Chức năng cơ tim thường suy giảm sau khi mổ tim có THNCT và có sử dụng dung
dịch liệt tim. Vì vậy thuốc TCBCT đã được sử dụng để cải thiện sự rối loạn chức
năng của tâm thất sau khi mổ tim có THNCT. Trong một số đơn vị mổ tim có sử
dụng các thuốc TCBCT một cách thường quy trong khi cai máy THNCT. Tuy nhiên
sử dụng các thuốc TCBCT, kể cả việc sử dụng Dopamine liều thấp có thể có hại trong
một vài trường hợp, ví dụ như làm tăng nhu cầu sử dụng ô xy cơ tim, loạn nhịp tim.
Trong nghiên cứu này chúng tôi nghiên cứu các yếu tố nguy cơ trước và trong mổ có
ảnh hưởng đến việc sử dụng thuốc TCBCT sau khi ngưng THNCT. Qua đó chúng tôi
phân tích và đánh giá hiệu quả của thuốc TCBCT sau mổ.
26 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1428 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thuốc tăng sức co bóp cơ tim, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
THUỐC TĂNG SỨC CO BÓP CƠ TIM
TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định các yếu tố nguy cơ trước và trong mổ, và đánh giá hiệu quả của
thuốc TCBCT trên bệnh nhân trong và sau phẫu thuật tim có THNCT.
Phương pháp: Nghiên cứu tiền cứu. Từ ngày 1/10/2003 đến 30/4/2008 chúng tôi
thực hiện gây mê mổ 178 ca phẫu thuật tim các loại có THNCT tại bệnh viện Thống
Nhất TPHCM.
Kết quả: Tỉ lệ sử dụng thuốc tăng co bóp cơ tim (TCBCT) sau mổ là 41,57% (74
trường hợp). Trong đó số bệnh nhân sử dụng Dobutamine đơn thuần là 30/74 trường
hợp (40,54%), và Epinerphrine đơn thuần là 14/74 trường hợp (18,92%). Có 26/74
trường hợp (35,13%) cần phải phối hợp giữa hai loại là Epinephrine với Dobutamine,
và ba loại Epinephrine, Dobutamine với Dopamine. Chỉ có 4/74 trường hợp (5,41%)
cần phải dùng thêm Norepinephrine, tức là phải sử dụng bốn loại thuốc TCBCT. Khả
năng sử dụng thuốc thuốc TCBCT sau mổ theo phương trình hồi quy: PTTCBCT =
1/(1+e–z). Tỉ lệ tử vong trong vòng 30 ngày sau mổ là 2,8%. Các yếu tố sau có ý nghĩa
trong việc tiên đoán sử dụng thuốc TCBCT sau mổ là tuổi ≥ 65, giới nữ, suy tim
NYHA ≥ II, phân xuất tống máu trước mổ
40 mmHg, nhồi máu cơ tim (NMCT) gần đây, suy thận trước mổ, bệnh phổi tắc
nghẽn mãn tính, các loại phẫu thuật, các thuốc uống trước mổ kéo dài như Digitalis
và ức chế, thời gian phẫu thuật, thời gian THNCT kéo dài, thời gian kẹp động mach
chủ > 90 phút.
Kết luận: Dobutamine và Epinephrine là những thuốc có hiệu quả và ưu tiên sử dụng
trong phẫu thuật tim có THNCT.
ABSTRACT
EVALUATE THE EFFECTS OF INOTROPIC SUPPORT
IN PATIENTS UNDERGOING CARDIAC SURGERY WITH
CARDIOPULMONARY
Hoang Tuan, Nguyen Van Chung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 - Supplement of No 1 - 2009: 468 - 475
Objectives: Calculate the risks of perioperative and evaluate the effects of inotropic
support in patients undergoing cardiac surgery with cardiopulmonary.
Method: Prospective study. From October 01, 2003 to April 30, 2008, the data sets of
178 consecutive adult patients receiving elective cardiac surgery with
cardiopulmonary bypass at the Thong Nhat Hospital in Ho Chi Minh City.
