Nếu quan hệ giữa vợ chồng là quan hệ pháp lý hôn nhân thì quan hệ giữa cha, mẹ và con cái là quan hệ tràn đầy tình cảm yêu thương chăm sóc như một lẽ tự nhiên “cá chuối đắm đuối vì con”, nhưng lại đầy ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ trước xã hội. Có thể thấy rằng quan hệ cha, mẹ, con vừa có ý nghĩa quan trọng về mặt pháp lý vừa có ý nghĩa quan trọng về mặt xã hội.Từ những ngày còn xa xưa thì mối quan hệ giữa cha, mẹ, con đã là mối quan hệ thiêng liêng và cao cả, và cho đến ngày nay khi đất nước ngày càng phát triển về mọi mặt thì con người lại càng chú trọng và đề cao mối quan hệ trong gia đình. Quan hệ cha, mẹ, con xác lập sẽ được pháp luật và cộng đồng thừa nhận, là cơ sở để thực hiện tốt những quy định về nghĩa vụ và quyền nhân thân giữa cha, mẹ và con, nghĩa vụ và quyền về tài sản giữa cha, mẹ và con, về thừa kế tài sản. Bên cạnh đó quan hệ cha, mẹ con là điều kiện phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con và của con đối với cha, mẹ. Đồng thời khi có tranh chấp xảy ra giữa các thành viên trong gia đình thì mối quan hệ này sẽ là cơ sở để giải quyết nhanh chóng và kịp thời.
Đối với xã hội, việc xác định quan hệ cha, mẹ, con sẽ tạo lập được đơn vị là gia đình, gia đình là cơ sở, là tế bào của xã hội, gia đình có vai trò sản xuất ra con người duy trì nòi giống, tái sản xuất ra sức lao động bằng việc nuôi dưỡng, chăm sóc sức khỏe cho các thành viên, đồng thời giáo dục xã hội hóa con người. Cá nhân là thành viên của gia đình đồng thời là công dân của xã hội, vì vậy mỗi thành viên trong gia đình sẽ làm cho xã hội ngày càng tốt đẹp và phát triển mọi mặt.
Bên cạnh ý nghĩa quan trọng về mặt pháp lý và về mặt xã hội thì hệ thống pháp luật Việt Nam quy định về vấn đề xác định quan hệ cha, mẹ, con còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập. Pháp luật việt nam quy định chưa thực sự rõ ràng, còn tản mạn và chưa đầy đủ, thủ tục chưa nhất quán, còn nhiều chồng chéo, vướng mắc dẫn đến tình trạng khi xảy ra tranh chấp thì cơ quan chức năng còn lúng túng trong vấn đề áp dụng pháp luật. Từ thực tế đó dễ dẫn đến tình trạng không tuân thủ và chấp hành pháp luật của người dân khi xác định quan hệ cha, mẹ, con. Ví dụ như thực tế giải quyết các tranh chấp về xác định cha, mẹ, con ngoài giá thú rất phức tạp gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, thủ tục và vấn đề giải quyết tranh chấp về vấn đề nuôi con nuôi cung chưa rõ ràng, chưa đầy đủ.
Hiện nay, cả nước nói chung và tại địa bàn tỉnh Nghệ An nói riêng thực trạng về xác định quan hệ, cha, mẹ, con còn phức tạp và có xu hướng tăng cao.
34 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1834 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng xác định quan hệ cha, mẹ, con tại địa bàn tỉnh Nghệ An. Nguyên nhân và giải pháp hoàn thiện pháp luật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU.
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Nếu quan hệ giữa vợ chồng là quan hệ pháp lý hôn nhân thì quan hệ giữa cha, mẹ và con cái là quan hệ tràn đầy tình cảm yêu thương chăm sóc như một lẽ tự nhiên “cá chuối đắm đuối vì con”, nhưng lại đầy ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ trước xã hội. Có thể thấy rằng quan hệ cha, mẹ, con vừa có ý nghĩa quan trọng về mặt pháp lý vừa có ý nghĩa quan trọng về mặt xã hội.Từ những ngày còn xa xưa thì mối quan hệ giữa cha, mẹ, con đã là mối quan hệ thiêng liêng và cao cả, và cho đến ngày nay khi đất nước ngày càng phát triển về mọi mặt thì con người lại càng chú trọng và đề cao mối quan hệ trong gia đình. Quan hệ cha, mẹ, con xác lập sẽ được pháp luật và cộng đồng thừa nhận, là cơ sở để thực hiện tốt những quy định về nghĩa vụ và quyền nhân thân giữa cha, mẹ và con, nghĩa vụ và quyền về tài sản giữa cha, mẹ và con, về thừa kế tài sản... Bên cạnh đó quan hệ cha, mẹ con là điều kiện phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con và của con đối với cha, mẹ. Đồng thời khi có tranh chấp xảy ra giữa các thành viên trong gia đình thì mối quan hệ này sẽ là cơ sở để giải quyết nhanh chóng và kịp thời.
