Đề tài Thực trạng và một vài giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng tại các cụm xã trọng điểm trên địa bàn tỉnh Sơn La

Cơ sở hạ tầng gắn liền với mọi hoạt động kinh tế xã hội, là nhân tố thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia, mỗi địa phương. Cho nên, để thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của bất kỳ một vùng lãnh thổ nào thì điều kiện đầu tiên và trước hết phải bắt đầu từ phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng. Hiện nay, phát triển kinh tế - xã hội của các vùng dân tộc miền núi của 6 tỉnh miền núi phía bắc nói chung, các vùng dân tộc miền núi của tỉnh Sơn La nói riêng đang là vấn đề cấp bách đặt ra. Là một tỉnh vùng cao biên giới, với một địa bàn nông thôn rộng lớn, nghèo nàn lạc hậu, kinh tế phát triển chậm, đời sống vật chất, văn hoá tinh thần của đồng bào còn hết sức khó khăn, nhất là các xã vùng III. Điều đáng chú ý là một trong những điều kiện để phát triển kinh tế xã hội là hệ thống cơ sở hạ tầng, cả phục vụ sản xuất và dân sinh ở đây đều vô cùng yếu kém. Đây có thể coi là một nguyên nhân cơ bản gây cản trở rất nhiều đến phát triển kinh tế xã hội ở vùng nông thôn miền núi nghèo nàn này.

doc126 trang | Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1273 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và một vài giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng tại các cụm xã trọng điểm trên địa bàn tỉnh Sơn La, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu 1- Tính cấp thiết của đề tài: Cơ sở hạ tầng gắn liền với mọi hoạt động kinh tế xã hội, là nhân tố thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia, mỗi địa phương. Cho nên, để thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của bất kỳ một vùng lãnh thổ nào thì điều kiện đầu tiên và trước hết phải bắt đầu từ phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng. Hiện nay, phát triển kinh tế - xã hội của các vùng dân tộc miền núi của 6 tỉnh miền núi phía bắc nói chung, các vùng dân tộc miền núi của tỉnh Sơn La nói riêng đang là vấn đề cấp bách đặt ra. Là một tỉnh vùng cao biên giới, với một địa bàn nông thôn rộng lớn, nghèo nàn lạc hậu, kinh tế phát triển chậm, đời sống vật chất, văn hoá tinh thần của đồng bào còn hết sức khó khăn, nhất là các xã vùng III. Điều đáng chú ý là một trong những điều kiện để phát triển kinh tế xã hội là hệ thống cơ sở hạ tầng, cả phục vụ sản xuất và dân sinh ở đây đều vô cùng yếu kém. Đây có thể coi là một nguyên nhân cơ bản gây cản trở rất nhiều đến phát triển kinh tế xã hội ở vùng nông thôn miền núi nghèo nàn này. Thời gian qua, với chủ trương phát triển kinh tế xã hội vùng dân tộc miền núi theo các cụm xã và trung tâm cụm xã, điều kiện cho phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng có nhiều tiến bộ đáng ghi nhận. Song mặt khác tình trạng đầu tư cho phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng còn rất nhiều yếu kém: mức đầu tư thấp, cơ cấu đầu tư không hợp lý lại yếu kém về trình độ quản lý và khai thác. Nên vấn đề đặt ra cho tỉnh trong thời gian tới là cần phải nhanh chóng khắc phục những yếu kém còn tồn tại trong đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng để khai thông các điều kiện cho thúc đầy phát triển kinh tế xã hội ở địa bàn này. Trước thực tế đó, em quyết định chọn đề tài: “Thực trạng và một vài giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng tại các cụm xã trọng điểm trên địa bàn tỉnh Sơn La”. 