Results: Altogether, inotropic drug support after weaning from cardiopulmonary
bypass was used in 74 of the 178 patients (41.57%). Epinephrine was used as a sole
inotrope in 14 patients (18.92%), Dobutamine in 30 patients (40.54%) after arresting
cardiopulmonary bypass. Epinephrine and Dobutamine, as well as Epinephrine,
Dobutamine, and Dopamine were used together in 26 patients (35.13%). Epinephrine,
Dobutamine, Dopamine and Norepinephrine were given in combination to four
patients (5.41%). The probability for the need of positive inotropic drugs (PPID) post
operation could be calculated by the following logistic equation: PPID=1/(1+e–z). The
overall 30-day mortality was 2.8%. The following factors had a significant influence
on the use of positive inotropic drugs: age ≥ 65 years, female gender, congestive heart
failure New York Heart Association class (NYHA) ≥ II, preoperative ejection
fractions 40 mmHg, myocardial
infarction recently, renal failure, chronic obstructive pulmonary disease (COPD),
preoperative use of digitalis and ß-adrenergic blockers, type of surgical procedure,
duration of surgery, cardiopulmonary bypass time, and aortic cross-clamping time >
90 minutes.
Conclusions: Dobutamine and Epinephrine are effective medicines and used primary
in cardiac surgery with cardiopulmonary bypass.
ĐẶT VẦN ĐỀ
Chức năng cơ tim thường suy giảm sau khi mổ tim có THNCT và có sử dụng dung
dịch liệt tim. Vì vậy thuốc TCBCT đã được sử dụng để cải thiện sự rối loạn chức
năng của tâm thất sau khi mổ tim có THNCT. Trong một số đơn vị mổ tim có sử
dụng các thuốc TCBCT một cách thường quy trong khi cai máy THNCT. Tuy nhiên
sử dụng các thuốc TCBCT, kể cả việc sử dụng Dopamine liều thấp có thể có hại trong
một vài trường hợp, ví dụ như làm tăng nhu cầu sử dụng ô xy cơ tim, loạn nhịp tim.
Trong nghiên cứu này chúng tôi nghiên cứu các yếu tố nguy cơ trước và trong mổ có
ảnh hưởng đến việc sử dụng thuốc TCBCT sau khi ngưng THNCT. Qua đó chúng tôi
phân tích và đánh giá hiệu quả của thuốc TCBCT sau mổ.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát
Xác định các yếu tố nguy cơ trước và trong mổ có ảnh hưởng đến việc sử dụng các
thuốc TCBCT, và đánh giá hiệu quả của thuốc TCBCT trên bệnh nhân trong và sau
phẫu thuật tim có THNCT.
Mục tiêu chuyên biệt
- Xác định các yếu tố nguy cơ trước và trong mổ có liên quan đến việc sử dụng thuốc
TCBCT sau mổ.
- Xác định khả năng sử dụng thuốc TCBCT trong và sau mổ.
- Xác định tỷ lệ thành công sử dụng thuốc TCBCT trong và sau mổ.
- Đề xuất sử dụng thuốc TCBCT đơn thuần hay phối hợp sau phẫu thuật tim, và thời
điểm sử dụng thuốc TCBCT.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tiền cứu, phân tích.
Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân trưởng thành tuổi từ 16 trở lên có chỉ định phẫu thuật tim hở tại bệnh viện
Thống Nhất Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian từ tháng 10 năm 2003 đến tháng
04 năm 2008.
Mẫu nghiên cứu
Với Z = 1,96, p=0,4, và d = 0,075. Vậy n = 163,9. Cỡ mẫu ít nhất là 164 bệnh nhân.