Đối với xã hội, việc xác định quan hệ cha, mẹ, con sẽ tạo lập được đơn vị là gia đình, gia đình là cơ sở, là tế bào của xã hội, gia đình có vai trò sản xuất ra con người duy trì nòi giống, tái sản xuất ra sức lao động bằng việc nuôi dưỡng, chăm sóc sức khỏe cho các thành viên, đồng thời giáo dục xã hội hóa con người. Cá nhân là thành viên của gia đình đồng thời là công dân của xã hội, vì vậy mỗi thành viên trong gia đình sẽ làm cho xã hội ngày càng tốt đẹp và phát triển mọi mặt.
Bên cạnh ý nghĩa quan trọng về mặt pháp lý và về mặt xã hội thì hệ thống pháp luật Việt Nam quy định về vấn đề xác định quan hệ cha, mẹ, con còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập. Pháp luật việt nam quy định chưa thực sự rõ ràng, còn tản mạn và chưa đầy đủ, thủ tục chưa nhất quán, còn nhiều chồng chéo, vướng mắc dẫn đến tình trạng khi xảy ra tranh chấp thì cơ quan chức năng còn lúng túng trong vấn đề áp dụng pháp luật. Từ thực tế đó dễ dẫn đến tình trạng không tuân thủ và chấp hành pháp luật của người dân khi xác định quan hệ cha, mẹ, con. Ví dụ như thực tế giải quyết các tranh chấp về xác định cha, mẹ, con ngoài giá thú rất phức tạp gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, thủ tục và vấn đề giải quyết tranh chấp về vấn đề nuôi con nuôi cung chưa rõ ràng, chưa đầy đủ.
Hiện nay, cả nước nói chung và tại địa bàn tỉnh Nghệ An nói riêng thực trạng về xác định quan hệ, cha, mẹ, con còn phức tạp và có xu hướng tăng cao.
2. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu:
Trong đề tài niên luận này nghiên cứu vấn đề “xác định quan hệ cha, mẹ, con- Lý luận và thực tiễn áp dụng tại địa bàn tỉnh Nghệ An”. Trên cơ sở nghiên cứu và tham khảo các tài liệu Luật hôn nhân và gia đình các năm 1959, 1986, 2000; Bộ luật tố tụng dân sự 2004; các nghị định, nghị quyết, thông tư… và nhiều tài liệu liên quan khác đến vấn đề xác đinh quan hệ cha, mẹ và con.
3. Phuong phap nghien cuu
4. Cơ cấu của niên luận:
Cơ cấu của niên luận ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo thì niên luận phần nội dung được chia ra làm hai chương:
Chương 1: Những quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề xác định quan hệ cha, mẹ, con.
Chương 2: Thực trạng xác định quan hệ cha, mẹ, con tại địa bàn tỉnh Nghệ An. Nguyên nhân và giải pháp hoàn thiện pháp luật.
Chương 1 : Cơ sở pháp lý về xác định quan hệ cha, mẹ, con.
Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt.
Gia đình là sự liên kết của nhiều người dựa trên cơ sở hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng, có quyền và nghĩa vụ tương ứng với nhau, cùng quết tâm giúp dỡ nhau về vật chất và tinh thần, xây dựng gia đình, nuôi dạy thế hệ trẻ dưới sự giúp đỡ của nhà nước và xã hội.
1.1. Một số khái niệm cơ bản.
1.1.1. Khái niệm, ý nghĩa của quyền làm cha, mẹ.
Quyền làm cha, mẹ là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ thương yêu, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con, giáo dục, tạo điều kiện cho con được phát triển lành mạnh, toàn diện cả về thể chất, trí tuệ và đạo đức.
1.1.2. Khái niệm, ý nghĩa của quan hệ cha, mẹ, con:
Quan hệ cha,mẹ,con là quan hệ tràn đầy tình cảm yêu thương chăm sóc như một lẽ tự nhiên ,nhưng lại đầy ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ trước xã hội.
