Trong nền kinh tế hiện đại, thuế không chỉ là công cụ thu ngân sách nhà nước (NSNN) mà còn là công cụ của nhà nước để quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Do vậy, khi nền kinh tế của mỗi nước chuyển sang một giai đoạn mới với những chủ trương, chính sách định hướng sự phát triển kinh tế thay đổi thì chính sách thuế của quốc gia cũng phải được cải cách cho thích hợp.
Cuộc cải cách thuế nước ta từ năm 1990 đến nay được xem là một cuộc cải cách thuế toàn diện, sâu sắc. Qua bước 1 của cuộc cải cách (1990-1995), hệ thống thuế nước ta đã đạt được một số thành tựu quan trọng như: thống nhất hệ thống thuế áp dụng cho các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế trong cả nước, tăng thu NSNN, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh đó, cuộc cải cách thuế bước 1 vẫn còn một số hạn chế như: hạn chế khuyến khích đầu tư, đáp ứng yêu cầu hợp tác kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới, hạn chế về tính đơn giản, rõ ràng, chặt chẽ.
26 trang |
Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1298 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thuế giá trị gia tăng và hoàn thuế giá trị gia tăng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế hiện đại, thuế không chỉ là công cụ thu ngân sách nhà nước (NSNN) mà còn là công cụ của nhà nước để quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Do vậy, khi nền kinh tế của mỗi nước chuyển sang một giai đoạn mới với những chủ trương, chính sách định hướng sự phát triển kinh tế thay đổi thì chính sách thuế của quốc gia cũng phải được cải cách cho thích hợp.
Cuộc cải cách thuế nước ta từ năm 1990 đến nay được xem là một cuộc cải cách thuế toàn diện, sâu sắc. Qua bước 1 của cuộc cải cách (1990-1995), hệ thống thuế nước ta đã đạt được một số thành tựu quan trọng như: thống nhất hệ thống thuế áp dụng cho các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế trong cả nước, tăng thu NSNN, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh đó, cuộc cải cách thuế bước 1 vẫn còn một số hạn chế như: hạn chế khuyến khích đầu tư, đáp ứng yêu cầu hợp tác kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới, hạn chế về tính đơn giản, rõ ràng, chặt chẽ.
Chính vì vậy, hệ thống thuế nước ta lại được tiếp tục cải cách ở bước 2. Việc áp dụng thuế GTGT thay thế thuế doanh thu (TDT) kể từ ngày 1/1/1999 là một trong những nội dung quan trọng của bước cải cách này.
Việc ban hành thuế GTGT thay thế cho TDT là nhằm khắc phục những nhược điểm của TDT, kích thích sản xuất phát triển đồng thời từng bước hoàn thiện hệ thống chính sách thuế của nước ta phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, đáp ứng nhu cầu hội nhập với nền kinh tế các nước trong khu vực và trên thế giới, thu hút vốn đầu tư của nước ngoài cũng như của các nhà đầu tư trong nước, thúc đẩy tăng cường công tác hạch toán kế toán, chứng từ hoá đơn của các doanh nghiệp, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu thuế, hạn chế thất thu thuế, đảm bảo nguồn thu ổn định, thường xuyên, lâu dài và ngày càng tăng cho NSNN. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực nêu trên, thuế GTGT cũng còn nhiều vấn đề như: thuế suất, phương pháp tính thuế, và đặc biệt là vấn đề hoàn thuế giá trị gia tăng.
Nhận thức tầm quan trọng của vấn đề này, em đã chọn đề tài: “THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG k HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG”. Do còn hạn chế về mặt kiến thức, kinh nghiệm và với lòng mong muốn được học hỏi, em rất mong được thầy cô, bạn bè chỉ bảo. Em cũng chân thành cảm ơn Cô giáo trực tiếp hướng dẫn em làm đề tài này.
NỘI DUNG
I.THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG LÀ GÌ ?
