Đề tài Thực trạng và giải pháp Xoá đói giảm nghèo ở huyện Như Thanh – Thanh Hoá

Đói nghèo là một vấn đề xã hội mang tính toàn cầu. Những năm gần đây, nhờ những chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế nước ta đã có những bước chuyển mình rất quan trọng. Đặc biệt là vào năm 2006 nước ta đã chính thức là thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại lớn nhất thế giới WTO. Những nhân tố đó đã làm cho nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng nhanh, đại bộ phận đời sống nhân dân đã được nâng lên một cách rõ rệt. Song, một bộ phận không nhỏ dân cư đặc biệt là dân cư ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa. đang chịu cảnh nghèo đói, chưa đảm bảo được những điều kiện tối thiểu của cuộc sống như ăn, ở, mặc, đi lại. Chính vì vậy, sự phân hoá giàu nghèo ở nước ta ngày càng diễn ra mạnh mẽ. Nó không chỉ là mối quan tâm hàng đầu của những nước có nền kinh tế phát triển trên thế giới, mà đối với nước ta khi nền kinh tế đang có sự chuyển mình thì vấn đề phân hoá giàu nghèo càng được chú trọng hàng đầu. Để có thể hoàn thành mục tiêu quốc gia là Xoá đói giảm nghèo thì thì trước tiên phải rút ngắn sự phân hoá giàu nghèo. Đây không chỉ là nhiệm vụ của bộ máy lãnh đạo mà còn là nhiệm vụ của toàn thể nhân dân. Phải phát huy truyền thống tinh hoa văn hoá người Việt trong nhiệm vụ xoá đói giảm nghèo. Như Thanh - Thanh Hoá là một huyện miền núi thuộc tỉnh Thanh Hoá, huyện cũng có một nét chung đối với tất cả các địa phương khác đó là tình trạng nghèo đói vẫn còn tồn tại. Đời sống một bộ phận nhân dân vẫn đang rất khó khăn yếu kém. Điều này cũng là một tất yếu đối với một huyện miền núi mà nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp.Huyện mới được thành lập từ năm 1997 từ việc chia tách từ huyện Như Xuân. Do đó, công tác xoá đói giảm nghèo đặc biệt quan tâm nhất là từ năm 1997 đến nay. Xoá đói giảm nghèo là một trong những chính sách xã hội cơ bản hướng vào phát triển con người, nhất là người nghèo, tạo cơ hội cho họ tham gia vào quá trình phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, để cho người nghèo có cơ hội và điều kiện tiếp cận các dịch vụ xã hội phát triển sản xuất tự vươn lên thoát khỏi nghèo đói.Như Thanh - Thanh Hoá là một trong những huyện sớm triển khai thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo. Từ những năm 1999 Hội đồng nhân dân huyện đã có Nghị quyết số 2159/NĐ/HĐND ngày 21/10/1999 về một số biện pháp, chính sách thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo, Uỷ ban nhân dân huyện đã quyết định thành lập Ban chỉ đạo xoá đói giảm nghèo từ các huyện đến các xã, dành nhiều ngân sách đầu tư cơ sở hạ tầng xã nghèo, lập quỹ cho vay Xoá đói giảm nghèo , xây dựng các mô hình xoá đói giảm nghèo.

docx72 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2755 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp Xoá đói giảm nghèo ở huyện Như Thanh – Thanh Hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Trang MỤC LỤC 1 LỜI MỞ ĐẦU 1 Phần 1: Sự cần thiết phải xoá đói giảm nghèo. 7 1. Khái niệm. 7 1.1. Khái niệm nghèo, đói: 7 1.1.1. Theo quan niệm của Quốc tế. 7 1.1.2. Quan niệm đói nghèo của Việt Nam (Theo Chương trình Quốc gia Xoá đói giảm nghèo giai đoạn 2001-2005 và phương hướng từ năm 2006-2010 của Thủ tướng Chính phủ năm 2000). 