Trong quá trình phát triển và hội nhập kinh tế thì mục tiêu tăng trưởng kinh tế của Nhà nước rất quan trọng. Nhất là đối với chúng ta đang xây dựng một nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì Nhà nước lại càng quan trọng. Trong khi đó thuế là nguồn chủ yếu của Nhà nước. Tiềm lực kinh tế của Nhà nước có mạnh thì sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế vĩ mô lại càng có hiệu quả.
Như vậy, thuế không những là nguồn thu ngân sách chính mà còn là công cụ điều tiết vĩ mô quan trọng của Nhà nước. Do vậy, cùng với việc thực hiện đường lối đổi mới, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, Đảng và chính phủ đã giành nhiều sự quan tâm chú ý lớn cho công tác đổi mới hệ thống thuế. Chủ trương cải cách hệ thống thuế của nước ta đã được khởi xướng từ năm 1989. Ngày1/10/1990, một hệ thống các luật, pháp lệnh về thuế áp dụng thống nhất trong cả nước đã được ban hành. Các sắc thuế trong hệ thống này được áp dụng chính cho các thành phần kinh tế, không còn sự phân biệt khu vực quốc doanh và khu vực ngoài quốc doanh như trước đây nữa.
25 trang |
Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1544 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thuế với việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình phát triển và hội nhập kinh tế thì mục tiêu tăng trưởng kinh tế của Nhà nước rất quan trọng. Nhất là đối với chúng ta đang xây dựng một nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì Nhà nước lại càng quan trọng. Trong khi đó thuế là nguồn chủ yếu của Nhà nước. Tiềm lực kinh tế của Nhà nước có mạnh thì sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế vĩ mô lại càng có hiệu quả.
Như vậy, thuế không những là nguồn thu ngân sách chính mà còn là công cụ điều tiết vĩ mô quan trọng của Nhà nước. Do vậy, cùng với việc thực hiện đường lối đổi mới, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, Đảng và chính phủ đã giành nhiều sự quan tâm chú ý lớn cho công tác đổi mới hệ thống thuế. Chủ trương cải cách hệ thống thuế của nước ta đã được khởi xướng từ năm 1989. Ngày1/10/1990, một hệ thống các luật, pháp lệnh về thuế áp dụng thống nhất trong cả nước đã được ban hành. Các sắc thuế trong hệ thống này được áp dụng chính cho các thành phần kinh tế, không còn sự phân biệt khu vực quốc doanh và khu vực ngoài quốc doanh như trước đây nữa.
Chính vì thuế có vai trò quan trọng và nó thuộc về chuyên ngành học của em cho nên em chọn đề tài: ''Thuế với việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế ở việt nam''. Do còn thiếu những tư liệu thực tế để tham khảo nên bài viết không tránh khỏi những sai sót, rất mong được sự chỉ bảo của cô và sự đóng góp ý kiến của các bạn để bài viết được hoàn thiên hơn.
Cuối cùng em xin chân thành cám ơn thầy cô giáo đã nhiệt tình giúp đỡ em hoàn thành bài viết này.
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THUẾ
I. TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ MỤC TIÊU KTVM QUAN TRỌNG
1- Định nghĩa.
Định nghĩa của Gáton jèze, giáo sư luật khoa đại học Paris, Pháp: Thuế là một khoản đóng góp bằng tiền, mà chính quyền đòi hỏi ở các tư nhân, đóng góp vĩnh viễn, không có đối phần để tài trợ các gánh nặng công cộng.
Seligman, Hoa kỳ định nghĩa Thuế là sự đóng góp cưỡng bách của mỗi người cho chính phủ để trang trải các chi phí về quyền lợi chung không căn cứ vaò các lợi ích riêng được hưởng.