Thuế GTGT tuy mới được áp dụng ở nước ta từ ngày 1/1/1999 song đã phát huy được vai trò to lớn trong việc quản lý vĩ mô nền kinh tế và là nguồn thu chủ yếu của ngân sách quốc gia. Còn trên thế giới, thuế GTGT đã được áp dụng ở hầu hết các nước. Vậy thuế GTGT là gì, tại sao lại phổ biến như vậy?
1.Nguồn gốc về thuế GTGT
Thuế GTGT có tên gọi theo tiếng Anh là “VALUE ADDED TAX”(VAT).
Năm 1918, một người Đức có tên là Carl Fredric Von Stemens đã đề xuất thuế GTGT nhằm khắc phục sự chồng chéo của thuế doanh thu nhưng những kiến nghị của ông đã không được nước Đức quan tâm. Năm 1947, Chao, nhà kinh tế học người Mỹ, lại đề cập đến thuế GTGT trong tác phẩm “Cải tổ hệ thống thuế” của mình. Ở Nhật Bản, một dự án về thuế này đã được đệ trình quốc hội năm 1953 nhưng không được thông qua. Phải đến năm 1954 Pháp mới là nước đầu tiên thực hiện thuế GTGT nhưng chỉ mới áp dụng ở khâu sản xuất. Năm 1968 chỉ có 47 nước áp dụng thuế GTGT. Ngày nay đã có hơn 120 nước áp dụng loại thuế này. Riêng ở Châu Á, thuế GTGT ngày càng trở thành loại thuế phổ biến.
Ở VIỆT NAM, thuế GTGT được nghiên cứu và áp dụng thử nghiệm năm 1993 ở 11 đơn vị (ngành đường, dệt, xi măng)ban hành thành luật và được thông qua tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khoá 9 ngày 10 tháng 5 năm1997 để chính thức áp dụng từ ngày 1/1/1999.
2.Một số khái niệm cơ bản.
Thuế GTGT là thuế gián thu tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh từ quá trình sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng và được nộp vào ngân sách theo mức độ tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ.
Giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ là phần giá trị tăng thêm của hàng hoá dịch vụ sau mỗi quá trình sản xuất và lưu thông.
Về hình thức, thuế GTGT do các nhà sản xuất kinh doanh nộp hộ người tiêu dùng thông qua việc tính nộp thuế này vào giá bán mà người tiêu dùng phải thanh toán.
Về bản chất, người chịu thuế GTGT là người tiêu dùng. Tuy nhiên, ngưòi sản xuất và người tiêu dùng đều phụ thuộc vào mối quan hệ cung cầu của hàng hoá đó trên thị trường, do vậy đều chịu ảnh hưởng của thuế GTGT.
3. Đặc điểm của thuế GTGT
Thuế GTGT mang tính gián thu, một yếu tố cấu thành trong giá cả hàng hóa dịch vụ, nhằm động viên một phần thu nhập của người tiêu dùng khi họ tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ chịu thuế.
Thuế GTGT đánh vào tất cả các giai đoạn sản xuất kinh doanh nhưng chỉ tính trên phần giá trị gia tăng của mỗi giai đoạn. Vì vậy, tổng số thuế thu được ở các giai đoạn sẽ bằng với số thuế tính theo giá bán cho người tiêu dùng cuối cùng.
Doanh nghiệp
Đầu vào
Đầu ra
Thuế GTGT
Doanh số mua chưa cóthuế
Thuế GTGT
Doanh sốbán chưa có thuế
Thuế GTGT
1DN sợi
Mua bông
300
30
Bán sợi thành phẩm
400
40
40-30=10
2.Dn dệt
Mua sợi
400
40
Bán vải
500
50
50-40=10
3.DN may
Mua vải
500
50
Bán quần áo
550
55
55-50=5
Tổng thuế người tiêu dùng phải chịu: 30+10+10+5=55
Vấn đề cơ bản nhất khi nghiên cứu bản chất của thuế GTGT là phải xác định được thành phần của giá trị tăng thêm ở mỗi giai đoạn sản xuất kinh doanh. Như vậy mới tính được một cách chính xác số thuế GTGT của mỗi giai đoạn đó.
