Logistics là một thuật ngữ xuất hiện từ khá sớm, bắt nguồn từ tiếng Pháp “loger” có nghĩa là đóng quân. Thuật ngữ logistics ban đầu được sử dụng như một từ chuyên môn trong quân đội, sau này dần được áp dụng trong các lĩnh vực kinh tế. Logistics phát triển nhanh chóng, khoảng ½ đầu thế kỷ 20 thuật ngữ logistics vẫn còn xa lạ với nhiều người thì đến cuối thế kỷ logistics được xem như là một chức năng kinh tế chủ yếu, một công cụ hữu hiệu mang lại thành công cho các doanh nghiệp sản xuất và dịch vụ.
Theo Ủy ban kinh tế xã hội Châu Á – Thái Bình Dương (ESCAP) logistics được phát triển qua 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Phân phối vật chất
Vào thập niên 70 của thế kỷ 20 người ta bắt đầt quan tâm đến vấn đề quản lý các hoạt động có liên quan với nhau một cách có hệ thống để đảm bảo hiệu quả cao nhất trong việc phân phối sản phẩm, hàng hoá cho khách hàng. Những họat động đó gồm: vận tải, bảo quản hàng hóa, quản lý hàng tồn kho, bao bì đóng gói, phân loại, dán nhãn.Những hoạt động nêu trên được coi là cung ứng sản phẩm vật chất hay còn gọi là logistic đầu ra.
Giai đoạn 2: Hệ thống Logistics
Diễn ra vào thập niên 80, 90 của thế kỷ 20. Điểm chính là có sự kết hợp 2 mặt: đầu vào (cung ứng vật tư) với đầu ra (cung ứng sản phẩm) để tiết kiệm chi phí, tăng thêm hiệu quả của quá trình logistics.
Giai đoạn 3: Quản trị dây chuyền cung ứng
Diễn ra vào những năm cuối của thế kỷ 20. Khái niệm đã phát triển mang tính chiến lược về quản trị chuỗi nối tiếp các hoạt động từ người cung cấp đến người sản xuất. Nó bao gồm cả các họat động đảm bảo cho hàng hóa lưu thông đến người tiêu dùng: cung cấp hệ thống theo dõi, cung cấp chứng từ, thông quan, .làm gia tăng giá trị sản phẩm. Khái niệm này coi trọng việc phát triển các quan hệ với đối tác, kết hợp chặt chẽ giữa người sản xuất với người cung cấp, người tiêu dùng và các bên liên quan như doanh nghiệp kinh doanh vận tải, kho bãi, giao nhận, nhà cung cấp công nghệ thông tin.
Hiện nay mỗi nghành nghề, lĩnh vực sản xuất kinh doanh đều có một khái niệm về logistics cho riêng mình. Như trong lĩnh vực sản xuất logistics được định nghĩa: “chuỗi hoạt động nhằm đảm bảo nguyên nhiên vật liệu, máy móc, thiết bị, các dịch vụ.” cho hoạt động của doanh nghiệp được tiến hành liên tục, nhịp nhàng và có hiệu quả.
42 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1441 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp thúc đẩy hoạt động logistics tại công ty cổ phần thương mại và liên vận quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG LOGISTICS TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN THƯƠNG MẠI VÀ LIÊN VẬN QUỐC TẾ
Lời mở đầu
Chương I: Tổng quan về hoạt động Logistics
Khái niệm, đặc điểm & phân loại
Khái niệm
Logistics là một thuật ngữ xuất hiện từ khá sớm, bắt nguồn từ tiếng Pháp “loger” có nghĩa là đóng quân. Thuật ngữ logistics ban đầu được sử dụng như một từ chuyên môn trong quân đội, sau này dần được áp dụng trong các lĩnh vực kinh tế. Logistics phát triển nhanh chóng, khoảng ½ đầu thế kỷ 20 thuật ngữ logistics vẫn còn xa lạ với nhiều người thì đến cuối thế kỷ logistics được xem như là một chức năng kinh tế chủ yếu, một công cụ hữu hiệu mang lại thành công cho các doanh nghiệp sản xuất và dịch vụ.