Ngân hàng thế giới (WB) đưa ra quan niệm: Thuế có 2 đặc trưng nổi bật. Một là thuế mang tính cưỡng chế chứ không phải tự nguyện. Hai là, người chịu thuế chi trả tiền không phải để nhận lại của nhà nước một tài vật hay một lợi ích đặc thù nào. Nhưng không có nghĩa là người đóng thuế không được hưởng các lợi ích từ các hoạt động của nhà nước, chỉ nói lên rằng lợi ích mà người nộp thuế nhận được không có liên quan trực tiếp đến số tiền thuế đã chi trả.
Tóm lại : Thông qua sự điều tiết vĩ mô của chính phủ, mục đích sau cùng của thuế là phục vụ cho công ích, trong phương tiện ngân sách cân đối và thực hiện bình đẳng trong xã hội bằng thuế khoá. Đây là những định hướng và nhiệm vụ mà quốc gia luôn luôn muốn tiến tới là liêm chính.
Thuế này có tác dụng khuyến khích điều tiết sản xuất, đầu tư hướng dẫn tiêu dùng và tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, vừa khuyến khích xuất nhập khẩu, vừa bảo vệ khuyến khích phát triển trong nước.
-Thuế trực thu: Đánh trực tiếp vào thu nhập hoặc tài sản của người nộp thuế.
Đại diện cho thuế trực thu:
+Thuế thu nhập doanh nghiệp
+Thuế thu nhập cá nhân
Thuế này đảm bảo tính công bằng dọc trong phân phối thu nhập vì nó tính đến khả năng của người nộp thuế. Nó còn có khả năng điều chỉnh đầu tư, điều tiết sản xuất, đổi mới công nghệ.
2-Thuế trong nền kinh tế thị trường.
Nói chung trong nền kinh tế thị trường việc tăng trưởng kinh tế có sự điều tiết của chính phủ, thuế ngày càng trở lên là một công cụ quan trọng nhằm thể hiện vai trò điều chỉnh mục tiêu tăng trưởng kinh tế của chính phủ. Chính sách thuế hợp lý tạo ra một nguồn thu chủ yếu cho phần ngân sách tác động điều chỉnh mạnh mẽ các hoạt động sản xuất kinh doanh đảm bảo công bằng và kích thích cạnh tranh.
2.1-Thuế là nguồn thu chủ yếu của NN.
Để huy động nguồn lực vật chất cho mình, Nhà nước có thể sử dụng các hình thức khác nhau: phát hành thêm tiền, phát hành trái phiếu để vay nước ngoài, bán một phần tài sản quốc gia, thu thuế. Nhưng nếu chính phủ phát hành tiền để chi tiêu sẽ dẫn đến lạm phát đưa nền kinh tế đến bờ vực thẳm, càng làm khó khăn thêm cho NN. Còn nếu phát hành trái phiếu để vay trong nước và ngoài nước vừa phải chịu ràng buộc về kinh tế và chính trị từ phía người cho vay, vừa phải tìm nguồn để trả cả gốc lẫn lãi. Như vậy chỉ có thuế là một khoản thu chủ yếu của chính phủ sẽ đem lại mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao nhất. Sử dụng công cụ thuế để huy động vào nguồn thu của NN có các ưu thế:
- Thuế là công cụ phân phối có lĩnh vực và phạm vi rộng lớn.
- Chính phủ thu thuế bằng phương pháp chuyển giao thu nhập bắt buộc. Do vậy Nhà nước đảm bảo việc thực hiện công bằng trong việc phân bố gánh nặng của các khoản chi tiêu công cộng.
- Nguồn huy động tập trung thông qua thuế là tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân trong nước tạo ra. Như vậy, một bộ phận đáng kể thu nhập của xã hội được tập trung vào trong tay Nhà nước để đảm bảo nhu cầu chi tiêu cho các biện pháp kinh tế xã hội. Mặt khác nguồn thu của thuế được đảm bảo tập trung một cách nhanh chóng, thường xuyên và ổn định.