2 - Đối tượng và giới hạn nghiên cứu của đề tài: Đề tài tập trung nghiên cứu chủ yếu về tình hình đầu tư cho phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng ở các cụm xã trọng điểm trên địa bàn tỉnh Sơn La. 3 - Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài: Mục đích chủ yếu được xác định là: Thông qua nghiên cứu đề tài góp phần đánh giá tình hình và tìm ra những phương hướng và giải pháp chủ yếu để đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng ở địa bàn cụm xã trọng điểm của tỉnh Sơn La có hiệu quả hơn. Với mục đích trên, đề tài cần phải giải quyết những nhiệm vụ sau: - Khái quát những nhận thức về cơ sở hạ tầng và vai trò của nó với phát triển kinh tế xã hội ở địa bàn nông thôn miền núi. - Làm rõ thực trạng về đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng ở địa bàn cụm xã trọng điểm nói riêng, tỉnh Sơn La nói chung. - Đề xuất những phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng trên địa bàn những cụm xã trọng điểm này. 4. Kết cấu của đề tài: Với mục đích và nhiệm vụ đặt ra, ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, chuyên đề gồm 3 chương: Chương I: Một số vấn đề cơ bản về đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng tại các cụm xã trọng điểm ở khu vực miền núi vùng cao. Chương II: Thực trạng đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng tại các cụm xã trọng điểm trên địa bàn tỉnh Sơn La giai đoạn 1996-2001 Chương III: Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng tại các cụm xã trọng điểm trên địa bàn tỉnh Sơn la. Chương I Một số vấn đề cơ bản về đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng tại các cụm xã trọng điểm ở khu vực miền núi vùng cao I- Lý luận chung về đầu tư : 1. Khái niệm và bản chất của đầu tư phát triển : Đầu tư là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Nguồn lực đó có thể là tiền , tài nguyên thiên nhiên, sức lao động và trí tuệ... Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm tài sản tài chính ( tiền), tài sản vật chất (nhà máy,...), tài sản trí tuệ (trình độ văn hoá, chuyên môn) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện để làm việc có năng suất trong nền kinh tế xã hội. Trong những kết quả này, những tài sản tài chính, tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm đó có vai trò đặc biệt quan trọng nó đem lại lợi ích không chỉ cho cá nhân người đầu tư mà cho cả nền kinh tế. Trong nền kinh tế hoạt động đầu tư gồm 3 loại: - Đầu tư tài chính: đây là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi xuất định trước hoặc lãi xuất tuỳ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của công ty phát hành. Đặc điểm của đầu tư tài chính là không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của tổ chức cá nhân đầu tư. Vốn bỏ ra đầu tư được lưu chuyển dễ dàng khi cần có thể rút ra nhanh chóng điều này khuyến khích người có tiền bỏ ra đầu tư. Người đầu tư có thể đầu tư vào nhiều nơi và mỗi nơi có thể một ít tiền để phân tán rủi ro. - Đầu tư thương mại: là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra để mua hàng hoá và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua và khi bán. Đặc điểm của loại đầu tư này làm tăng giá trị tài sản tài chính của người đầu tư trong quá trình mua đi bán lại. ở đây chỉ có sự chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa giữa người bán với người đầu tư và người đầu tư với khách hàng của họ mà không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế. Thời gian thực hiện đầu tư và hoạt động của các kết quả đầu tư để thu hồi vốn đầu tư ngắn. Tính chất bất định trong đầu tư không cao đễ dự đoán và dự đoán dễ đạt độ chính xác cao. - Đầu tư phát triển : là quá trình chuyển hoá vốn bằng tiền thành vốn hiện vật, là quá trình chi dùng vốn nhằm tạo ra những yếu tố cơ bản