1.1.3. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của việc xác định quan hệ cha, mẹ, con:
Xác định quan hệ cha, mẹ, con là một hành vi pháp lý do các cá nhân, cơ quan, tổ chức theo quy định của pháp luật có quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thừa nhận hoặc không thừa nhận quan hệ cha - con, mẹ - con về mặt pháp lý, nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ đối với con cái và ngược lại.
1.2. Sơ lược lịch sử phát triển của pháp luật Việt Nam về vấn đề xác định quan hệ cha, mẹ, con.
Trong thời kỳ Pháp thuộc, để xác định quan hệ cha, mẹ và con pháp luật hôn nhân và gia đình (Luật HN&GĐ) thời kỳ này đã dựa trên nguyên tắc suy đoán pháp lý xác định cha, mẹ cho con của Bộ Luật Dân Sự nước cộng hòa Pháp.
Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 chưa dự liệu về nội dung nguyên tắc suy đoán pháp lý xác định cha, mẹ cho con trong giá thú cũng như con ngoài giá thú mà chỉ quy định quyền được xác nhận cha mẹ của con ngoài giá thú.
Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 đã đưa ra được phương pháp suy đoán pháp lý xác định quan hệ cha, mẹ và con Điều 28 Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 quy định: “Con sinh ra trong thời kì hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kì đó là con chung của vợ chồng.”. Đối với việc xác định cha cho con ngoài giá thú, Điều 29, 31 LHNGĐ năm 1986 và Điều 72, 73, 74, 75 Dự thảo LHNGĐ mới chỉ quy định phạm vi chủ thể có quyền yêu cầu xác định mối quan hệ cha mẹ và con mà chưa quy định cụ thể những bằng chứng để xác định quan hệ đó.
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định khá chi tiết và cụ thể so với Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 về vấn đề xác định quan hệ cha, mẹ và con. Vấn đề này được quy định tại chương VII. Đồng thời cũng có nhiều nghị định, nghị quyết hướng dẫn thi hành các điều luật liên quan đến vấn đề này.
Luật HN&GĐ năm 1959 là đạo luật đầu tiên của nhà nước ta điều chỉnh vấn đề nuôi con nuôi. Trong Luật này, vấn đề nuôi con nuôi mới chỉ được quy định rất sơ sài bởi một điều luật (Điều 24). Theo quy định của điều luật này thì “việc nhận nuôi con nuôi phải được Ủy ban hành chính cơ sở mơi trú quán của người nuôi hoặc của đứa trẻ công nhận và ghi vào sổ hộ tịch”. Tuy nhiên, Luật HN&GĐ năm 1959 không có quy định gì về các điều kiện của việc nuôi con nuôi.
Luật HN&GĐ năm 1986 quy định về nuôi con nuôi trong một chương riêng, với quy định về tuổi của người được nhận làm con nuôi, ý chí của các bên và “việc nhận nuôi con nuôi phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận và ghi vào sổ hộ tịch”. Như vậy, Luật HN&GĐ năm 1959 và Luật HN&GĐ năm 1986 đều quy định việc nhận nuôi con nuôi phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận và ghi vào sổ hộ tịch thì mới có giá trị pháp lý.
Với các quy định tại Luật HN&GĐ năm 1959, Luật HN&GĐ năm 1986 như trên đã dẫn đến cách hiểu là việc nuôi con nuôi chỉ cần cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận và ghi vào sổ hộ tịch mà không bắt buộc phải đăng ký việc nuôi con nuôi như quy định tại Điều 72 Luật HN&GĐ năm 2000.
1.3.Vấn đề xác định quan hệ cha, mẹ, con theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành:
1.3.1. Căn cứ phát sinh quan hệ cha, mẹ, con : Quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con phát sinh dựa trên những sự kiện pháp lý nhất định do luật hôn nhân và gia đình quy định , đó là sự kiện sinh đẻ và sự kiện nhận nuôi con nuôi.