- Hơn nữa, thuế kết hợp giữa phương thức cưỡng bức, được qui định dưới hình thức pháp luật cao với kích thích vật chất nhằm tạo ra sự quan tâm của các chủ thể kinh tế đến chất lượng và hiệu quả kinh doanh.
Có thể nói mục tiêu tăng trưởng kinh tế của Nhà nước đã dùng sức mạnh của mình để bắt buộc mọi thể nhân và pháp nhân trích một phần thu nhập của mình do hoạt động kinh tế mang lại góp vào quĩ chung gọi là NSNN để tiêu dùng.
Để việc tăng trưởng kinh tế và đảm bảo công bằng, Nhà nước phải qui định sự đóng góp đó theo những luật lệ nhất định gọi là các luật thuế. Với xu hướng chi tiêu công cộng ngày càng mang tính qui luật, có thể nói ở tất cả các quốc gia, thuế đã trở thành nguồn thu chủ yếu của NSNN.
Đối với nước ta, trong giai đoạn hiện nay, việc tăng trưởng kinh tế khẳng định là nguồn thu chủ yếu của NN là hết sức quan trọng, bởi lẽ: Từ sau khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, nguồn viện trợ bị giảm đáng kể và thu từ nội bộ thấp do đất nước sau hai cuộc chiến tranh lâu daì, triền miên đã bị tàn phá nặng nề. Tất cả đã đặt ra nhiều vấn đề kinh tế xã hội một cách gay gắt đối với Đảng và Nhà nước trong công cuộc hồi sinh đất nước. Trong bối cảnh như vậy, vấn đề tập trung nguồn tài chính vào trong tay Nhà nước để thực hiện chức năng kinh tế xã hội cuả mình có ý nghĩa sống còn của một quốc gia. Việc tập trung nguồn tài chính vào trong tay Nhà nước có thể thực hiện dưới các hinh thức khác nhau như: vay mượn, bán tài nguyên, tài sản quốc gia. Nhưng thực tế ở nước ta, những hình thức đó có rất nhiều hạn chế, bị nhiều điều kiện ràng buộc. Do đó việc cải cách hệ thống thuế năm 1990 với tư tưởng coi thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN là hết sức đúng đắn. Nó vừa thể hiện tư tưởng chỉ đạo trong việc ban hành các luật thuế, vừa thể hiện tinh thần tự lực, tự cường của dân tộc.
Mặc dù coi thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN nhưng không có nghĩa là động viên nguồn tài chính vào NSNN với bất cứ giá nào. Trong một quốc gia mức động viên về thuế luôn bị ràng buộc rất nhiều yếu tố kinh tế xã hội. Trước hết là yếu tố tăng trưởng kinh tế mà chỉ mà chỉ tiêu biểu hiện của nó là thu nhập quốc dân trên đầu người. Hơn nữa mục tiêu đánh thuế không chỉ là tạo lập nguồn thu cho NSNN mà còn là công cụ để thực hiện chức năng điều chỉnh vĩ mô của Nhà nước.
Một chính sách thuế được ban hành hợp lý, phù hợp với khả năng của nền kinh tế, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, thì nó sẽ góp phần xoá bỏ sự trì trệ và lạc hậu, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh chóng, ổn định và lâu dài. Ngược lại, một chính sách thuế không phù hợp sẽ trở thành vật cản, gây trở ngại cho sự lớn mạnh của nền kinh tế, làm cho nền kinh tế hoạt động kém hiệu quả, thậm chí có thể gây lên khủng hoảng kinh tế và chính trị.