Thuế GTGT có tính trung lập được thể hiện ở các khía cạnh:
Thuế GTGT không chịu ảnh hưởng của kết quả kinh doanh của người nộp thuế. Dù nền kinh tế và mức sống của xã hội tăng hay giảm thì người dân vẫn luôn luôn có những nhu cầu nhất định, do đó việc tiêu thụ hàng hoá dịch vụ vẫn phải diễn ra.
Thuế GTGT không bị ảnh hưởng bởi quá trình tổ chức và phân chia các chu trình kinh tế, nghĩa là việc phân đoạn chu trình kinh tế nhiều hay ít đều không ảnh hưởng đến số thuế GTGT thu được.
Thuế GTGT đem lại nguồn thu thường xuyên và chủ yếu cho NSNN tuỳ theo quan điểm động viên của mỗi Quốc gia. Thuế GTGT phụ thuộc vào mức tiêu dùng xã hội. Phần lớn các nước áp dụng thuế GTGT có số thu về thuế GTGT chiếm khoảng 15%-30% tổng thu ngân sách(Khoảng 5% đến 10% GDP).
4.Phạm vi áp dụng thuế GTGT.
4.1.Đối tượng chịu thuế.
Theo quy định tại Điều 2 Luật thuế giá trị gia tăng và Điều 2 Nghị định số 79/ 2000/ NĐ-CP ngày 29/12/2000 của Chính phủ thì đối tượng chịu thuế GTGT là hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam, trừ 26 nhóm hàng hoá, dịch vụ theo quy định tại điều 4 Luật thuế GTGT hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT bao gồm :
Hàng hoá, dịch vụ được sản xuất và tiêu dùng trong nước.
Hàng hoá, dịch vụ được nhập khẩu tiêu dùng trong nước.
Hàng hoá, dịch vụ được sản xuất và tiêu dùng nội bộ.
Hàng hoá, dịch vụ được mua, bán dưới mọi hình thức, bao gồm cả trao đổi bằng hiện vật (Không thanh toán bằng tiền).
4.2. Đối tượng nộp thuế GTGT.
Theo quy định tại Điều 3 Luật thuế gía trị gia tăng và Điều 3 Nghị định số 79/2000/ NĐ-CP ngày 29/12/2000 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế GTGT thì tất cả các tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT ở Việt Nam, không phân biệt ngành nghề, hình thức, tổ chức kinh doanh (gọi chung là cơ sở kinh doanh) và tổ chức, cá nhân khác có nhập khẩu hàng hoá chịu thuế GTGT(gọi chung là người nhập khẩu)đều là đối tượng nộp thuế GTGT.
4.3 Đối tượng không chịu thuế GTGT
Các hàng hoá, dịch vụ không thuộc diện chịu thuế GTGT theo quy định tại Điều 4 Luật thuế gía trị gia tăng và điều 4 Nghị định số 79/2000/NĐ-CP ngày 29/12/2000 của Chính phủ.
5.Căn cứ tính thuế
Căn cứ tính thuế GTGT là giá tính thuế và thuế suất.
Giá tính thuế : Giá tính thuế GTGT đối với hàng hoá dịch vụ là giá bán chưa có thuế GTGT, giá tính thuế đối với hàng hoá nhập khẩu tại cửa khẩu cộng với thế nhập khẩu. Ngoài ra, giá tính thuế GTGT đối với một số trường hợp khác cũng được quy định cụ thể tại Điều 7 Luật thuế gía trị gia tăng và Điều 6 Nghị định số 79/2000/NĐ-CP ngày 29/12/2000 của Chính phủ.
Thuế suất: Hiện nay, luật thuế GTGT quy định có 4 mức thuế suất là 0%, 5%, 10%, 20% và được quy định cụ thể tại Điều 8 Luật thuế gía trị gia tăng và Điều 7 Nghị định số 79/2000/NĐ-CP ngày 29/12/2000 của Chính phủ.