của sản xuất kinh doanh, dịch vụ đời sống, tạo ra những tài sản mới và năng lực sản xuất mới cũng như việc duy trì những tiềm lực sẵn có của nền kinh tế. Xem xét lại 3 loại đầu tư trên thì chỉ có đầu tư phát triển là quan trọng nhất vì nó tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế và có thể duy trì tiềm lực hoạt động của những tài sản sẵn có của nền kinh tế. Do đó để phát triển và tăng trưởng kinh tế thì chỉ có hoạt động đầu tư phát triển còn 2 loại hoạt động đầu tư trên thì có tác dụng hỗ trợ cho đầu tư phát triển: hoạt động đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất do đầu tư phát triển tạo ra, còn hoạt động đầu tư tài chính là nguồn cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư phát triển. Như vậy, ta có thể định nghĩa về đầu tư phát triển như sau: Đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng sửa chữa nhà cửa và cấu trúc hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế - xã hội, tạo việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành viên. Tóm lại, muốn một đất nước, một vùng, một địa phương tăng trưởng và phát triển thì cần phải quan tâm đẩy mạnh hoạt động đầu tư phát triển. Trong phạm vi đề tài này do vấn đề quan tâm là đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội các vùng cụm xã thuộc miền núi vùng cao. Cho nên ta chỉ xem xét đến phạm trù đầu tư phát triển. 2. Đặc điểm của hoạt động đầu tư phát triển: Hoạt động đầu tư phát triển có những đặc điểm cơ bản sau: - Trong đầu tư phát triển thì tiền vốn, vật tư lao động cần thiết cho các công trình đầu tư thường rất lớn và nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. - Thời gian để tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi các thành quả của nó phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều năm tháng với nhiều biến động xảy ra . - Thời gian cần hoạt động có thể thu hồi vốn đã bỏ ra đối với các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất kinh doanh thường đòi hỏi nhiều năm tháng và do đó không tránh khỏi sự tác động hai mặt tích cực và tiêu cực của các yếu tố không ổn định về về tự nhiên, xã hội chính trị kinh tế... - Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài nhiều năm, có khi hàng trăm năm, có khi tồn tại vĩnh viễn . Điều này nói lên giá trị lớn lao của các thành quả đầu tư phát triển. - Kết quả của hoạt động đầu tư phát triển là các công trình sẽ hoạt động ngay tại nơi nó được tạo dựng nên . Do đó các điều kiện địa hình tại đó có ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện đầu tư cũng như tác dụng sau này của các kết quả đầu tư. - Mọi thành quả và hậu quả của quá trình thực hiện đầu tư chịu ảnh hưởng nhiều của yếu tố không ổn định theo thời gian và điều kiện địa lý của không gian. Với những đặc điểm cơ bản như vậy đặt ra cho quá trình quản lý hoạt động đầu tư phát triển phải chú ý quản lý về vốn, vật tư, lao động và thời gian như thế nào và cần phải làm gì để khắc phục một số rủi ro trong quá trình tiến hành hoạt động đầu tư. 3. Vai trò của hoạt động đầu tư với phát triển kinh tế - xã hội: Từ việc tìm hiểu bản chất của đầu tư phát triển ta thấy đầu tư phát triển là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá cho sự tăng trưởng. Vai trò của nó tác động đến nhiều mặt của nền kinh tế xã hội nhưng trong khuôn khổ của đề tài này xin được đề cập đến vai trò của đầu tư phát triển đối với sự phát triển kinh tế của đất nước nói chung, của địa phương và vùng lãnh thổ nói riêng. Trước hết, đầu tư là yếu tố quyết định sự tăng trưởng của nền kinh tế. Bởi vì bản chất của đầu tư phát triển là tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế cho nên khi nó tham gia vào quá trình sản xuất thì tạo ra các sản phẩm. Nên đứng trên toàn bộ nền kinh tế thì đầu tư phát triển tác động trực tiếp và gián tiếp đến sản lượng của nền kinh tế. Mà sản lượng của nền kinh tế lại chính là thước đo của sự tăng trưởng. Do đó có thể nói: đầu tư phát triển là “cái hích ban đầu” tạo đà cho sự tăng trưởng và thúc đẩy phát triển kinh tế. Thứ hai, đầu tư có vai trò thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế (gồm cơ cấu ngành, cơ cấu lãnh thổ, cơ cấu kinh tế trung ương và địa phương, cơ cấu thành phần kinh tế... ). Trong vấn đề này, cơ cấu đầu tư làm ảnh hưởng đến cơ cấu kinh tế, nếu biết cách điều hoà các hoạt động đầu tư thì đây sẽ là một công cụ hữu hiệu thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với quy luật phát triển và chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ. + Trong cơ cấu ngành đầu tư ảnh hưởng đến số lượng ngành và tỷ trọng phát triển của ngành, góp phần phát huy nội lực của mỗi ngành, nên trên con đường tất yếu để có tốc độ tăng trưởng nhanh là bằng cách tăng cường đầu tư tạo sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Thứ ba, đầu tư góp phần tạo ra sự cân đối trên phạm vi toàn nền kinh tế giữa các ngành, các vùng lãnh thổ. Điều này thể hiện rõ nhất trong việc tạo lập sự phát triển cân đối giữa các vùng nông thôn và thành thị, những vùng kém phát triển và phát triển. Đầu tư vào những vùng kém phát triển sẽ giúp cho các vùng này thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu, giúp phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, vị thế kinh tế , chính trị... giúp vùng có khả năng phát triển. Tăng cường đầu tư cho những vùng khó khăn, những vùng nông thôn kém phát triển sẽ giúp đẩy nhanh quá trình đô thị hoá nông thôn, thu hút lao động tạo việc làm và nâng cao dần thu nhập cho nhân dân, giảm dần khoảng cách phát triển giữa nông thôn và thành thị, thúc đẩy kinh tế xã hội ở những vùng nghèo, ít lợi thế phát triển nhất. Ngoài ra, đầu tư phát triển còn góp phần ổn định kinh tế - văn hoá - xã hội cho nhân dân, đảm bảo cho kinh tế phát triển bền vững. Vậy đầu tư phát triển là nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định tốc độ phát triển kinh tế của đất nước, của vùng, của địa phương. Đầu tư phát triển đúng hướng và có hiệu quả sẽ tạo ra năng lực mới làm chuyển dịch cơ cấu các thành phần kinh tế, các vùng, các lãnh thổ theo hướng CNH-HĐH đất nước. 4. Vốn và nguồn vốn đầu tư: Đầu tư phát triển có vai trò vô cùng quan trọng nhưng để tiến hành các hoạt động đầu tư thì cần thiết phải có vốn đầu tư. Theo nguồn hình thành và mục tiêu sử dụng thì: Vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ, là tiết kiệm của dân và vốn huy động từ nước ngoài cũng như từ các nguồn khác được đưa vào sử dụngtrong quá trình tái sản xuất mở rộng của xã hội, nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo tiềm lực mới cho nền sản xuất xã hội. Nội dung của vốn đầu tư bao gồm: - Chi phí để tạo ra các tài sản cố định mới hoặc bảo dưỡng sự hoạt động của các tài sản cố định có sẵn. - Chí phí để tạo ra hoặc tăng thêm các tài sản lưu động - Nguồn vốn đầu tư bao gồm vốn huy động từ trong nước và vốn huy động từ nước ngoài. Hai nguồn này có vai trò quan trọng đối với thúc đẩy phát triển kinh tế của một đất nước, vốn trong nước là chủ yếu, vốn nước ngoài là quan trọng. Với một nước đang phát triển như nước ta thì giải quyết tốt mối quan hệ giữa hai nguồn vốn này là cần thiết. Nguồn vốn trong nước bảo đảm cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế một cách liên tục, bền vững và không phụ thuộc. Nguồn vốn