Theo Ủy ban kinh tế xã hội Châu Á – Thái Bình Dương (ESCAP) logistics được phát triển qua 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Phân phối vật chất
Vào thập niên 70 của thế kỷ 20 người ta bắt đầt quan tâm đến vấn đề quản lý các hoạt động có liên quan với nhau một cách có hệ thống để đảm bảo hiệu quả cao nhất trong việc phân phối sản phẩm, hàng hoá cho khách hàng. Những họat động đó gồm: vận tải, bảo quản hàng hóa, quản lý hàng tồn kho, bao bì đóng gói, phân loại, dán nhãn....Những hoạt động nêu trên được coi là cung ứng sản phẩm vật chất hay còn gọi là logistic đầu ra.
Giai đoạn 2: Hệ thống Logistics
Diễn ra vào thập niên 80, 90 của thế kỷ 20. Điểm chính là có sự kết hợp 2 mặt: đầu vào (cung ứng vật tư) với đầu ra (cung ứng sản phẩm) để tiết kiệm chi phí, tăng thêm hiệu quả của quá trình logistics.
Giai đoạn 3: Quản trị dây chuyền cung ứng
Diễn ra vào những năm cuối của thế kỷ 20. Khái niệm đã phát triển mang tính chiến lược về quản trị chuỗi nối tiếp các hoạt động từ người cung cấp đến người sản xuất. Nó bao gồm cả các họat động đảm bảo cho hàng hóa lưu thông đến người tiêu dùng: cung cấp hệ thống theo dõi, cung cấp chứng từ, thông quan, ....làm gia tăng giá trị sản phẩm. Khái niệm này coi trọng việc phát triển các quan hệ với đối tác, kết hợp chặt chẽ giữa người sản xuất với người cung cấp, người tiêu dùng và các bên liên quan như doanh nghiệp kinh doanh vận tải, kho bãi, giao nhận, nhà cung cấp công nghệ thông tin.
Hiện nay mỗi nghành nghề, lĩnh vực sản xuất kinh doanh đều có một khái niệm về logistics cho riêng mình. Như trong lĩnh vực sản xuất logistics được định nghĩa: “chuỗi hoạt động nhằm đảm bảo nguyên nhiên vật liệu, máy móc, thiết bị, các dịch vụ...” cho hoạt động của doanh nghiệp được tiến hành liên tục, nhịp nhàng và có hiệu quả.
Dưới góc độ quản trị chuỗi cung ứng thì: logistics là quá trình tối ưu hóa về vị trí, lưu trữ và chu chuyển các tài nguyên/ yếu tố đầu vào từ điểm xuất phát đầu tiên là nhà cung cấp, qua nhà sản xuất, người bán buôn, bán lẻ, đến tay người tiêu dùng cuối cùng, thông qua hàng loạt các hoạt động kinh tế (Logistics and Supply Chain Management – Ma Shuo - 1999).
Tuy nhiên khái niệm Logistics của hội đồng quản trị Logistics Mỹ (CLM) được chú ý nhiều nhất. CLM định nghĩa: “Quản trị Logistics là quá trình hoạch định, thực hiện và kiểm soát một cách có hiệu quả chi phí lưu thông, dự trữ nguyên vật liệu, hàng tồn kho trong quá trình sản xuất sản phẩm dòng thông tin tương ứng từ điểm xuất phát đầu tiên đến điểm tiêu dùng cuối cùng nhằm đáp ứng yêu cầu của khách hàng”.
Điều 223 Luật thương mại Việt Nam 2005 không định nghĩa Logistics mà định nghĩa dịch vụ Logistics như sau: “Dịch vụ Logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công đoạn bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hóa theo thỏa thuận của khách hàng để hưởng thù lao”.
Theo quan điểm “5 đúng” thì: “Logistics là quá trình cung cấp đúng sản phẩm đến đúng vị trí, vào đúng thời điểm với điều kiện và chi phí phù hợp cho khách hàng tiêu dùng sản phẩm”
Từ các khái niệm trên dù khác nhau về ngôn từ nhưng nội dung cơ bản của logistics chính là nghệ thuật tổ chức, thu thập điều hành một tập hợp các hoạt động dịch vụ, sản xuất, và thông tin xảy ra đồng thời, liên quan đến quá trình chu chyển nguyên vật liệu từ khâu mua sắm, qua quá trình lưu kho, sản xuất, và phân phối. Mục đích làm giảm tối đa chi phí phát sinh, tiết kiệm thời gian lưu chuyển đáp ứng tiến độ sản xuất cũng như phân phối kịp thời đáp ứng tốt nhất nhu cầu khách hàng.