Thuế suất 0% : Áp dụng cho hàng hoá dịch vụ xuất khẩu.
Thuế suất 5% : Áp dụng cho hàng hoá dịch vụ có tính chất thiết yếu trong đời sống kinh tế, xã hội.
Thuế suất 10% : Áp dụng cho các nhóm hàng hoá, dịch vụ thông thường trong đời sống kinh tế, xã hội.
Thuế suất 20% : Áp dụng cho nhóm hàng hoá, dịch vụ cao cấp cần phải điều tiết cao.
6. Phương pháp tính thuế GTGT
Có 2 phưong pháp là phưong pháp khấu trừ thuế và phương pháp tính thuế trực tiếp trên GTGT.
6.1 Phương pháp khấu trừ thuế:
Đối tượng áp dụng : là các đơn vị, tổ chức kinh doanh, doanh nghệp thành lập theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước, Luật Doanh nghiệp, Luật Hợp Tác xã, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các đơn vị, tổ chức kinh doanh khác trừ các đối tượng áp dụng tính thuế theo phương pháp tính thuế trực tiếp trên GTGT.
b) Xác định thuế GTGT phải nộp :
Số thuế GTGT
phải nộp
=
Thuế
GTGT
đầu ra
-
Thuế
GTGT đầu vào
được khấu trừ
Trong đó:
Thuế
GTGT
đầu ra
=
Giá tính thuế của hàng hoá ,dịch vụ chịu thuế bán ra
X
Thuế suất thuế
GTGT của hàng hóa ,
dịch vụ đó
Thuế GTGT đầu vào bằng tổng số thuế GTGT ghi trên hoá đơn GTGT mua hàng hoá, dịnh vụ (bao gồm cả tài sản cố định dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịnh vụ chịu thuế GTGT ), số thuế GTGT ghi trên chứng từ nộp thuế của hàng hoá nhập khẩu, hoặc thuế GTGT được khấu trừ khống đối với các trường hợp theo quy định với các tỷ lệ từ 2% -3% gía trị hàng hoá mua vào.
6.2 Phương pháp tính thuế GTGT trực tiếp trên giá trị gia tăng
Đối tượng áp dụng: là các cá nhân sản xuất, kinh doanh là người Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh ở Việt Nam không theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện về kế toán, hoá đơn chứng từ để làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế.
Xác định thuế GTGT phải nộp:
Sốthuế
GTGT
Phải nộp
+=
Giá trị gia tăng của hàng hoá dịch vụ chịu thuế
C X
Thuế suất thuế
GTGT của hàng hoá ,
dịch vụ đó
GTGT
củahàng hoá
dịch vụ
+ =
Doanh số của
hàng hoá, dịch vụ
bán r a
-
Giá vốn của hàng hoá, dịch vụ
bán ra
7.Sự cần thiết của thuế GTGT
Thuế GTGT khắc phục sự chồng chéo, trùng lắp của TDT.
Thuế GTGT lẫn TDT đều là những sắc thuế gián thu, đều nhằm mục tiêu chính là động viên một phần thu nhập của đông đảo người tiêu dùng tạo nên nguồn thu lớn và ổn định cho NSNN. Nhưng trong nền kinh tế với sự phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc, chuyên môn hoá sản xuất ngày càng cao như hiện này thì TDT với đối tượng tính thuế là toàn bộ doanh thu không còn thích hợp nữa.