2.2-Thuế là công cụ điều tiết vĩ mô trong nền kinh tế thị trường.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, Nhà nước hoàn toàn có khả năng sử dụng thuế để điều tiết vĩ mô nền kinh tế quốc dân. Điều đó xuất phát từ cơ sở của chức năng điều chỉnh của thuế. Vì lợi ích của xã hội, Nhà nước có thể tăng hoặc giảm thuế đối với thu nhập của các tầng lớp dân cư và doanh nghiệp, để kích thích hoặc hạn chế sự phát triển các lĩnh vực, các ngành nghề khác nhau của nền kinh tế. Bằng cách ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế của các chủ doanh nghiệp, quá trình điều tiết nền kinh tế quốc dân thông qua thuế được thực hiện.
- Nội dung điều chỉnh của thuế: nó có một số nội dung cơ bản sau:
+ Điều chỉnh nền kinh tế chu kỳ là một trong những nội dung quan trọng của quá trình điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường sự phát triển theo chu kỳ là điều khó tránh khỏi. Để đảm bảo tốc độ tăng trưởng ổn định, Nhà nước cần sử dụng công cụ thuế để điều chỉnh quá trình đó. Trong những năm khủng hoảng và suy thoái kinh tế, nhà nước có thể hạ thấp mức thuế, tạo ra những điều kiện thuế thuận lợi nhằm kích thích nhu cầu tiêu dùng để tăng đầu tư và mở rộng sức sản xuất. Điều đó có thể đưa nền kinh tế nhanh chóng thoát khỏi khủng hoảng. Ngược lại trong thời kỳ phát triển quá mức, có nguy cơ dẫn đến mất cân đối, bằng cách tăng thuế, thu hẹp đầu tư, Nhà nước có thể giữ vững nhịp độ tăng trưởng theo mục tiêu đặt ra.
+ Việc điều chỉnh thuế cần góp phần hình thành cơ cấu ngành hợp lý theo yêu cầu phát triển nền kinh tế trong từng giai đoạn. Trong khi áp dụng các chế độ thuế phân biệt đối với từng ngành kinh tế khác nhau, Nhà nước có thể thúc đẩy sự phát triển các ngành quan trọng nhất, giữ vị ttrí then chốt trong nền kinh tế hoặc san bằng tốc độ tăng trưởng giữa chúng.
+ Điều chỉnh tích luỹ tư bản là một nội dung quan trọng của điều chỉnh thuế. Một mặt Nhà nước cần phải sử dụng thuế để điều chỉnh sự tích luỹ đó phù hợp lợi ích kinh tế của các chủ thể kinh tế và lợi ích xã hội. Mặt khác, sự phát triển của nền kinh tế luôn đòi hỏi phải tăng nhanh vốn đầu tư cơ bản. Để phát triển nền kinh tế quốc dân, Nhà nước cần phải khuyến khích tích luỹ và tích tụ trong các doanh nghiệp, để tạo ra nguồn vốn đầu tư.
+ Thuế có thể được sử dựng để điều tiết việc làm và thất nghiệp. Khi nền kinh tế có mức thất nghiệp cao thì cùng với việc mở rộng các khoản chi tiêu của chính phủ, thuế cần phải được cắt giảm để tăng tổng cầu và việc làm.
+Thực hiện phân phối một cách công bằng, hợp lý nguồn thu nhập nhận được trong nền kinh tế thị trường là một nội dung quan trọng của điều tiết thông qua thuế.
+Thuế được sử dụng như một công cụ có hiệu quả để góp phần thực hiện chính sách đối ngoại và bảo hộ nền sản xuất trong nước và thúc đẩy sự hoà nhập kinh tế trong khu vực và thế giới.
-Phương pháp điều chỉnh của thuế: Tác động điều chỉnh của thuế đối với nền kinh tế quốc dân chỉ đem lại hiệu quả đáng kể chỉ khi áp dụng các phương pháp điều chỉnh phù hợp. Phương pháp điều chỉnh của thuế là phương thức tác động của Nhà nước thông qua thuế đến các đối tượng điều chỉnh để đạt được những mục tiêu đã định. Trong thực tiễn thế giới đã sử dụng nhiều phương pháp như sau:
Thứ nhất là, xác định mối quan hệ hợp lý giữa thuế trực thu và thuế gián thu.