1.3.1.1. Quan hệ pháp luật giữa cha, mẹ, con phát sinh dựa trên sự kiện sinh đẻ.
Trong đời sống xã hội ,việc một người phụ nữ sinh con ,cho dù là kết quả của hôn nhân hợp pháp hay không hợp pháp với một người đàn ông là cơ sở làm phát sinh quan hệ giữa cha,mẹ và con .Ðó là mối liên hệ huyết thống tự nhiên theo quy luật sinh học .Quan hệ cha ,mẹ và con phát sinh không phụ thuộc vào hôn nhân của cha mẹ là hợp pháp hay không hợp pháp .Nhà nước bằng pháp luật phải quy định nguyên tắc suy đóan pháp lý xác định cha mẹ con .Vì đó là cơ sở nhằm xác thự mối quan hệ mẹ-con, cha-con , từ đó mới phát sinh các quyền và nghĩa vụ về nhân thân và tài sản trong quan hệ mẹ-con ,cha-con .Đồng thời nó còn là cơ sở pháp lý để Tòa án giải quyết các tranh chấp về việc xác định quan hệ cha ,me,con trong thực tế ,bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cha ,mẹ ,con .Ví dụ : Các tranh chấp về nuôi dưỡng ,cấp dưỡng , thừa kế giữa cha,mẹ và con , cũng như các thành viên khác trong gia đình được bảo đảm bằng pháp luật khi quan hệ pháp luật giữa cha ,mẹ và con được xác định .Tuy nhiên trong thực tiễn giải quyết các loại án kiện cha ,me, con rất phức tạp .
1.3.1.2. Quan hệ pháp luật giữa cha, mẹ và con phát sinh dựa trên sự kiện nhận nuôi con nuôi :
Nuôi con nuôi – một hiện tượng xã hội ,một chế định pháp lý đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử pháp luật Việt Nam. Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha ,mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi …; dựa trên ý chí chủ quan của các chủ thể tham gia quan hệ nuôi con nuôi.
Trước đây ,pháp luật của nhà nước thực dân phong kiến ở Việt Nam quy định chế định nuôi con nuôi thường xuất phát từ lợi ích của người nhận nuôi con nuôi; phân biệt đối xử giữa các con :con đẻ và con nuôi, con trai và con gái, con trong giá thú với con ngoài giá thú... việc nhận nuôi con nuôi nhằm nhiều mục đích bảo đảm quyền lợi của người nhận nuôi con nuôi (như nuôi con nuôi để có người thừa tự, nuôi con nuôi để có “người hầu kẻ hạ” trong gia đình; để có người làm công không phải trả tiền hoặc để “gánh vạ cho gia đình”)...
Chế định nuôi con nuôi được xác lập trong luật hôn nhân và gia đình nhà nước ta từ năm 1959 đến nay xuất phát trước tiên từ lợi ích của người con nuôi, đồng thời cũng bảo đảm lợi ích của người nhận nuôi con nuôi (Điều 24 Luật hôn nhân và gia đình năm 1959; Điều 34 Luật hôn nhân và gia đình năm 1986; Điều 67 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000). Việc nuôi con nuôi được quy định trong Luật hôn nhân và gia đình có ý nghĩa góp phần bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em; đồng thời giải quyết một phần hậu quả của cuộc chiến tranh xâm lược do đế quốc Mỹ gây trước đây. Vì vậy, mục đích của việc nuôi con nuôi theo điều 67 Luật hôn nhân và gia đình năm 200 quy định:
“1. Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho người được nhận làm con nuôi được trông nom nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội...
2. Nhà nước và xã hội khuyến khích việc nhận trẻ côi, trẻ bị bỏ rơi, trẻ bị tàn tật làm con nuôi .
3. Nghiêm cấm lợi dụng việc nuôi con nuôi để bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục, mua bán trẻ em hoặc vì mục đích trục lợi khác”.
Như vậy, quan hệ cha, mẹ, con trong trường hợp này được hình thành bằng con đường nuôi dưỡng để phân biệt với quan hệ giữa cha mẹ và con hình thành do quan hệ sinh đẻ. Nuôi con nuôi nhằm mục đích gắn bó, xác lập quan hệ gia đình giữa cha mẹ nuôi và con nuôi, đảm bảo cho đứa trẻ chưa thành niên được nhận làm con nuôi được nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục trong môi trường gia đình, hay nói cách khác là tạo cho trẻ em “một mái ấm gia đình” để phát triển hài hòa thể chất và nhân cách. Việc nuôi con nuôi phải xuất phát từ lợi ích của người con nuôi, đồng thời cũng đảm bảo quyền lợi của người nuôi cha, mẹ nuôi). Để việc nhận nuôi con nuôi có hiệu lực, phát sinh nghĩa vụ và quyền giữa cha mẹ nuôi và con nuôi trong quan hệ cha mẹ con, Luật hôn nhân và gia đình năm 200 quy định cụ thể các điều kiện để việc nuôi con nuôi hợp pháp cũng như vè hậu quả pháp lý và thủ tục chấm dứt việc nuôi con nuôi.