9 1.1.3. Một số khái niệm liên quan. 10 1.1.4. Phương pháp xác định chuẩn nghèo đói và chuẩn mực nghèo đói giai đoạn 2001-2005 và 2006-2010. 12 1.1.5. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xoá đói giảm nghèo. 13 1.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nước và địa phương về công tác xoá đói giảm nghèo. 14 2. Các yếu tố ảnh hưởng đến đói nghèo. 15 2.1.Yếu tố khách quan. 15 2.2. Yếu tố chủ quan 17 3. Ảnh hưởng của đói nghèo đến đời sống xã hội. 17 4. Kinh nghiệm xoá đói giảm nghèo của các nước trên thế giới và của các địa phương trong nước. 19 4.1. Kinh nghiệm Xoá đói giảm nghèo của một số nước trên thế giới. 19 4.2. Kinh nghiệm Xoá đói giảm nghèo của một số địa phương trong nước. 20 5. Sự cần thiết phải xoá đói giảm nghèo ở huyện Như Thanh - Thanh Hoá. 23 Phần 2: Đánh giá thực trạng đói nghèo ở huyện Như Thanh - tỉnh Thanh hoá giai đoạn 2001-2005. 25 I. Đặc điểm của huyện Như Thanh - Thanh Hoá. 25 1. Đặc điểm tự nhiên. 25 2. Đặc điểm kinh tế. 25 3. Đặc điểm văn hoá, xã hội. 26 II. Đánh giá thực trạng đói nghèo ở huyện Như Thanh - Thanh Hoá. 27 1. Quy mô đói nghèo giai đoạn 2002-2006. 27 1.1. Giai đoạn 1997-2004. 27 1.2. Giai đoạn 2005-2006. 31 2. Cơ cấu đói nghèo phân theo các tiêu chí. 35 2.1.Cơ cấu hộ nghèo phân theo loại hình kinh tế và đối tượng xã hội: 36 2.2. Cơ cấu tổng thu của nông hộ nghèo theo ngành nghề. 38 2.3. Cơ cấu thu nhập của các nông hộ nghèo. 40 2.4.Cơ cấu chi tiêu của các nông hộ nghèo. 43 3. Phân bố đói nghèo trong huyện. 45 4. Các nguyên nhân đói nghèo. 47 4.1. Đối với Việt nam nói chung. 48 4.1.1.Nguyên nhân lịch sử, khách quan: 48 4.1.2.Nguyên nhân chủ quan: 49 4.2. Nguyên nhân gây ra tình trạng nghèo đói ở huyện Như Thanh - Thanh Hoá. 50 4.2.1. Nhóm nguyên nhân do điều kiện kinh tế- xã hội. 50 4.2.2. Do cơ chế chính sách chậm đổi mới và thiếu đồng bộ. 51 4.2.3. Nguyên nhân chủ quan thuộc về người nghèo: 52 5. Đánh giá hiệu quả của các chính sách Xoá đói giảm nghèo của huyện và tỉnh trong những năm qua 52 5.1. Chính sách hỗ trợ về y tế. 52 5.2. Chính sách hỗ trợ về tín dụng cho hộ nghèo 55 5.3. Chính sách hỗ trợ người nghèo về nhà ở. 58 5.4. Một số phong trào điển hình. 59 III. Một số biện pháp nhằm nâng cao công tác xoá đói giảm nghèo ở huyện Như Thanh - tỉnh Thanh Hoá. 60 1. Nhóm giải pháp cơ bản thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo. 60 1.1. Nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách. 60 1.1.1. Chính sách hỗ trợ về kinh tế. 60 1.1.2. Chính sách hỗ trợ về giáo dục. 60 1.1.3. Chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn. 60 1.1.4. Chính sách hỗ trợ người nghèo về nhà ở. 60 1.1.5. Các chính sách an sinh xã hội. 61 2. Nhóm giải pháp thông qua thực hiện các dự án. 61 2.1. Nhóm các dự án giảm nghèo chung. 61 2.1.1. Dự án tín dụng ưu đãi hộ nghèo. 61 2.1.2. Hướng dẫn hộ nghèo cách làm ănvà khuyến nông, khuyến ngư. 61 2.1.3. Xây dựng mô hình xoá đói giảm nghèo ở các xã nghèo. 61 2.2.1. Cho vay vốn tín dụng ưu đãi. 62 2.2.2. Hướng dẫn cách làm ăn cho hộ nghèo. 62 2.2.3. Nhân rộng các điển hình sản xuất có hiệu quả, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương. 62 2.4. Các chính sách về giáo dục cho người nghèo. 