Thứ hai là, thay đổi thuế suất: có nghĩa là thay đổi mức thu thuế hay đại lượng thu thuế trong một đơn vị nộp thuế. Nhờ thực hiện phương pháp này, Nhà nước tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập được tạo ra giữa các chủ thể kinh tế, giữa các ngành, các vùng và các tầng lớp dân cư trong xã hội, làm thay đổi lợi ích kinh tế của họ. Nhà nước có thể tăng hoặc giảm mức thuế suất trong từng trường hợp cụ thể để đáp ứng yêu cầu của thị trường.
Thứ ba là, áp dụng các ưu đãi thuế: là hình thức cho người nộp thuế được hưởng những điều kiện thuận lợi khi nộp thuế. Việc cấp các ưu đãi về thuế cho phép nhà nước linh hoạt điều chỉnh nền kinh tế tuỳ thuộc vào cục diện thị trường. Tác dụng kích thích của các ưu đãi thuế được xem như một hình thức cấp phát vốn trực tiếp cho doanh nghiệp. Tuỳ thuộc vào yêu cầu quản lý, Nhà nước có thể tăng hoặc giảm qui mô và mức độ của các ưu đãi thuế để kích thích tăng tích luỹ và tích tụ trong các doanh nghiệp.
II.TÁC ĐỘNG CỦA THUẾ TRONG ĐỐI VỚI MỤC TIÊU TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ.
1-Sự cần thiết phải điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. Cơ chế thị trường thông qua những yếu tố của nó, đã tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, kích thích tăng năng suất, nâng cao chất lượng và hiệu quả, thúc đẩy quá trình xã hội hoá sản xuất, đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất. Tuy nhiên, bản thân tăng trưởng kinh tế, chưa phải là mô hình tổ chức nền kinh tế hoàn hảo. Cùng với sự phát triển kinh tế, nền kinh tế thị trường ngày càng bộc lộ những nhược điểm vốn có của nó, đó là tình trạng khủng hoảng kinh tế theo chu kỳ, tình trạng thất nghiệp, lãng phí tài nguyên, tiền vốn, lao động... nguyên nhân là do chạy theo lơih nhuận tối đa, chỉ chú ý tới nhu cầu có khả năng thanh toán đã đưa tới cơ cấu tăng trưởng kinh tế không hợp lý, mất cân đối, dễ dẫn tới độc quyền thủ tiêu cạnh tranh...Đặc biệt với cơ chế phân phối qua thị trường, ngày càng khoét sâu hố ngăn cách giữa người giàu và người nghèo, làm nảy sinh các hiện tượng tiêu cực về mặt xã hội, tạo lên sự bất ổn về mặt kinh tế và xã hội. Để phát huy ưu điểm, hạn chế khuyết điểm của tăng trưởng kinh tế, hầu hết các nước trên thế giới ngày nay đều thừa nhận tính cần thiết khách quan đối với sự can thiệp của Nhà nước vào quá trình kinh tế xã hội.
Mặt khác về phương diện kinh tế, xã hội, Nhà nước trong nền kinh tế thị trường có 3 chức năng chính: hiệu quả, công bằng và ổn định.
Giải quyết vấn đề hiệu quả trong nền kinh tế thị trường tức là đi khắc phục các khuyết tật của nền kinh tế thị trường như tình trạng sử dụng nguồn lực khan hiếm không có hiệu quả, tình trạng lãng phí tài nguyên, lao động, tiền vốn...trong tình huống này cần có sự can thiệp của Nhà nước với việc qui định luật lệ sử dụng có nghệ thuật các công cụ kinh tế tài chính để thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế cân đối đạt hiệu quả cao.