nước ngoài là nguồn vốn quan trọng bù đắp và bổ sung cùng vốn trong nước để tạo bước đà phát triển mạnh.. * Nguồn vốn trong nước bao gồm: + Vốn ngân sách Nhà nước : hiện nay gồm có hai loại chính là vốn đầu tư trực tiếp từ ngân sách và vốn đầu tư qua tín dụng đầu tư của Nhà nước . Nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ ngân sách Nhà nước chủ yếu được sử dụng cho xây dựng các công trình văn hoá xã hội, các công trình công cộng không có khả năng hay chậm thu hồi vốn, được dùng để đầu tư cho những vùng lãnh thổ nghèo nàn khó khăn như vùng sâu, vùng xa, vùng cao biên giới. Nguồn này đặc biệt có vai trò quan trọng trong đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, cả hạ tầng kinh tế và hạ tầng xã hội. Còn vốn đầu tư của Nhà nước qua tín dụng được thực hiện cho các công trình sản xuất kinh doanh có khả năng thu hồi vốn. + Vốn của các doanh nghiệp: vốn này được trích từ lợi nhuận để lại, vốn khấu hao, vốn tự có của doanh nghiệp, vốn vay, vốn liên doanh liên kết với các tổ chức trong và ngoài nước,... Vốn này phục vụu cho sản xuất kinh doanh của chính doanh nghiệp đó. + Vốn huy động của dân cư: vốn này có thể là tiền gửi tiết kiệm qua ngân hàng hay tiền, sức người, nguyên vật liệu... được nhân dân đóng góp khi tham gia các dự án có lợi ích thiết thực cho nhân dân. Những khoản đóng góp này có vai trò khá quan trọng và cần thiết đối với các dự án xây dựng công trình phúc lợi công cộng, các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng nhất là ở địa bàn nông thôn, vốn này đặc biệt tỏ ra có hiệu quả khi mà người dân nhận thức được lợi ích kinh tế của họ gắn với các loại dự án đó. * Vốn huy động từ nước ngoài: gồm vốn đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. + Vốn đầu tư gián tiếp: đây là nguồn vốn đầu tư dưới dạng viện trợ ( hoàn lại và không hoàn lại) hoặc cho vay ( cho vay ưu đãi và cho vay thông thường) của các Chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ. Vốn đầu tư gián tiếp thường lớn nên có tác dụng mạnh và nhanh đối với việc giải quyết dứt điểm các nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của các nước nhận đầu tư. Tiếp nhận đầu tư gián tiếp thường gắn với sự trả giá về mặt chímh trị và tình trạng nợ nần chồng chất nếu không thực hiện nghiêm ngặt chế độ trả nợ.Tuy nhiên, trong quá trình thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế ở các vùng nông thôn thì vốn này nhất là vốn ODA (viện trợ phát triển không chính thức của các nước công nghiệp phát triển) lại có vai trò khá quan trọng thông qua việc hỗ trợ đầu tư qua các dự án phát triển nông - lâm - ngư nghiệp và kinh tế nông thôn, các chương trình hỗ trợ cho các lĩnh vực xã hội. Đặc biệt là các khoản hỗ trợ hoàn lại trong ODA được sử dụng chủ yếu cho các chương trình và dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội như: giao thông vận tải, thuỷ lợi, ytế, giáo dục đào tạo, cấp thoát nước... + Vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài: là vốn của các doanh nghiệp và cá nhân người nước ngoài đầu tư sang và họ trực tiếp tham gia quản lý quá trình sử dụng và thu hồi vốn. Với vốn đầu tư loại này nước nhận đầu tư có thể tiếp thu được kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm quản lý kinh doanh của nước ngoài, giúp khai thác có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, giúp sử dụng vốn có hiệu quả và nâng cao tốc độ phát triển kinh tế. Nhưng vốn đầu tư này thường không đủ lớn để giải quyết dứt điểm từng vấn đề kinh tế xã hội của đất nước lại tập trung mạnh ở các vùng đô thị, các vùng phát triển năng động còn các vùng nông thôn, vùng cao miền núi thì không