63 3. Dự kiến kết quả. 63 4. Những kiến nghị, đề xuất. 65 4.1. Kiến nghị đối với Nhà nước 65 4.2. Kiến nghị đối với tỉnh Thanh hoá. 65 4.3. Kiến nghị đối với Uỷ ban nhân dân huyện Như Thanh - Thanh Hoá. 66 KẾT LUẬN. 67 TÀI LIỆU THAM KHẢO 69 BẢN CAM ĐOAN 71 DANH MỤC BẢNG BIỂU, TÀI LIỆU THAM KHẢO Trang Sơ đồ 1.1: Ảnh hưởng của nghèo đói đến đời sống xã hôi. 14 Bảng 1.2:Bảng tổng hợp hộ nghèo đói qua từ năm1997 đến năm 2002 24 Bảng 2.2: Tổng hợp hộ nghèo còn lại năm 2005 theo tiêu chí cũ 26 Bảng 3.2: Chỉ tiêu phân loại hộ nghèo theo tiêu chí mới áp dụng cho các địa phương trong nước.(Đơn vị : đồng). 28 Bảng 4.2:Tổng hợp hộ nghèo năm 2006 theo tiêu chí mới 29 Bảng 5.2 : Thống kê các hộ nghèo năm 2006 30 Bảng 6.2 : Cơ cấu hộ nghèo phân theo loại hình kinh tế và đối tượng xã hội - năm 2005 32 Bảng 7.2: Cơ cấu tổng thu của nông hộ nghèo năm 2005 - theo ngành nghề 34 Bảng 8.2: Cơ cấu thu nhập của các nông hộ nghèo năm 2005 37 Bảng 9.2: Cơ cấu chi tiêu của các nông hộ nghèo (năm 2005) 40 Bảng 10.2 : Phân bố hộ nghèo theo đối tượng năm 2005. 42 Bảng 11.2 : Phân bố các hộ nghèo trong huyện năm 2005. 43 Bảng 12.2:Dự kiến kết quả đạt được trong năm 2007. 60 LỜI MỞ ĐẦU Đói nghèo là một vấn đề xã hội mang tính toàn cầu. Những năm gần đây, nhờ những chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế nước ta đã có những bước chuyển mình rất quan trọng. Đặc biệt là vào năm 2006 nước ta đã chính thức là thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại lớn nhất thế giới WTO. Những nhân tố đó đã làm cho nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng nhanh, đại bộ phận đời sống nhân dân đã được nâng lên một cách rõ rệt. Song, một bộ phận không nhỏ dân cư đặc biệt là dân cư ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa... đang chịu cảnh nghèo đói, chưa đảm bảo được những điều kiện tối thiểu của cuộc sống như ăn, ở, mặc, đi lại... Chính vì vậy, sự phân hoá giàu nghèo ở nước ta ngày càng diễn ra mạnh mẽ. Nó không chỉ là mối quan tâm hàng đầu của những nước có nền kinh tế phát triển trên thế giới, mà đối với nước ta khi nền kinh tế đang có sự chuyển mình thì vấn đề phân hoá giàu nghèo càng được chú trọng hàng đầu. Để có thể hoàn thành mục tiêu quốc gia là Xoá đói giảm nghèo thì thì trước tiên phải rút ngắn sự phân hoá giàu nghèo. Đây không chỉ là nhiệm vụ của bộ máy lãnh đạo mà còn là nhiệm vụ của toàn thể nhân dân. Phải phát huy truyền thống tinh hoa văn hoá người Việt trong nhiệm vụ xoá đói giảm nghèo. Như Thanh - Thanh Hoá là một huyện miền núi thuộc tỉnh Thanh Hoá, huyện cũng có một nét chung đối với tất cả các địa phương khác đó là tình trạng nghèo đói vẫn còn tồn tại. Đời sống một bộ phận nhân dân vẫn đang rất khó khăn yếu kém. Điều này cũng là một tất yếu đối với một huyện miền núi mà nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp.Huyện mới được thành lập từ năm 1997 từ việc chia tách từ huyện Như Xuân. Do đó, công tác xoá đói giảm nghèo đặc biệt quan tâm nhất là từ năm 1997 đến nay. Xoá đói giảm nghèo là một trong những chính sách xã hội cơ bản hướng vào phát triển con người, nhất là người nghèo, tạo cơ hội cho họ tham gia vào quá trình phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, để cho người nghèo có cơ hội và điều kiện tiếp cận các dịch vụ xã hội phát triển sản xuất tự vươn lên thoát khỏi nghèo đói.Như Thanh - Thanh Hoá là một trong những huyện