Đặc điểm
Logistics có các đặc điểm sau:
Logistics là tổng hợp các hoạt động của doanh nghiệp trên các khía cạnh chính, đó là logistics sinh tồn, logistics hoạt động và logistics hệ thống.
Logistics sinh tồn có liên quan tới các nhu cầu cơ bản của cuộc sống như cần gì, cần bao nhiêu, khi nào cần... Đặc trưng của logistics sinh tồn là có thể dự đoán, tương đối ổn định. Logistics sinh tồn là hoạt động cơ bản của xã hội sơ khai và là thành phần thiết yếu trong một xã hội công nghiệp hóa, nó cung cấp nền tảng cho logistics hoạt động.
Logistics hoạt động mở rộng các nhu cầu cơ bản bằng cách liên kết nhiều hệ thống sản xuất sản phẩm. Logistics liên kết các nguyên liệu thô doanh nghiệp cần trong sản xuất và phân phối sản phẩm có được từ sản xuất. Xét theo khía cạnh này thì logistics hoạt động tương đối ổn định và có thể dự đoán được. Tuy nhiên Logistics hoạt động chỉ liên quan đến sự vận động và lưu kho của nguyên liệu vào trong, qua và đi ra khỏi doanh nghiệp, là nền tảng của logistics hệ thống.
Logistics hệ thống
Logistics là sự phát triển cao, hoàn chỉnh của dịch vụ giao nhận vận tải.
Logistics là sự phát triển toàn diện và khéo léo của vận tải đa phương thức.
Logistics có chức năng hỗ trợ các hoạt động của doanh nghiệp
Logistics là một nghành dịch vụ
Phân loại
Phân loại theo hình thức
Phân loại theo quá trình
Giới thiệu chung về công ty cổ phần thương mại và liên vận quốc tế
Lịch sử hình thành
Công ty cổ phần thương mại và liên vận quốc tế được thành lập từ năm 1999 theo quyết định thành lập doanh nghiệp số 0100300211 do sở kế hoạch đầu tư thành phố Hà Nội cấp, qua gần 8 năm xây dựng và trưởng thành công ty không ngừng lớn mạnh cả về quy mô và hiệu quả kinh doanh.
Tên giao dịch Quốc tế : Multi – Cargo Logistics JSC.
Trụ sở đăng ký kinh doanh tại số 145B Đốc Ngữ, Ba Đình, Hà Nội
Mã số thuế: 0101357221
Lĩnh vực kinh doanh chính của công ty là:
Thương mại: mua bán hàng hóa nông thổ sản, hàng tiêu dùng, hàng thủ công mỹ nghệ
Môi giới hàng hải: Nhờ mối quan hệ đa biên với người vận chuyển và người thuê tàu vận chuyển, công ty đã môi giới thành công nhiều chuyến tàu và nhiều lô hàng. Môi giới thuê tàu định hạn ở trong và ngoài nước.
Dịch vụ logistics:
Quản trị dây chuyền cung ứng
Quản lý các yêu cầu xếp hàng của khách hàng
Đóng hàng vào container
Cung cấp dịch vụ kho bãi và bảo quản hàng hóa
Phát hành vận đơn (HBL – house bill of lading) hoặc chứng từ nhận hàng (D/O: delivery order).
Nhận và kiểm tra chứng từ đến các bên liên quan
Gửi chứng từ tới các bên liên quan
Thông báo và quản lý tình hình hàng hóa của từng đơn hàng
Giao nhận hàng hóa quốc tế
Giao nhận hàng hóa bằng đường biển, đường hàng không.
Khai báo hải quan
Giao nhận hàng đến các sân bay, cảng biển
Vận tải liên hợp đường bộ, hàng không, đường biển.
Dịch vụ kho bãi và phân phối hàng hóa
Lưu trữ và bảo quản hàng hóa (hàng thông thường, hàng đông lạnh, hàng DG-danger goods)
Gom hàng: LCL, FCL for sea, air
Vận chuyển hàng hóa bằng xe ôtô tải, xe chở container, chuyên dụng
Đóng gói hàng hóa theo tiêu chuẩn XK và dỡ gói cho hàng NK
Dán nhãn hàng cho hàng NK cần dán tem theo tiêu chuẩn của HQ hoặc eHQ
Các dịch vụ khác: hàng hóa quá cảnh, vận tải nội địa, các dịch vụ gia tăng khác.