Khi phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất chưa phát triển, từ nguyên liệu thô, qua nhiều công đoạn chế biến để được thành phẩm hữu ích đến với người tiêu thụ cuối cùng, có thể chỉ do một người hay một đơn vị sản xuất thực hiện:
Trồng lúa và thu hoạch lúa
Xay xát gạo
Chế biến gạo thành bột gạo
Làm bánh
Bán bánh đến tay người tiêu dùng
(toàn bộ quy trình nói trên do một người/một đơn vị sản xuất thực hiện)
Người bán bánh phải nộp TDT: toàn bộ doanh thu bán bánh x thuế suất, điều này không làm phát sinh tình trạng thuế chồng lên thuế. Khi phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất phát triển thì mỗi công đoạn trong quy trình trên sẽ do những người khác nhau đảm trách, thậm chí giữa những người sản xuất này còn có thể có ít nhất một nhà buôn làm trung gian. Do đó, TDT được tính trên toàn bộ doanh thu của mỗi ngưòi cũng có nghĩa là TDT được tính chồng lên TDT của những khâu sản xuất trước đó. TDT mà mỗi nhà sản xuất kinh doanh phải nộp không phản ảnh được phần giá trị mới sáng tạo mà họ đóng góp cho xã hội. TDT không khuyến khích chuyên môn hoá sản xuất, hạn chế sự phát triển phong phú các ngành, nghề, các loại hình kinh doanh trong nền kinh tế thị trường.
Có ý kiến cho rằng, việc tính trùng TDT trong quá trình luân chuyển hàng hoá nhằm hạn chế nhiều khâu trung gian không cần thiết. Tuy nhiên thực tế, trong nền kinh tế thị trường có rất nhiều khâu trung gian cần thiết; hơn nữa, qua sự đào thải hoặc chấp nhận của thị trường bản thân từng nhà kinh doanh tự xác định được là họ có cần thiết hay không. Về phía Nhà nước, có thể hạn chế, điều chỉnh họ bằng một lại thuế nào đó thật rõ ràng, với thuế suất cao, không cần phải làm cho thuế chồng lên thuế.
Thuế GTGT với đối tượng tính là phần giá trị gia tăng của hàng hoá qua mỗi khâu sản xuất kinh doanh nên có thể khắc phục tính trùng lắp của TDT.
Thuế GTGT mang tính trung lập về mặt kinh tế. Xét trong nội bộ nền kinh tế, thuế GTGT, đánh vào người tiêu dùng, không đánh vào người sản xuất,được áp dụng rộng rãi, có phạm vi đối tượng thu rất rộng (Thu vào mọi tổ chức, cá nhân người tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ) nên có thể tạo ra nguồn thu ngày càng tăng cho NSNN. Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh chỉ là khâu trung gian, thu thuế hộ Nhà nước rồi nộp vào KBNN mà thôi. Đây là đặc điểm“cách mạng”của thuế GTGT nhờ phương pháp khấu trừ của nó. Ngoài ra, tính trung lập còn được thể hiện trong các nghiệp vụ chuyển dịch sản phẩm và dịch vụ cũng như đối với việc tập trung thu vào Ngân sách. Một loại thuế được gọi là trung lập khi nó không nhằm vào hay không được dẫn tới hậu quả sinh ra một áp lực trên người chịu thuế để họ phải hoạt động hay không hoạt động theo một hướng đã định.
Thuế GTGT khuyến khích hoạt động xuất khẩu bằng việc áp dụng thuế suất 0% và được thoái trả lại toàn bộ số thuế GTGT đã thu ở khâu trước. Đồng thời có tác dụng bảo hộ hàng hoá sản xuất trong nước thông qua việc đánh thuế vào hàng nhập khẩu (làm tăng giá vốn hàng nhập khẩu)sẽ kích thích sản xuất trong nước phát triển tạo điều kiện hội nhập vào nền kinh tế khu vực và kinh tế toàn cầu. Thuế GTGT còn mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh, giải quyết nhu cầu lao động ngày càng tăng của xã hội.
Thuế GTGT thúc đẩy hoạt động đầu tư mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ hiện đại, bởi lẽ thuế GTGT không đánh vào hoạt động đầu tư tài sản cố định, toàn bộ số thuế GTGT phải trả khi mua sắm tài sản cố định sẽ được Nhà nước cho khấu trừ hoặc hoàn lại cho doanh nghiệp.