Chúng ta đều nhận biết việc phân phối thu nhập qua cơ chế thị trường là dựa vào số lượng, chất lượng các yếu tố đầu vào, dựa vào sức mạnh của đồng tiền. Hậu quả của sự phân phối đó, tất yếu dẫn đến sự bất bình đẳng xét theo tiêu chuẩn chính trị, đạo lý và do đó đã kéo theo các vấn đề tiêu cực phát sinh tính ổn định chính trị, xã hội của quốc gia bị nguy hại. Với tình huống đó, không thể không có sự can thiệp của Nhà nước.
Một vấn đề nữa có thể biện minh cho sự can thiệp của Nhà nước đó là những thăng trầm chu kỳ của lạm phát và suy thoái trong nền kinh tế được dẫn dất theo cơ chế thị trường. Điều này đã tạo nên sự mất ổn định về mặt kinh tế, xả hội, thậm chỉ làm xả hội rối loạn, cách mạng và chiến tranh có thể xảy ra. Trong bối cảnh như vậy, sự can thiệp của Nhà nước là hết sức cần thiết.
Tóm lại, toàn bộ sự phân tích ở trên có thể đi đến khẳng định có tính nguyên tấc là trong nền kinh tế thị trường với nhữnh khuyết tật của nó, sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế là điều hiển nhiên. Sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế chủ yếu được thể hiện thông qua quá trình sử dụng các công cụ tài chính tiền tệ để quy luật giá trị và các quy luật khác của nền sản xuất hàng hóa có điều kiện phát huy đầy đủ tác dụng, khác phục tính tự phát của thị trường. Các chính sách và công cụ đó là: giá cả, tín dụng, lãi suất, tỷ giá hối đoái, thuế... trong đó thuế là một công cụ tài chính quan trọng.
Thuế góp phần quan trọng đối với bất kỳ một quốc gia nào nhất là đối với Việt Nam trong xu hướng phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý điều tiết vĩ mô của Nhà nước thì vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế là vô cùng quan trọng. Muốn có sự tác động mạnh mẽ từ phía Nhà nước vào nền kinh tế để nó phát triển thì Nhà nước cần phải có một sức mạnh kinh tế vững mạnh bên cạnh chế độ chính trị ổn định như ở nước ta. Điều đó giải thích tại sao phải có một ngân sách đủ lớn để thực hiện vai trò chức năng của mình đối với sự phát triển nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước.
Muốn vậy Nhà nước phải có một nguồn thu ổn định; để đáp ứng yêu cầu này thì chỉ có thuế là đảm bảo được nguồn thu ổn định cho NSNN.
2-Mối quan hệ giữa cải cách thuế và hiệu quả kinh tế.
Đứng trên quan điểm toàn quốc gia thì hiệu quả của cải cách thuế được đánh giá bằng tỷ lệ phát triển nhanh GDP. Tương quan giữa cải cách kinh tế và phát triển nhanh được giảI thích qua việc tăng đầu tư theo sơ đồ sau đây:
Cải cách kinh tế à thu thuế tăng à chi nhà nước cho đầu tư tăng à nhịp phát triển tăng.
Đứng trên quan đIểm tối đa hoá doanh thu và lợi nhuận của các xí nghiệp thì hiệu quả của cải cách thuế khoá được đánh giá bằng sự tăng doanh thu và lợi nhuận cao của các xí nghiệp: làm thế nào để tăng thu thuế nhiều mà các xí nghiệp vẫn tăng được doanh thu và lợi nhuận? Các vị giám đốc xí nghiệp sẽ hoan nghênh cải cách thuế khi nào doanh thu và lợi nhuận các xí nghiệp tăng, các xí nghiệp sẽ đóng được nhiều thuế hơn, trả được nợ ngân hàng, các xí nghiệp cũng dùng tiền lãi để đầu tư thêm, mở rộng sản xuất và mướn thêm nhân công.