sớm triển khai thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo. Từ những năm 1999 Hội đồng nhân dân huyện đã có Nghị quyết số 2159/NĐ/HĐND ngày 21/10/1999 về một số biện pháp, chính sách thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo, Uỷ ban nhân dân huyện đã quyết định thành lập Ban chỉ đạo xoá đói giảm nghèo từ các huyện đến các xã, dành nhiều ngân sách đầu tư cơ sở hạ tầng xã nghèo, lập quỹ cho vay Xoá đói giảm nghèo , xây dựng các mô hình xoá đói giảm nghèo... Với lí do trên và qua tìm hiểu thực tế về các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác Xoá đói giảm nghèo ở huyện Như Thanh - Thanh Hoá. Kết hợp với việc nghiên cứu các số liệu về thu nhập, việc làm, đời sống vật chất, tinh thần của hộ nghèo nói riêng và của nhân dân trong huyện nói chung. Với tư cách là một sinh viên thực tập tại huyện em nhận thấy vấn đề nghèo đói của huyện là rất phổ biến, cần phải có những bước đi thật chính xác mới có thể khắc phục được. Chính vì vậy em đã chọn đề tài chuyên đề thực tập là: Thực trạng và giải pháp Xoá đói giảm nghèo ở huyện Như Thanh – Thanh Hoá. Do phạm vi nghiên cứu và thời gian tìm hiểu có hạn nên chuyên đề thực tập không thể tránh được những thiếu sót hạn chế. Em rất mong sự đóng góp ý kiến của giáo viên hướng dẫn thực tập tốt nghiệp và các chú các anh công tác tại phòng Nội vụ- Lao động Thương binh và Xã hội để chuyên đề của em được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn thực tập tốt nghiệp: PGS.TS. Trần Xuân Cầu , các chú, các anh đang công tác tại phòng Nội vụ- LĐTB&XH huyện Như Thanh - Thanh Hoá- đã hướng dẫn em trong suốt quá trình thực hiện chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Phần 1: Sự cần thiết phải xoá đói giảm nghèo. 1. Khái niệm. 1.1. Khái niệm nghèo, đói: 1.1.1. Theo quan niệm của Quốc tế. - Theo Uỷ ban kinh tế xã hội khu vực Châu Á - Thái Bình Dương (ESCAP): Nghèo đói là trạng thái môt bộ phận dân cư không được hưởng và thão mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của địa phương. Khái niệm nghèo đói có thể chia theo hai cách khác nhau: Nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối. Nghèo tương đối là sự thõa mãn chưa đầy đủ nhu cầu cuộc sống của con người như: cơm ăn chưa ngon, quần áo chưa mặc đẹp, nhà ở chưa k hang trang... hay nói cách khác là có sự so sánh về thoã mãn các nhu cầu cuộc sống giữa người này với người khác, vùng này với vùng khác. Hộ nghèo tương đối không phải là đối tượng chủ yếu của chương trình. Để giải quyết nghèo tương đối có chương trình, giải pháp khác tác động đến như: Chương trình cho vay vốn giải quyết việc làm, phát triển kinh tế trang trại, cho vay của ngân hàng chính sách, ngân hàng Nông nghiệp. Trong những xã hội được gọi là thịnh vượng, nghèo được định nghĩa dựa vào hoàn cảnh xã hội của cá nhân. Nghèo tương đối có thể được xem như là việc cung cấp không đầy đủ các tiềm lực vật chất và phi vật chất cho những người thuộc về một số tầng lớp xã hội nhất định so với sự sung túc của xã hội đó. Nghèo tương đối có thể là khách quan, tức là sự hiện hữu không phụ thuộc vào cảm nhận của những người trong cuộc. Người ta gọi là nghèo tương đối chủ quan khi những người trong cuộc cảm thấy nghèo không phụ thuộc vào sự xác định khách quan. Bên cạnh việc thiếu sự cung cấp vật chất (tương