Điều kiện để việc nhận nuôi con nuôi hợp pháp. Trước hết, theo khoản 1 điều 67 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, việc nhận nuôi con nuôi nhằm mục đích xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho người được nhận làm con nuôi được trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội.
Điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi :
Theo quy định tại điều 68 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định:
“1. Người được nhân làm con nuôi phải là người từ 15 tuổi trở xuống.
Người trên mười lăm tuổi có thể được nhận làm con nuôi nếu là thương binh, người tàn tật, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc làm con nuôi của người già yếu, cô đơn.
2. Một người chỉ có thể làm con nuôi của một người hoặc của cả hai vợ chồng”.
Như vậy về độ tuổi con nuôi phải là người từ dưới mười lăm tuổi trở xuống( trừ trường hợp người được nhận làm con nuôi là thương binh, người tàn tật, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc làm con nuôi người già yếu, cô đơn). Một người chỉ có thể làm con nuôi của một người hoặc của hai vợ chồng hay nói cách khác một người không thẻ làm con nuôi của nhiều người cùng một lúc mà chỉ cò thể tham gia vào một quan hệ nuôi con nuôi với tư cách là con nuôi. Giữa con nuôi và ch mẹ nuôi có đầy đủ quyền và nghĩa vụ như giữa cha mẹ đẻ và con đẻ nên một người con không thể có hai người bố.
Điều kiện đối với người nhận nuôi con nuôi :
Theo quy định tại điều 69 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, người nhận nuôi con nuôi phải có đủ các điều kiện sau :
Có năng lực hành vi dân sự đầu đủ ;
Hơn con nuôi từ hai mươi tuổi trở lên ;
Có tư cách đạo đức tốt ;
Có điều kiện thực tế bảo đảm việc trông nom nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con nuôi ;
Không phải là người đang bị hạn chế một số quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên hoặc bị kết án mà chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi, hoặc hành hạ ông, ba, cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc, hoặc chứa chấp người chưa thành niên phạm pháp; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em; các tội xâm phạm tình dục đối với trẻ em; có hành vi xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội .
Theo điều 67 và điều 70 của luật hôn nhân và gia đình năm 2000 một người có thể nhận một người hoặc nhiều người làm con nuôi.Người nhận con nuôi có thể là một cặp vợ chồng hoặc một người độc thân. Trong trường hợp cả hai vợ chồng cùng nhận con nuôi thì cả hai vợ chồng đều phải đáp ứng đầy đủ các quy định tại điều 69 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Nếu một trong hai người không đủ điều kiện này thì xem như không bảo đảm điều kiện vợ chồng cùng nhận nuôi con nuôi.
Ngoài ra theo quy định tại điều 71 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định:
“1. Việc nhận người chưa thành niên, người đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự làm con nuôi phải được sự đồng ý bằng văn bản của cha mẹ đẻ của người đó; nếu cha, mẹ đẻ đã chết, mất năng lực hành vi dân sự hoặc không xác định được cha, mẹ thì phải được sự đồng ý bằng văn bản của người giám hộ.
2. Việc nhận trẻ em từ đủ chín tuổi trở lên làm con nuôi phải được sự đồng ý của trẻ em đó”.
Theo các quy định trên thì thông thường việc nhận nuôi con nuôi phải có sự đồng ý bằng văn bản của cha, mẹ đẻ (đối với con chưa thành niên hoặc con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự). Trong trường hợp ch mẹ đẻ của người này đều đã chết, mất năng lục hành vi dân sự hoặc không xác định được cha mẹ thì phải có sự đòng ý bằng văn bản của người giám hộ.
Đối với người được nhận làm con nuôi là người trên mười lăm tuổi nếu là thương binh, người tàn tật, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc làm con nuôi của người già yếu ,cô đơn thì cần phân biệt:
Nếu người được nhận làm con nuôi trên mười lăm tuổi nhưng chưa đến tuổi thành niên hoặc đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự thì việc cho họ đi làm con nuôi vẫn phải có sự đồng ý bằng văn bản của cha mẹ đẻ hoặc sự đồng ý bằng văn bản của người giám hộ (khoản 1 Điều 71).
Nếu người được nhận làm con nuôi là người đã thành niên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, thì không cần phải có sự đồng ý của cha mẹ đẻ.