Thuế GTGT có tác dụng bảo hộ sản xuất trong nước thông qua việc đánh thuế vào hàng hoá nhập khẩu. Điều này làm tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong nước, bảo hộ được thị trường tiêu thụ hàng hoá nội địa, kích thích sản xuất trong nước phát triển, tạo điều kiện hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới khi buộc phải cắt giảm thuế xuất nhập khẩu, tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho các doanh nghiệp nước ngoài cũng như các doanh nghiệp trong nước.
Khi được triển khai áp dụng, thuế GTGT sẽ góp phần đổi mới tư duy về cơ chế thu nộp thuế. Đổi mới tư duy là vấn đề khó khăn lâu dài. Tuy nhiên, nếu được áp dụng đúng, thuế GTGT sẽ phát huy bản chất trung lập kinh tế, không ảnh hưởng đến kết quả quản lý của các doanh nghiệp. Cơ chế thu thuế sẽ được đổi thành cơ chế tự động kê khai, nộp thuế, thực hiện kiểm tra sau. Vấn đề này không được dễ hiểu và áp dụng đúng trong giai đoạn đầu.
Việc ban hành luật thuế GTGT gắn với việc sửa đổi, bổ sung luật thuế TTĐB, luật thuế XNK khiến hệ thống thuế của Việt Nam ngày càng phù hợp với thông lệ quốc tế, cho phép chúng ta nối tiếng nói chung với các nước trong khu vực và trên thế giới trong lĩnh vực thuế. Khi thuế GTGT đi vào cuộc sống, các mặt hàng cùng loại sau khi chịu thuế NK sẽ cùng chịu một mức thuế GTGT như nhau, không phân biệt hàng sản xuất trong nước hay hàng nhập khẩu. Điều này giúp chúng ta nhìn nhận như một nước có môi trường kinh doanh bình đẳng. Do vậy, thuế GTGT có tác dụng thúc đẩy các doanh nghiệp vươn ra thị trường nước ngoài và thu hút vốn đầu tư nước ngoài cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước.
Thuế GTGT hạn chế được việc trốn thuế. Tự cơ chế tính thuế mang lại cơ hội kiểm soát của cơ quan thuế bởi vì mỗi đơn vị nộp thuế phải chịu trách nhiệm về số thuế phải nộp theo luật định và chỉ có thể nộp giảm thuế khi chứng minh được rằng mình cũng đã nộp thuế khi mua các yếu tố đầu vào. Đương nhiên, để chứng minh được số thuế đã nộp ở khâu trước, doanh nghiệp phải lưu trữ đầy đủ hoá đơn mua hàng và hoá đơn bán hàng cho khách hàng. Cơ chế thuế GTGT đòi hỏi các doanh nghiệp để bảo vệ quyền lợi của mình phải hạch toán rõ ràng chính xác đầy đủ mọi khoản giao dịch trên hoá đơn. Việc ghi chép sai lầm về kế toán có thể gây thiệt hại cho chính đơn vị nộp thuế nhất là khi đơn vị phải ánh không đầy đủ phần mua hàng. Do vậy doanh nghiệp phải sắp xếp, tổ chức lại sản xuất, đổi mới trang thiết bị, công tác quản lý, củng cố lại công tác kế toán, chú trọng đến việc mở sổ, ghi chép kế toán, hoá đơn chứng từ. Nhìn bao quát chung do tác đông tích cực của các luật thuế mới nên nhều doanh nghiệp năm trước bị lỗ năm sau đã có hiệu quả khá hơn, nộp đủ thuế và có lãi.
Trên đây là một số ưu điểm của thuế GTGT và nhìn chung thuế GTGT được đánh giá là sắc thuế tiến bộ nhất trong các sắc thuế gián thu. Tuy vậy, đối với Việt Nam đây là một sắc thuế mới nên việc vận dụng nó trong thực tiễn kinh doanh chắc chắn sẽ gặp nhiều khó khăn, thách thức đối với nhà nước, doanh nghiệp cũng như xã hội, đòi hỏi phải có giải pháp thích hợp khắc phục nhằm phát huy ưu điểm, hạn chế nhược điểm của sắc thuế này.