Giới thiệu nguồn lực công ty
2.1 Nguồn Vốn
Tổng số nguồn vốn công ty hiện có : 120,6 tỷ đồng
Tài sản cố định: 115 tỷ đồng
Tài sản lưu động: 5, 6 tỷ đồng
Trong đó bốn tự có là: 90, 6 tỷ đồng
Vốn huy động là: 30 tỷ đồng
Công ty đang sở hữu hệ thống ô tô tải trọng nhỏ vừa và lớn, và đội tàu biển gồm 7 chiếc với tải trọng từ 500 tấn đến 3.500 tấn. Đội tàu khai thác của Công ty tăng lên gấp 3,5 lần từ năm 1999 đến năm 2007
Năm
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
Số lượng tàu
2
3
3
4
4
5
6
6
7
Nguồn: Phòng kinh doanh – Công ty cổ phần và thương mại liên vận Quốc tế
Đội tàu công ty đang khai thác phát triển theo xu hướng tăng trọng tải tàu, tăng tốc độ, sử dụng những tàu chuyên môn hóa hẹp, chế tạo và ứng dụng những thiết bị tự động hóa quá trình vận hành các buồng máy. Độ tuổi trung bình là 15 tuổi, tương đối già so với mức trung bình trên thế giới. Là loại tàu có boong dùng để vận chuyển các loại hàng nông sản, hàng thủ công mỹ nghệ, hàng dệt may. Ngoài ra tàu có khả năng vận chuyển tốt các bao kiện dời như hàng điện tử.
Đặc điểm kỹ thuật của tàu.
STT
Tên tàu
Nơi sản xuất
Năm sản xuất
Trọng tải
(Tấn)
Tốc độ
(hải lý/giờ)
1
Hùng Vương 01
Việt Nam
1991
600
10
2
Hùng Vương
Việt Nam
1991
600
10
3
Hùng Vương
Việt Nam
1992
500
10
4
Hùng Vương
Việt Nam
1990
600
12
5
Tân Trào
Nga
1992
500
10
6
Bạch Long Vỹ
Phần Lan
1992
2000
12
7
Thắng Lợi
Nhật
1992
3.500
14
Nguồn: Phòng kinh doanh – Công ty cổ phần thương mại và liên vận Quốc tế
Tốc độ của tàu biển là một trong hai thông số kinh tế quan trọng nhất của con tàu đưa vào khai thác. Tốc độ tàu biển của đội tàu Công ty phần lớn đạt được 10 hải lý/giờ. Tốc độ trung bình của cả đội tàu là 11,14 hải lý/giờ. Tốc độ trung bình của đội tàu tương đối cao. Trọng tải 500 đến 600 tấn chiếm tỷ lệ lớn, đây là mức sức tải trung bình.
Nhìn chung đội tàu của công ty đang đưa vào khai thác và sử dụng có công nghệ kỹ thuật tương đối tốt, có một cơ cấu hợp lý về trọng tải, tốc độ của tàu còn ở mức trung bình, phù hợp với nguồn hàng, tuyến đường vận chuyển mà Công ty đang khai thác.
2.2 Nguồn nhân lực của Công ty.
Nguồn nhân lực là một trong 3 yếu tố của quá trình sản xuất và là yếu tố quyết định dù kỹ thuật hiện đại và hoàn hảo đến đâu thì yếu tố lao động vẫn giữ vai trò chủ đạo. Công ty đã bố trí số thuyền viên phù hợp với đặc điểm kỹ thuật của từng tàu. Thuyền viên trên tàu gồm: Cán bộ thủy thủ và nhân viên làm việc trên tàu. Cán bộ gồm có thuyền trưởng và máy trưởng, đại phó, phó 1, phó 2, phó 3, máy 1, máy 2, máy 3, điện trưởng. Tổng số thủy thủ, sỹ quan, thuyền trưởng, máy trưởng, thuyền viên của Công ty là 80 người. Cán bộ công nhận viên của Công ty làm việc ở khối hành chính văn phòng 60 người gồm nhân viên hành chính là 24 người, nhân viên kỹ thuật là 36 người.
- Trình độ học vấn:
Trình độ đại học và trên đại học là: 85
Trình độ cao đẳng là: 32 người
Trình độ trung cấp là: 23 người
- Cơ cấu theo độ tuổi và giới tính: 85% là nam giới, độ tuổi trung bình là 35,8.