đáng kể. 5. Dự án và chu kỳ dự án: Qua nghiên cứu khái niệm và đặc điểm của hoạt động đầu tư có thể khẳng định lại rằng hoạt động đầu tư phát triển là việc bỏ một lượng vốn rất lớn vào thực hiện một hoạt động nào đó trong một thời gian tương đối dài để kỳ vọng có được lợi ích lớn hơn, trong quá trình thực hiện nó chịu sự tác động của nhiều yếu tố từ môi trường bên ngoài. Mà hoạt động đầu tư lại là hoạt động cho tương lai, do đó bản thân hoạt động đầu tư này chứa đựng rất nhiều yếu tố bất định, đó là những yếu tố làm cho hoạt động đầu tư thất bại, làm xuất hiện rủi ro và không chắc chắn. Vì vậy, để tiến hành một công cuộc đầu tư phải có sự chuẩn bị đầy đủ trên nhiều khía cạnh khác nhau, phải phân tích một cách đầy đủ các thông tin về hoạt động sẽ được đầu tư, cả những thông tin về quá khứ, hiện tại cũng như dự kiến tương lai. Quá trình chuẩn bị này chính là việc soạn thảo dự án đầu tư , sự thành công hay thất bại của mỗi công cuộc đầu tư sẽ được quyết định từ việc phân tích này chính xác hay không. Cho nên, để đảm bảo sự thành công cao nhất thì mọi công cuộc đầu tư đều phải được thực hiện theo dự án. Dự án đầu tư có thể được xem xét từ nhiều góc độ khác nhau: Xét về mặt hìmh thức, dự án đầu tư là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi tiết và có hệ thống các hoạt động và chi phí theo kế hoạch để đạt được những kết quả và thực hiện những mục tiêu nhất định trong tương lai. Trên góc độ quản lý, dự án đầu tư là một công cụ quản lý việc sử dụng vốn, vật tư, lao động để tạo ra các kết quả tài chính, kinh tế - xã hội trong một thời gian dài. Trên góc độ kế hoạch hoá, dự án đầu tư là công cụ thể hiện kế hoạch chi tiết của một công cuộc sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế xã hội, làm căn cứ cho việc ra các quyết định đầu tư và tài trợ. Dự án là một hoạt động kinh tế riêng biệt nhỏ nhất trong công tác kế hoạch hoá nền kinh tế nói chung. Về mặt nội dung, dự án đầu tư là một tập hợp các hoạt động cụ thể có liên quan với nhau được kế hoạch hoá nhằm đạt được những mục tiêu đã định bằng việc tạo ra các kết quả cụ thể trong một thời gian nhất định thông qua việc sử dụng các nguồn lực xác định. Dự án đầu tư là một công cụ để tiến hành các hoạt động đầu tư, do đó nó phải chứa đựng bên trong nó các yếu tố cơ bản của hoạt động đầu tư. Nó phải phản ánh các nhân tố cấu thành nên hoạt động đầu tư như: mục tiêu đầu tư là gì, nguồn lực và cách thức để đạt được mục tiêu đó, các kết quả cụ thể phải đạt được là gì. Để thực hiện tốt các công cuộc đầu tư thì khi lập dự án phải trả lời tốt các câu hỏi này. Chu kỳ dự án đầu tư: là các bước hoặc các giai đoạn mà một dự án phải trải qua bắt đầu từ khi dự án mới chỉ là ý đồ đến khi dự án hoàn thành chấm dứt hoạt động. Quá trình hình thành và thực hiện một dự án đầu tư thường trải qua 3 giai đoạn: chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và vận hành các kết quả đầu tư. Nội dung các bước công việc ở mỗi giai đoạn của các dự án đầu tư không giống nhau tuỳ thuộc vào lĩnh vực đầu tư, vào tính chất tái sản xuất, đầu tư dài hạn hay ngắn hạn... Nhưng một dự án đầu tư đầy đủ phải có các bước như theo bảng 1. Các bước công việc, các nội dung nghiên cứu ở các giai đoạn được tiến hành tuần tự nhưng không biệt lập mà đan xen gôí đầu cho nhau, bổ sung cho nhau nhằm nâng cao dần mức độ chính xác của các kết quả nghiện cứu và tạo điều kiện tiến hành nghiên cứu ở các bước sau. Bảng 1: Các bước công việc của một dự án đầu tư Chuẩn bị đầu tư  Thực hiện đầu tư  Vận hành kết quả đầu tư   Nghiên cứu phát hiện các cơ hội đầu tư  Nghiên cứu tiền khả thi sơ bộ lựa chọn d
Tài liệu liên quan