đối), việc thiếu thốn tài nguyên phi vật chất ngày càng có tầm quan trọng hơn. Việc nghèo đi về văn hóa-xã hội, thiếu tham gia vào cuộc sống xã hội do thiếu hụt tài chính một phần được các nhà xã hội học xem như là một thách thức xã hội nghiêm trọng. Nghèo tuyệt đối là sự không thoã mãn những nhu cầu tối thiểu của con người để duy trì cuộc sống như: Cơm ăn không đủ no, áo không đủ mặc, nhà cửa không bảo đảm chống được mưa nắng, thiên tai bão lũ...không so sánh với ai khác nhưng bản thân họ không đủ lượng calo cần thiết để duy trì cuộc sống. Hộ nghèo tuyệt đối là đối tượng chủ yếu của chương trình, mục tiêu xoá đói giảm nghèo phải tác động. Để xem xét mức độ nghèo đói chúng ta cần thước đo gọi là chuẩn nghèo. - Để có một cái nhìn tổng quan về các vấn đề của các nước đang phát triển, Ngân hàng thế giới, đã đưa ra khái niệm nghèo tuyệt đối. Định nghĩa khái niệm nghèo tuyệt đối như sau: "Nghèo ở mức độ tuyệt đối...là sống ở ranh giới ngoài cùng của tồn tại. Những người nghèo tuyệt đối là những người phải đấu tranh để sinh tồn trong các thiếu thốn tồi tệ và trong tình trạng bỏ bê và mất phẩm cách vượt quá sức tưởng tượng mang dấu ấn của cảnh ngộ may mắn của giới trí thức chúng ta." Ranh giới cho nạn nghèo tương đối dựa vào nhiều số liệu thống kê khác nhau cho một xã hội. Một con số cho ranh giới của nạn nghèo được dùng trong chính trị và công chúng là 50% hay 60% của thu nhập trung bình. Vì thế từ năm 2001 trong các nước thành viên của Liên minh Châu Âu những người được coi là nghèo khi có ít hơn 60% trị trung bình của thu nhập ròng tương đương. Lý luận của những người phê bình cho rằng con số này trên thực tế cho biết rất ít về chuẩn mực cuộc sống của con người. Những ai hiện tại có ít hơn 50% của thu nhập trung bình thì cũng vẫn có ít hơn 50% của trung bình khi tất cả các thu nhập đều tăng gấp 10 lần. Vì thế những người đó vẫn còn là nghèo tương đối. Và khi những người giàu bỏ đi hay mất tiền của thì sẽ giảm trung bình của thu nhập đi và vì thế làm giảm thiểu nghèo tương đối trong một nước. Ngược lại nghèo tương đối sẽ tăng lên khi một người không nghèo có thể tăng được thu nhập ngay cả khi những người có thu nhập khác vẫn không có thay đổi. Người ta còn phê bình là ranh giới nghèo trộn lẫn vấn đề nghèo với vấn đề phân bố thu nhập. Vì một sự phân chia rõ ràng giữa nghèo và giàu trên thực tế không có nên khái niệm ranh giới nguy cơ nghèo cũng hay được dùng cho ranh giới nghèo tương đối. Ngược với ranh giới nghèo tương đối, các phương án tính toán ranh giới nghèo tuyệt đối đã đứng vững. Các ranh giới nghèo tuyệt đối được tính toán một cách phức tạp bằng cách lập ra những giỏ hàng cần phải có để có thể tham gia vào cuộc sống xã hội. Các ranh giới nghèo tương đối và nghèo tuyệt đối đều không có thể xác định được nếu như không có trị số tiêu chuẩn cho trước. Việc chọn lựa một con số phần trăm nhất định từ thu nhập trung bình và ngay cả việc xác định một giỏ hàng đều không thể nào có thể được giải thích bằng các giá trị tự do. Vì thế mà chúng được quyết định qua những quá trình chính trị. 1.1.2. Quan niệm đói nghèo của Việt Nam (Theo Chương trình Quốc gia Xoá đói giảm nghèo giai đoạn 2001-2005 và phương hướng từ năm 2006-2010 của Thủ tướng Chính phủ năm 2000). - Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có