Ban lãnh đạo của công ty gồm có một giám đốc và bốn phó giám đốc. Ban lãnh đạo của Công ty là những người có trình độ đại học và trên đại học, có năng lực quản lý, và được đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ.
Những con số đó nói lên CTCP thương mại và liên vận Quốc tế có một lực lượng lao động tương đối trẻ, có trình độ khoa học kỹ thuật đang độ tuổi sung sức trong sáng tạo và điều này thể hiện qua số lượng các sáng kiến kỹ thuật đang ở độ tuổi sung sức trong sáng tạo và điều này thể hiện qua số lượng các sáng kiến cải tiến kỹ thuật tăng lên trong những năm qua. Năm 1999 là năm mới thành lập Công ty, nhưng nhờ việc biết phát huy tính sáng tạo của CBCNV, ban lãnh đạo của Công ty đã nhận được 10 sáng kiến trong việc kết hợp vận chuyển hàng hai chiều, hay sáng kiến để tìm cách chở hàng từ nhiều nguồn khác nhau và tận dụng tối đa dung tích tàu, các sáng kiến hạn chế tới mức thấp nhất thời gian tàu chết nằm tại các bến cảng. Năm 2006 vừa qua,Công ty có trên 70% công nhân đạt lao động giỏi, 2 người được cấp bằng sáng tạo, 5 người đạt danh hiệu lao động đặc biệt giỏi.
Tuy nhiên bên cạnh đó thì nguồn nhân lực của CTCP thương mại và liên vận Quốc tế cũng có những mặt hạn chế. Đó là một bộ phận trong đội ngũ thủy thủ, thuyền viên chưa hiểu hết về luật Hàng Hải và khả năng ngoại ngữ còn yếu kém. Đó là nhược điểm mà Công ty cần phải khắc phục trong thời gian tới để ngày càng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của Công ty.
Chương II: Thực trạng hoạt động Logistics tại công ty Multi – Cargo Logistics
Kết quả hoạt động của công ty
1. Doanh thu
Theo kết quả doanh thu của công ty ở trên thì mức doanh thu của công ty tăng hàng năm. Trong đó tốc độ tăng cao nhất là vào năm 2005 (mức tăng là 6,5%) đạt mức doanh thu là 5,35 tỷ đồng. Tuy nhiên thì tốc độ tăng doanh thu năm 2003, năm 2006 lại có xu hướng giảm do sự biến động mạnh của thị trường vận tải Thế Giới, và năm 2006 còn do tốc độ tăng doanh thu và mức độ cạnh tranh hơn nhiều. Do đạt được kết quả khả quan về doanh thu nên công ty đã đóng góp ngày càng tăng cho ngân sách nhà nước.
Doanh thu một số dịch vụ của CTCP thương mại và liên vận quốc tế trong những năm vừa qua như sau
Doanh thu một số dịch vụ chính
Đơn vị: tỷ đồng
Dịch vụ
Doanh thu
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Vận chuyển
1,85
1,87
1,9
2,0
2,15
2,2
Môi giới hàng hải
0,82
0,85
0,975
1,0
1,175
1,2
Giao nhận
0,7
0,72
0,8
0,95
1,05
1,175
Kinh doanh kho vận
0,55
0,6
0.67
0.67
0,6
0,765
Các loại dịch vụ khác
0,33
0,46
0,355
0,37
0,375
0,31
Tổng doanh thu
4,25
4,5
4,7
5,0
5,35
5,65
Nguồn: Phòng kinh doanh – Công ty cổ phần thương mại và liên vận Quốc tế
Theo số liệu của phòng kế toán của công ty thì doanh thu của công ty trong nhiều loại hình dịch vụ thì dịch vụ vận chuyển chiếm tỷ lệ cao hơn nhất, sau đó là đến dịch vụ giao nhận, và tiếp theo đó là dịch vụ môi giới hàng hải, còn lại là các loại dịch vụ khác. Năm 2006 thì mức doanh thu của dịch vụ vận chuyển đóng góp vào doanh thu chung của công ty là 2,2 tỷ đồng chiếm 38,9%, dịch vụ Logistics là 1,2 tỷ đồng chiếm 21,3%, kinh doanh kho vận là 1,175 tỷ đồng chiếm 20,8%, dịch vụ môi giới hàng hải là 0,765 tỷ đồng chiếm 13,6%, còn lại là các dịch vụ khác là 0,31 tỷ đồng chiếm 5,4%.