Trường hợp một bên cha, mẹ đẻ (của người được nhận làm con nuôi) đã chết hoạc bị mất năng lực hành vi dân sự thì chỉ cần sự đồng ý của người kia ( người mẹ đẻ, cha đẻ còn sống; có năng lực hành vi dân sự).
Trường hợp cha, mẹ đẻ của người được nhận làm con nuôi đã ly hôn thì vẫn phải có sự đồng ý bằng văn bản của cả cha và mẹ đẻ trong việc cho con mình làm con nuôi người khác.
Như vậy: Sự đồng ý của cha,mẹ đẻ hoặc của người giám hộ phải được thể hiện bằng văn bản dựa trên ý chí tự nguyện, không bị cưỡng ép, không bị lừa dối.
Ý chí tự nguyện của người người nhận nuôi con nuôi phải phù hợp với mục đích của việc nhận nuôi con nuôi (khoản 1 Điều 67) . Trường hợp nhận nuôi con nuôi do bị cưỡng ép, bị lừa dối hoặc xuất phát từ động cơ, mục đích xấu xa (như nhận nuôi con nuôi nhằm bóc lột sức lao động của người con nuôi hoặc xúi giục con nuôi trong các hoạt động phạm tội : trộm cắp, hành nghề mại dâm thu lợi bất chính...) thì việc nuôi con nuôi sẽ bị Tòa án xử hủy theo yêu cầu của những người được quy định tại Điều 77 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
Điều kiện về thủ tục :
Trong đời sống xã hội Việt Nam, việc nhận nuôi con nuôi đã tồn tại từ lâu, với nhiều lý do và mục đích khác nhau, nhưng lý do cơ bản, phổ biến nhất là vì lòng từ tâm, lòng thương người, muốn cưu mang, giúp đỡ những người rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Với quan niệm như vậy, việc nhận con nuôi, nhận cha mẹ nuôi đã được thực hiện khá rộng rãi trong đời sống nhân dân.
Với ý nghĩa là một quyền tự do dân sự của cá nhân, việc xác lập quan hệ nuôi con nuôi có thể được thực hiện theo những cách thức khác nhau, tuỳ theo sự lựa chọn của cá nhân trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định. Tuy nhiên có thể thấy, có hai cách thức xác lập quan hệ nuôi con nuôi trong thực tế. Đó là xác lập quan hệ nuôi con nuôi về mặt xã hội và xác lập về mặt pháp lý.
Việc nhận nuôi con nuôi có thể được xác lập về mặt pháp lý, thông qua sự kiện đăng ký việc nuôi con nuôi tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đối với những trường hợp có đăng ký, giữa người nhận nuôi và con nuôi phát sinh quan hệ cha mẹ và con trước pháp luật. Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con giữa người nhận nuôi và con nuôi được nhà nước công nhận và bảo vệ. Vấn đề này không nằm trong khuôn khổ phân tích của bài viết này. Trong phạm vi của bài viết này, chỉ xin bàn đến những dạng xác lập quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi trong thực tế mà không đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Trong thực tế đời sống tồn tại khá nhiều các trường hợp nhận con nuôi nhưng không đăng ký việc nuôi con nuôi tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đây là những trường hợp xác lập quan hệ nuôi con nuôi về mặt xã hội. Tuy nhiên không phải tất cả các trường hợp nhận nuôi con nuôi không có sự công nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đều là nuôi con nuôi thực tế.
Theo quy định tại điều 72 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 , việc nhận nuôi con nuôi phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng kí và ghi vào sổ hộ tịch. Thủ tục đăng kí việc nuôi con nuôi , giao nhận con nuôi được thực hiện theo quy định của pháp luật về hộ tịch. Hiện nay theo nghị định 158/2005/NĐ-CP và nghị định 68 /2002 / NĐ-CP ngày 10/7/2002 thì việc nhận nuôi con nuôi giũa các công dân Việt Nam với nhau phải được đăng ký tại UBND cấp xã nơi thường trú của người nhận nuôi con nuôi hoặc con nuôi ; việc nhận nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài phải được đăng ký tại UBND cấp tỉnh nơi thường trú của công dân Việt Nam.
1.3.2. Nguyên tắc xác định quan hệ cha, mẹ con.
1.3.2.1.Xác định quan hệ cha ,mẹ ,con trong giá thú:
Pháp luật hôn nhân và gia đình không có quy định về khái niệm con trong giá thú . Theo cách hiểu thông thường thì con trong giá thú là con mà cha mẹ sinh ra do có quan hệ hôn nhân hợp pháp , tức là việc kết hôn đã đ