khả năng thõa mãn một phần các nhu cầu cơ bản của con người và có mức sống ngang bằng với mức sống tối thiểu của cộng động xét trên mọi phương diện. - Đói là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối thiểu, không đảm bảo nhu cầu vật chất để duy trì cuộc sống. - Xóa đói giảm nghèo là một chiến lược của Chính Phủ Việt Nam nhằm giải quyết vấn đề đói nghèo và phát triển kinh tế tại Việt Nam. Đói nghèo là vấn đề ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững, đồng thời là vấn đề xã hội nhạy cảm nhất. Không thể lãng quên nhóm cộng đồng yếu thế, ít cơ hội theo kịp tiến trình phát triển mà Chính phủ với việc cải cách, sửa đổi những khiếm khuyết của thể chế kinh tế để nhóm nghèo đói tự vươn lên xoá đói giảm nghèo. 1.1.3. Một số khái niệm liên quan. - Hộ nghèo: Là những hộ có thu nhập bình quân đầu người trong hộ dưới ngưỡng đói nghèo. Theo quyết định số 1143/2000/QĐ-LĐTBXH ngày 01/11/2000 của Bộ trưởng Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội, chuẩn nghèo giai đoạn 2001-2005 được quy định cho mức thu nhập bình quân đầu người trong hộ cho từng vùng như sau: + Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: 80.000 đồng/người/ tháng. + Vùng nông thôn đồng bằng: 100.000 đồng/người/tháng. + Vùng thành thị: 150.000 đồng/người/tháng. Những hộ có mức thu nhập bình quân đầu người dưới mức quy định nêu trên được xác nhận là hộ nghèo. Chuẩn nghèo thay đổii theo thời gian chứ không cố định. Căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế- xã hội, địa phương nào có đủ điều kiện sau đây có thể nâng chuẩn nghèo lên để phù hợp với thực tế của địa phương đó: + Thu nhập bình quân đầu người cao hơn thu nhập bình quân của cả nước. + Có tỷ lệ hộ nghèo thấp hơn tỷ lệ hộ nghèo trung bình của cả nước. + Tự cân đối được ngân sách và tự giải quyết được các chính sách đói nghèo theo chuẩn nâng lên. - Xã nghèo: Theo Quyết định số 587/2002/QĐ-LĐTBXH ngày 22/05/2002 của Bộ trưởng Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội về việc ban hành tiêu chí xã nghèo giai đoạn 2001-2005. Quy định xã nghèo là xã có: + Tỷ lệ hộ nghèo từ 25% trở lên. + Chua đủ 3 trong 6 hạng mục cơ sở hạ tầng thiết yếu (Bao gồm đường giao thông, trường học, trạm y tế, điện sinh hoạt, nước sạch, chợ). Cụ thể là: Dưới 30% số hộ sử dụng nước sạch. Dưới 50% số hộ sử dụng điện sinh hoạt. Chưa có đường ô tô đến trung tâm xã hoặc ô tô không đi lại được cả năm. Số phòng học( Theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo) chỉ đáp ứng được dưới 70% nhu cầu của học sinh hoặc phòng học tạm bợ bằng tranh tre, nứa, lá. Chưa có trạm y tế xã hoặc có nhưng là nhà tạm. Chưa có chợ hoặc chợ tạm bợ. - Hộ vượt nghèo hay hộ thoát nghèo: Là những hộ mà sau một qúa trình thực hiện chương trình Xoá đói giảm nghèo cuộc sống đã khá lên và mức thu nhập đã ở trên chuẩn mực nghèo đói. Hiện nay, ở một số địa phương có sử dụng khái niệm hộ thoát(hoặc vượt) đói và họ thoát nghèo. Hộ thoát nghèo đương nhiên không còn là hộ đói nghèo nữa. Trong khi đó, hộ thoát nghèo đói có thể đồng thời thoát hẳn nghèo(ở trên chuẩn nghèo), nhưng đa số trường hợp thoát đói(rất nghèo) nhưng vẫn ở trong tình trạng nghèo. - Số hộ nghèo giảm hay tăng trong một khoảng thời gian: Là hiếu số giữa tổng số hộ nghèo ở thời điểm đầu và cuối. Như vậy, giảm số hộ đói