2. Khối lượng vận chuyển
a. Tổng khối lượng vận chuyển
Trong các năm vừa qua thì Công ty hoàn thành kế hoạch đề ra về khối lượng vận chuyển. Từ những năm đầu mới thành lập Công ty đã vận chuyển được 300 nghìn tấn, cho đến năm 2006 thì khối lượng vận chuyển đã lên tới 450 nghìn tấn. Tốc độ tăng trung bình trong 7 năm qua la 5,6%. Khối lượng hàng hóa vận chuyển của công ty bao gồm có vận chuyển nội địa, vận chuyển xuất nhập khẩu, nhưng trọng đó thì vận chuyển nội địa chiếm tỷ lệ cao hơn. Tính trung bình các năm qua thì vận chuyển hàng nội địa chiếm khoảng 68%, còn xuất nhập khẩu chiếm khoảng 32%. Tuy nhiên trong tổng khối lượng vận chuyển của Công ty thì vận chuyển bằng cotainer chiếm tỷ lệ còn khá khiêm tốn. Mức vận chuyển bằng container của Công ty chiếm khoảng 5% trong tổng khối lượng vận chuyển.
Khối lượng vận chuyển hàng hóa trong nước tăng đều trong các năm qua, trong đó tốc độ cao nhất là là từ năm 2001 so với năm 2000 (tăng 7,5%). Trong thời gian gần đây, do mức độ cạnh tranh gay gắt trên thị trường, nên mức độ tăng khối lượng vận chuyển có những năm lại giảm dần.
Tổng khối lượng vận chuyển bằng đường biển của công ty
Năm
Tổng khối lượng vận chuyển
(nghìn tấn)
Tốc độ tăng hàng năm
(%)
2000
325
-
2001
350
7.14
2002
375
6.6
2003
390
3.8
2004
400
2,5
2005
420,5
4,8
2006
450
7,0
Nguồn: Phòng kinh doanh, CTCP thương mại và liên vận quốc tế
b. Khối lượng vận chuyển nội địa
CTCP thương mại và liên vận Quốc tế vận chuyển phần lớn hàng hóa nội địa. Khối lượng hàng hóa nội địa được vận chuyển chiếm 68%. Năm 2006, Công ty đã vận chuyển được 292,5 nghìn tấn vượt kế hoạch đề ra là 0,75 nghìn tấn.
Khối lượng vận chuyển hàng hóa nội địa của công ty
Đơn vị: nghìn tấn
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Khối lượng vận chuyển
221
238
255,6
273
280
290,145
292,5
Nguồn: Phòng kinh doanh – Công ty cổ phần thương mại và liên vận Quốc tế
c. Khối lượng vận chuyển xuất nhập khẩu
Trong các năm qua tính trung bình thì tốc độ tăng vận chuyển về khối lượng hàng hóa xuất khẩu là 6,3%. Trong đó thì tỷ lệ tăng cao nhất đó là từ năm 2006 so với năm 2005 mức tăng là 17,23%. Xu hướng chung trong các năm qua thì khối lượng vận chuyển tăng, tuy nhiên duy nhất là vào năm 2003 thì mức tăng trưởng vận chuyển là âm, khối lượng vận chuyển xuất nhập khẩu của công ty vào năm 2003 giảm 2,4 triệu tấn. Ngoài nguyên nhân trong nước là mức độ cổ phần hóa của các doanh nghiệp nhà nước tăng, thì nguyên nhân quan trọng đó là vào khoảng thời gian này thị trường Hàng hải thế giới đang có những bước phát triển mới. Do vậy các Công ty của nước ngoài đã giành được những ưu thế cạnh tranh rất mạnh, điều đó đã ảnh hưởng rất lớn đến việc kinh doanh. Nhưng trong những năm sau Công ty đã nắm bắt được xu hướng phát triển của thị trường trong nước và thế giới, từ đó ban lãnh đạo công ty đã đề ra các biện pháp kịp thời để không để xảy ra tình trạng như trên. Và trong các năm tiếp theo khối lượng vận chuyển XNK đã tăng lên, với mức tỷ lệ là 2,5% vào năm 2004, 7,94% vào năm 2005, và đặc biệt 17,23% vào năm 2006. Trong tổng khối lượng vận chuyển hàng hóa XNK, thì phần lớn là vận chuyển hàng hóa XK, vận chuyển hàng hóa NK là rất nhỏ.
