạnh mẽ và quyết liệt. Mỹ là thị trường rộng lớn với sự phong phú và đa dạng về nhu cầu tiêu dùng nên hầu như các quốc gia trên thế giới đều hướng vào thị trường này. Các đối thủ cạnh tranh của Việt Nam đã tham gia vào thị trường Mỹ từ rất lâu và đã tạo dựng được hệ thống bán hàng nhập khẩu và phân phối. Bên cạnh đó, những nước có cơ cấu mặt hàng xuất khẩu tương tự Việt Nam như Trung Quốc, ấn Độ … thực sự là những đối thủ mà các doanh nghiệp Việt Nam rất khó có thể cạnh tranh. Khó khăn trong tìm hiểu hệ thống pháp luật liên quan đến hoạt động nhập khẩu của Mỹ. Hệ thống pháp luật của Mỹ rất phức tạp và chồng chéo, hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ phải chịu sự điều tiết của rất nhiều nguồn luật khác nhau. Thực tế cho thấy, trong mấy năm qua hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ do không hiểu rõ luật pháp cho nên đã bị Mỹ kiện rất nhiều. Các biện pháp bảo hộ sản xuất trong nước của Mỹ có xu hướng ngày càng gia tăng cả về số lượng cũng như sự tinh vi trong thực thi. Điển hình là hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ vẫn phải chịu hạn ngạch, với mức quy định hạn ngạch thấp hơn hiều so với năng lực xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ của Việt Nam. Mặt khác, các rào cản kỹ thuật cũng gây không ít khó khăn cho các mặt hàng xuất khẩu của nước ta. Mỹ đã đưa ra những yêu cầu kỹ thuật và an toàn đối với một số loại thực phẩm trong nhiều trường hợp là cao quá mức cần thiết. Bên cạnh đó, các tiêu chuẩn về lao động và mội trường yêu cầu một số mặt hàng phải đáp ứng được tiêu chuẩn SA8000 ( SA8000 là tiêu chuẩn đưa ra các yêu cầu về quản trị trách nhiệm xã hội, được xây dựng nhằm cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động ). Với trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam hiện nay thì không phải doanh nghiệp nào muốn xuất khẩu vào thị trường Mỹ cũng đều có thể đạt được tiêu chuẩn này. Chi phí và thời gian vận chuyển hàng hoá sang Mỹ còn nhiều bất cập. Cước phí vận chuyển hàng hoá từ Việt Nam sang Mỹ thường cao và thời gian vận chuyển cũng kéo dài. Điều này xuất phát từ thực tế nước ta vẫn chưa có tuyến đường vận tải biển và hàng không trực tiếp giữa hai nước mà thường phải chuyển tải qua nước thứ ba, thậm chí qua nước thứ tư, thứ năm. Điều này đã làm giảm sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam khi xuất khẩu sang Mỹ. Việt Nam vẫn bị Mỹ coi là nước có nền kinh tế phi thị trường. Lý do Mỹ đưa ra để giải thích cho việc coi Việt Nam là nước có nền kinh tế phi thị trường là mặc dù Việt Nam đã có những bước mở cửa đáng kể và đã cho phép có giới hạn luật cung cầu tác động đến sự phát triển kinh tế, song mức độ can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế vẫn còn ở mức làm cho giá cả và chi phí sản xuất không phải là thước đo thực sự đối với giá trị. Quyết định này khiến cho một số mặt hàng của nước ta xuất khẩu vào Mỹ gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là các mặt hàng thuỷ sản… Mâu thuẫn với các nhà nhập khẩu Mỹ về điều kiện thanh toán. Các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam do mới có quan hệ buôn bán trao đổi với các đối tác Mỹ nên thường yêu cầu các nhà nhập khẩu Mỹ thanh toán theo phương thức thư tín dụng trả ngay không huỷ ngang ( L/C at sight irrevocable ). Mặt khác, các nhà nhập khẩu Mỹ lại muốn thanh toán theo các phương thức khác như: D/A( Document against acceptance), D/P( Document against payment)… thuận tiện, đơn giản và đỡ tốn kém hơn, nhưng đây lại là phương thức thanh toán mà các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam chưa muốn áp dụng. … Trước những khó khăn và tồn tại trên, Nhà nước và các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam cần phải nhận thức được những yếu kém của mình để từ đó cùng nhau đưa ra các giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường Mỹ, có vậy mới đưa nền kinh tế của nước ta ngày càng hội nhập với nền kinh tế thế giới. Chương III Những vấn đề đặt ra và giải pháp phát triển xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường Mỹ 1) Những vấn đề đặt ra đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam. Ngày nay, một sản phẩm chỉ có thể chiếm lĩnh được thị trường khi hội tụ đủ các yếu tố cơ bản, bao gồm sự công nhận của người tiêu dùng, sự tự chứng nhận của nhà sản xuất và mức độ tiêu thụ trên thị trường. Một yếu tố quan trọng quyết định sự công nhận đó là chất lượng hàng hoá. Đặc biệt, người Mỹ coi chất lượng sản phẩm lên hàng đầu. Chính vì vậy, để hàng hoá của