II. HOÀN THUẾ GTGT
Đối tượng và trường hợp được hoàn thuế GTGT.
Hồ sơ được hoàn thuế GTGT.
Trách nhiệm của đối tượng được hoàn thuế GTGT
4. Thẩm quyền và trình tự giải quyết hoàn thuế GTGT
Được quy định đầy đủ rõ ràng trong luật thuế GTGT, Nghị định số 79/2000/NĐ-CP ngày 29/12/2000 của Chính phủ.
và các thông tư số 122 và 82.
III. NHỮNG TỒN TẠI TRONG VIỆC HOÀN THUẾ GTGT
1.Một số vấn đề chung.
Thủ tục hoàn thuế còn rất phức tạp. Hồ sơ hoàn thuế tưởng chừng rất đơn giản nhưng đơn vị phải chạy đi chạy lại rất nhiều lần mới có thể hoàn tất được hồ sơ. Hiện nay tại cục thuế Hà Nội, 1 hồ sơ hoàn thuế phải có đủ 8 chữ kỹ thì mới được thực hiện.
Do bản thân các doanh nghiệp chưa hiểu rõ chính sách thuế, trình tự thủ tục hoàn thuế ...nên phải mất rất nhiều thời gian để hoàn tất các thủ tục. Chẳng hạn một số DN chưa hiểu rõ chính sách thuế nên đã kê khai khấu trừ để hoàn thuế đầu vào cả tiền lệ phí, tiền thuê đất, cá biệt có cả DN kê khai cả thuế NK vào thuế đầu vào để xin khấu trừ.
Do trình độ của một số cán bộ thuế còn hạn chế nên hướng dẫn các đơn vị chưa đầy đủ, chính xác... vì vậy phải mất nhiều thời gian mới hoàn tất thuế vị sợ số liệu trong hồ sơ xin hoàn thuế không chính xác(do DN chế biến số liệu tinh vi, sử dụng hoá đơn bất hợp pháp ...)
2.Hoá đơn, chứng từ.
Như chúng ta đã biết, các chứng từ, hoá đơn, sổ sách là cơ sở để DN có thể được hoàn thuế. Chính vì vậy, đối với những DN làm ăn không minh bạch thì đây là cơ hội để “móc tiền” của NSNN thông qua những hành vi gian lận như khai khống hoá đơn đầu vào, mua bán bất hợp pháp hoá đơn. Hiện nay, theo cán bộ ngành thuế cho biết, thị trường mua bán hóa đơn khống cũng hết sức sôi động và đa dạng bao gồm :
Hoá đơn giả: rất dễ nhận biết qua các công cụ kiểm tra như đèn chiếu ...
Hóa đơn giả như thật: là hoá đơn thật 100% nhưng bằng con đường hợp pháp nào đó tuồn ra ngoài hoặc do một số DN giải thể, mất tích bán ra thị trường.
Hoá đơn thật: là hoá đơn được cung cấp có địa chỉ, có dấu nhưng khi hoàn thuế phải rà soát đối chiếu kỹ, mà nhân lực và kinh phí có hạn, nên nhiều khi bị bỏ sót.
Vấn đề này đã làm đau đầu cơ quan thuế hơn bao giờ hết. Trước đây khi sử dụng thuế DT, sử dụng hoá đơn giả chỉ có thể ăn gian thuế trên số hàng bán ra, còn bây giờ với hoá đơn giả Nhà nước không những không thu được một khoản thuế nào mà ngược lại còn phải chi thêm tiền để hoàn thuế. Bên cạnh đó, việc sử dụng hoá đơn bất hợp pháp tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các DN. DN nào không trốn thuế được sẽ mất dần sức cạnh tranh, những cơ sở trốn thuế sẽ có điều kiện hạ giá thành để cạnh tranh,