Tương quan giữa cải cách thuế và phát triển nhanh được giải thích qua sơ đồ sau đây:
Cải cách thuế -> doanh thu và lợi nhuận các xí nghiệp tăng à các xí nghiệp trả nợ ngân hàng, đóng thuế nhiều, tăng đầu tư, mở rộng sản xuất à phát triển GDP nhanh.
Đứng trên quan điểm thu nhập các hộ gia đình thì hiệu quả của cải cách thuế được đánh giá bằng sự gia tăng thu nhập của những gia đình: thu nhập của những gia đình phần lớn là tiền lương do các xí nghiệp trả cho các công nhân, tiền lương nhà nước trả cho cán bộ công nhân viên.
Vậy cải cách thuế à nhà nước các xí nghiệp chi lương nhiều hơn à Các gia đình nhận được lương nhiều hơn à phồn vinh kinh tế, các xí nghiệp thuê nhân công nhiều hơn, công nhân có việc làm nhiều hơn à các gia đình mua hàng của các xí nghiệp nhiều hơn phồn vinh kinh tế.
CHƯƠNG II
THUẾ VỚI VIỆC THỰC HIỆN MỤC TIÊU TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM
I- SƠ LƯỢC VỀ THUẾ TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI (1986-1999)
- Xu hướng cải cách thuế trên thế giới trong thời kỳ này.
Cải cách thuế trong những năm cuối thế kỷ XX không chỉ đơn giản là sự cân nhắc tối ưu giữa mục tiêu hiệu quả và công bằng trong điều kiện của một nền kinh tế “đóng”, mà còn bị chi phối mạnh mẽ bởi những nhân tố mới nảy sinh từ quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra một cách nhanh chóng.
Những khác biệt này một mặt phản ánh sự chuyển hướng chính sách trong cải cách thuế nhằm đạt tới sự tối ưu trong điều kiện nền kinh tế mở nhưng mặt khác lại hàm ý nhiều vấn đề cần phải giải quyết đối với cải cách thuế trên thế giới nói chung và cải cách thuế ở Việt Nam nói riêng. Những xu hướng nổi bật trong cải cách thuế trên thế giới vào những năm cuối của thế kỷ XX như sau:
+ Tỷ lệ động viên thông qua thuế so với GDP tiếp tục có xu hướng ngày càng tăng.
+ Thuế xuất thu nhập ( đối với thu nhập cá nhân ) tiếp tục giảm.
+ Cơ sở đánh thuế thu nhập được mở rộng để bù đắp số thuế giảm do việc cắt giảm thuế suất.
+ Song song với viếc cắt giảm thuế suất và mở rộng cơ sở đánh thuế, thuế thu nhập cá nhân của đa số các nước trên thế giới đã được đơn giản hoá theo hướng giảm bớt sản lượng thuế suất và làm cho chúng bằng phẳng hơn .
+ Thuế thu nhập công ty cũng được cải cách theo xu hướng áp dụng thuế GTGT thay cho thuế thu nhập cá nhân: cắt giảm thuế xuất và mở rộng diện đánh thuế.
+ Sự lan truyền nhanh chóng của xu hướng áp dụng thuế GTGT thay cho thuế doanh thu trên phạm vi toàn cầu.
+ Cấu trúc thuế có sự thay đổi theo hướng giảm dần thuế trực thu, tăng tỷ lệ thuế gián thu đối với các nước phát triển, trong khi đó đối với các nước đang phát triển thì sự thay đổi này có khuynh hướng ngược lại.
+ Tính phức tạp trong hệ thống thuế của các nước đòi hỏi ngày càng phải được đơn giản hoá.
Tất cả những xu hướng trên đây đã chứng tỏ một điều rằng trong thời đại ngày nay, việc hoạch định chính sách thuế không phải đơn giản chỉ là vấn đề chủ quyền hoàn toàn độc lập của quốc gia nữa. Những nhân tố của toàn cầu hoá đã nhanh chóng trở thành những lực lượng khách quan chi phối xu hướng cải cá