Việt Nam đứng vững được trên thị trường Mỹ thì trước hết là cần phải sản xuất ra các mặt hàng có chất lượng tốt đồng thời chủng loại và mẫu mã sản phẩm phải phù hợp với thị hiếu của người dân Mỹ. Các mặt hàng xuất khẩu phải có khả năng cạnh tranh trên thị trường Mỹ. Thị trường Mỹ là một thị trường rộng lớn ro đó có rất nhiều quốc gia đều hướng vào thị trường này, vì vậy khả năng cạnh tranh trên thị trường là rất khó khăn đối với hàng hoá của Việt Nam. Để đạt được điều này thì hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam cần phải đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn về hàng hoá của Mỹ cũng như của các tổ chức kiểm nghiệm quốc tế. Đây là vấn đề mà các doanh nghiệp Việt Nam cần phải nghiên cứu và thực hiện có hiệu quả hơn. … 2) Các giải pháp phát triển xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường Mỹ. 2.1. Về phía các doanh nghiệp xuất khẩu. Cần phải tăng cường nghiên cứu thị trường. Đây là nội dung có ý nghĩa quan trọng trong chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp. Để hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ ngày càng nhiều hơn thì các doanh nghiệp cần phải nghiên cứu kỹ hệ thống rào cản phi thuế quan với những chi tiết về danh mục hàng hoá, những mặt hàng hạn chế nhập khẩu và cấm nhập khẩu, hạn ngạch nhập khẩu, về những đạo luật của Mỹ như Luật chống phá giá, Luật thuế bù trừ, Luật chống khủng bố sinh học… Để hiểu rõ về hệ thống pháp luật của Mỹ cần thông qua nhiều con đường khác nhau, chẳng hạn như thông qua đối tác yêu cầu họ cung cấp các thông tin cần thiết hoặc thông qua các tổ chức kinh tế, thông qua đại sứ quán, lãnh sự quán và thương vụ Việt Nam tại Mỹ… Ngoài ra, cần phải am hiểu tường tận thị trường Mỹ thông qua việc nghiên cứu thận trọng cả bằng các tư liệu và cả trên thực tế như tìm hiểu nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng, đặc điểm của thị trường Mỹ, hiểu rõ xu hướng phát triển chung của thị trường đối với các danh mục sản phẩm xuất khẩu trong chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp… để từ đó đưa ra các phương hướng sản xuất hàng hoá xuất khẩu phù hợp với thị trường Mỹ. Xây dựng các chiến lược sản xuất các mặt hàng xuất khẩu đạt chất lượng cao. Các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam cần phải đạt được tiêu chuẩn ISO9000. Hơn nữa các sản phẩm sản xuất ra phải có tính cạnh tranh cao cả về chất lượng lẫn giá cả sản phẩm, cần phải cải tiến mẫu mã và hình thức của sản phẩm phù hợp với thị hiếu và nhu cầu của người dân Mỹ. Để đạt được điều này thì các doanh nghiệp cần sản xuất các mặt hàng xuất khẩu trên dây truyền hiện đại, kỹ năng và nghiệp vụ của công nhân cần phải được nâng cao… có vậy thì các sản phẩm của Việt Nam mới có thể tồn tại và đứng vững trên thị trường Mỹ. Tăng cường các hoạt động xúc tiến xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Các doanh nghiệp cần tổ chức xúc tiến trực tiếp thông qua khảo sát và tìm kiếm khách hàng trên thị trường Mỹ, tham gia tích cực vào các hội chợ triển lãm, tổ chức các cuộc hội thảo…Mặt khác các doanh nghiệp có thể tiếp thị các mặt hàng của mình thông qua mạng Internet bằng cách: Xây dựng trang Web của Công ty với thiết kế khoa học và gây được ấn tượng cho khách hàng. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần phải xây dựng và củng cố thương hiệu sản phẩm của mình trên thị trường Mỹ để duy trì và phát triển thị trường một cách lâu dài. Tăng cường và mở rộng các hoạt động thương mại điện tử, lựa chọn các phương thức xâm nhập thị trường Mỹ có hiệu quả, thông qua nhiều hình thức, đặc biệt hình thức xuất khẩu trực tiếp là con đường chính để các doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập vào thị trường Mỹ. …. 2.2. Về phía Nhà nước. Nhà nước cần phải thể hiện rõ vai trò của mình trong các hoạt động xuất khẩu. Nhà nước cần tạo môi trường thuận lợi, tạo động lực hỗ trợ cho các nhà kinh doanh xuất khẩu được thuận lợi. Cụ thể là: Nhà nước đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc tìm hiểu thị trường, tìm kiếm vốn, trợ giúp về mặt pháp lý, hỗ trợ thông tin…Xây dựng các trung tâm xúc tiến thương mại của Nhà nước làm cầu nối cho các doanh nghiệp ký kết các hợp đồng sản xuất và xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Nhà nước cần có các ưu đãi và hỗ trợ tài chính để các doanh nghiệp đổi mới và nâng cấp công nghệ sản xuất các mặt hàng xuất khẩu. Cần có các chính sách miễn giảm các loại thuế để khuyến khích các nhà sản xuất xuất khẩu hàng hoá của mình
Tài liệu liên quan