nghèo khác với khái niệm số hộ vượt nghèo và thoát nghèo. Số hộ thoát nghèo là số hộ ở đầu kỳ nhưng đến cuối kỳ vượt ra khỏi ngưỡng nghèo. Trong khi đó, số hộ nghèo giảm đi trong kỳ chỉ phản ánh đơn thuần chênh lệch về mặt số lượng hộ nghèo, chưa phản ánh thật chính xác kết quả của việc thực hiện chương trình. - Hộ tái nghèo: Là hộ vốn dĩ trước đây thuộc hộ nghèo và đã vượt nghèo nhưng do nguyên nhân nào đó lại rơi vào cảnh đói nghèo. Ý nghĩa của khái niệm này là phản ánh tính vững chắc hay tính bền vững của các giải pháp xoá đói giảm nghèo. Thực tế cho thấy, hầu hết các hộ tái nghèo chính là do gặp thiên tai bất khả kháng. - Hộ nghèo mới hay là hộ mới vào danh sách nghèo: Là những hộ ở đầu kì không thuộc danh sách đói nghèo nhưng đến cuối kỳ lại là hộ nghèo. Như vậy, hộ mới bước vào danh sách nghèo bao gồm những hôn như sau: Hộ nghèo chuyển tiếp từ nơi khác đến; hộ nghèo tách hộ; hộ trung bình khá vì một lý do nào đó lại trở thành hộ nghèo hoặc hộ tía nghèo. 1.1.4. Phương pháp xác định chuẩn nghèo đói và chuẩn mực nghèo đói giai đoạn 2001-2005 và 2006-2010. * Phương pháp xác định chuẩn nghèo đói: Có 3 căn cứ quan trọng để xác định chuẩn nghèo đói: - Căn cứ vào nhu cầu tối thiểu, nhu cầu này được lượng hoá bằng mức chi tiêu về lương thực,thực phẩm thiết yếu để duy trì cuộc sống với nhiệt lượng tiêu dùng từ 2.100-2.300 Kcal/người/ngày. - Căn cứ vào mức thu nhập bình quân đầu người/tháng. Trong đó đặc biệt quan tâm đến thu nhập bình quân đầu người/tháng của nhóm có thu nhập thấp(20 % số hộ). - Căn cứ vào nguồn lực thực tế của quốc gia, của từng địa phương đã được cụ thể hoá bằng mục tiêu chương trình quốc gia xoá đói giảm nghèo và chương trình của từng địa phương để thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo. Từ 3 căn cứ trên có thể cho thấy: + Xác định chuẩn nghèo đói phụ thuộc chủ yếu vào điều kiện kinh tế xã hội, phong tục tập quán của từng quốc gia, từng địa phương, song trong đó có một phần yếu tố chủ quan của các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách. + Chuẩn nghèo phụ thuộc vào yếu tố khách quan trong đó có một phần yếu tố chủ quan. * Chuẩn mực nghèo đói giai đoạn 2001-2005 và 2006-2010: Giai đoạn 2001-2005 Nông thôn miền núi, hải đảo: thu nhập bình quân 80.000 đ/người/tháng, hay 960.000đồng/người/năm được coi là nghèo. Nông thôn đồng bằng: Thu nhập bình quân 100.000đồng/người/tháng, hay 1.200.000đồng/người/năm được coi là nghèo. Khu vực thành thị: Thu nhập bình quân 150.000đồng/người/tháng, hay 1.800.000đồng/người/năm được coi là nghèo. Giai đoạn 2006-2010: Chuẩn nghèo chỉ áp dụng cho 2 khu vực là: Khu vực Nông thôn: Thu nhập bình quân 200.000đồng/người/tháng, được coi là nghèo. Khu vực thành thị: Thu nhập bình quân 260.000đồng/người/tháng, được coi là nghèo. 1.1.5. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xoá đói giảm nghèo. - T ăng trưởng kinh tế có vai trò vô cùng quan trọng đối với mỗi quốc gia. Nó là điều kiện cần thiết đầu tiên để khác phục tình trạng nghèo đói, lạc hậu, để cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống cho dân cư. - Xoá đói giảm nghèo gắn với tăng trưởng kinh tế. Bất cứ quốc gia nào cũng phải lấy nền quan tọng nhất của nó là phát triển tăng trưởng kinnh tế để xoá đói giảm nghèo, chỉ có tăng trưởng kinh tế m
Tài liệu liên quan