Tuy nhiên tốc độ tăng của CTCP thương mại và liên vận Quốc tế không ổn định, thậm chí có năm tăng trưởng âm (năm 2003 là – 2,051%). Đây là một hạcn chế mà công ty cần phải khắc phục trong thời gian tới. Trong 2 năm gần đây, năm 2005 và năm 2006 tốc độ tăng tương đối cao, đặc biệt là năm 2006 đạt tới 17,23%.
Đối với việc vận chuyển hàng hóa XNK thì công ty thường dùng tàu có trọng tải từ 500 tấn đến 600 tấn để vận chuyển các hàng rời. Đó là các tàu: Hùng Vương 01, 02, 03, 04 và tàu Tân Trào. Vì việc vận chuyển hàng rời là những mặt hàng có giá trị thấp, không cần tàu vận chuyển có trọng tải và tốc độ cao. Các mặt hàng rời công ty thường vận chuyển đó là ngô, khoai, sắn, than, khoáng sản, cát sỏi. Còn đối với mặt hàng xuất khẩu có giá trị cao như: Dệt may, thủ công mỹ nghệ, hàng điện tử thì công ty thường sử dụng tàu container để vận chuyển, đó là các tàu Thắng lợi (Trọng tải 2000 tấn) và tàu Bạch Long Vỹ (tàu container trọng tải 3500 tấn). Đó là những tàu có tốc độ vận chuyển và mức độ an toàn đảm bảo hàng hóa cao hơn.
Khối lượng hàng hóa XNK
Khối lượng vận chuyển hàng hóa XNK
(nghìn tấn)
Tốc độ tăng (giảm) hàng năm
(%)
2000
104
-
2001
112
+7,14
2002
119,4
+6,19
2003
117
-2,051
2004
120
+2,5
2005
130,355
+7,94
2006
157,5
+17,23
Nguồn: Phòng kinh doanh – Công ty cổ phần thương mại và liên vận Quốc tế
Tổng giá trị hàng XK cao do Công ty vận chuyển hầu hết là các mặt hàng thế mạnh của Việt Nam. Đó là các mặt hàng: dệt may, mây tre…Đây là một trong những nguyên nhân tăng thêm sức cạnh tranh của công ty. Trong cơ cấu đối tượng vận chuyển của công ty, hàng dệt may chiếm tỷ trọng lớn nhất chiếm 30%, mặt hàng thủ công mỹ nghệ đứng thứ hai chiếm 10%. Tuy nhiên các mặt hàng có giá trị cao như dầu thô, máy móc thiết bị, hoặc các mặt hàng xuất khẩu với khối lượng lớn như lúa gạo thì công ty vận chuyển ít. Nguyên nhân chính là do hạn chế về đội tàu của công ty với tuổi tàu già so với mức trung bình
Khối lượng xuất khẩu một số hàng hóa (Năm 2006)
Đơn vị: nghìn tấn
Mặt hàng chính XK
Khối lượng vận chuyển
Dệt may
30
Nông sản
25
Thủ công mỹ nghệ
10,82
Mây tre
8,75
Hàng khô
3,5
Nguồn: Phòng kinh doanh – Công ty cổ phần thương mại và liên vận Quốc tế
3. Về tuyến vận chuyển
Tuyến vận chuyển phản ánh cự ly hay quãng đường mà tàu thực hiện việc vận chuyển hàng hóa. Một doanh nghiệp có dịch vụ vận tải biển phát triển khi mà đội tàu của doanh nghiệp đó hoạt động được nhiều tuyến khác nhau
Các tuyến vận chuyển nội địa
So với tổng các tuyến vận chuyển của công ty thì các tuyến vận chuyển nội chiếm tỷ lệ cao hơn hẳn. Trong các tuyến vận chuyển nội điạ của công ty chủ yếu là tuyến Bắc – Nam chiếm tỷ lệ lớn (chiếm trên 50%), tuyến vận chuyển Trung – Nam chiếm tỷ lệ thấp nhất. Các tuyến chính trong tuyến vận chuyển nội địa là Hải Phòng – Thanh phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng – Đà Nẵng, Hải Phòng – Cần Thơ, Hải Phòng – Quảng Ninh và các tuyến ngược lại
Các