Phương pháp tiến hành nghiên cứu
Các bệnh nhân khi đến phòng mổ đều được gắn 5 điện cực để theo dõi liên tục 2 đạo
trình DII và V5, đo huyết áp không xâm lấn bằng máy đo huyết áp tự động, gắn cáp-
tơ theo dõi SpO2, thở ô-xy qua mặt nạ 3 lít/phút, đặt đường truyền tĩnh mạch ngoại
biên. Sau đó đặt ca-tê-te vào lòng động mạch quay để theo dõi huyết áp động mạch
xâm lấn. Bệnh nhân được dẫn mê với Fentanyl 5mcg/kg, Propofol 2mg/kg,
Rocuronium 0,6-0,9 mg/kg. Đặt nội khí quản sau 90 giây. Sau đó thực hiện chế độ
thông khí thể tích kiểm soát với thể tích khí thường lưu từ 8–10 ml/kg, tần số thở = 12
lần/phút, FiO2 = 60%. Kế đến đặt ca-tê-te 3 đường vào tĩnh mạch cảnh trong để theo
dõi huyết áp tĩnh mạch trung ương. Duy trì mê bằng Fentanyl 2-5mcg/kg/giờ,
Rocuronium 0,3–0,4 mg/kg/giờ, Propofol 6–12 mg/giờ, và phối hợp thêm với
Isoflurane. THNCT với hạ thân nhiệt trung bình (25-30 độ C). Sử dụng bộ màng trao
đổi khí Capiox số 10_Terumo. Nhiệt độ cơ thể được đo tại hậu môn và thực quản.
Dung dịch mồi cho vòng THNCT là Hesteril 6% (500ml) và dung dịch Lactated
Ringer (500ml). Chúng tôi sử dụng dung dịch liệt tim máu ấm có nồng độ Kali cao.
Thử khí máu mỗi 30 phút, duy trì Hematocrit trong lúc chạy THNCT từ 25 đến 30%.
Thời gian tái tưới máu cho bệnh nhân trước khi cai máy tim phổi nhân tạo bằng 1/3
thời gian kẹp động mạch chủ (ĐMC). Khi nhiệt độ hậu môn > 34 độ C, tiến hành cai
máy tim phổi nhân tạo từng bước một, làm đầy tim và duy trì huyết áp tối đa của bệnh
nhân khoảng 90-100 mmHg hoặc huyết áp tâm trương động mạch phổi tối đa 20
mmHg, và giảm lưu lượng bơm từ từ mà không sử dụng thuốc TCBCT một cách
thường quy. Trong lúc cai máy, các bệnh nhân được cho sử dụng thuốc TCBCT khi
quan sát trực tiếp thấy sức co bóp cơ tim giảm trong và sau cai máy THNCT bằng
cách quan sát trực tiếp thất phải hay siêu âm tim qua ngã thực quản(Error! Reference source
not found.).
Các tham số nghiên cứu
- Tuổi, giới tính, thuốc dùng trước mổ, cao huyết áp, tiểu đường, bệnh phổi tắc nghẽn
mạn tính, suy thận. Tình trạng suy tim, phân xuất tống máu, áp lực động mạch phổi,
mổ lại.
- Thời gian THNCT, thời gian kẹp ĐMC, thời gian phẫu thuật, thân nhiệt.
- Tình trạng huyết động trong và sau mổ.
- Thuốc TCBCT sử dụng: đơn thuần hay phối hợp, liều lượng, thời điểm sử dụng.
- Hội chứng cung lượng tim thấp sau mổ. Đặt bóng bơm đối xung nội ĐMC.
- Thời gian nằm viện, nằm hồi sức. Tỉ lệ tử vong. Các biến chứng khác sau mổ.
Phân tích và xử lý số liệu
Sử dụng phần mềm SPSS 11.0 để xử lý số liệu.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Bảng 1: Giới
Giới
Chúng
tôi
(n=178)
Rao
(n=4558)
Yaron
(n=1280)
Royster
(n=128)
Nam
(%)
53,4 81 66,4 64
Nữ
(%)
46,6 19 33,6 36
Bảng 2: Các loại bệnh lý
Bệnh lý
Số ca
(n=178)
Tỉ lệ
(%)
Bệnh lý van hai lá 66 37,08
Thông liên nhĩ 34 19,10
Bệnh lý 3 nhánh mạch vành 24 13,48
Bệnh lý 2 nhánh mạch vành 17 9,56
Bệnh lý mạch vành phải 3 1,69
Bệnh lý hẹp van ĐMC 12 6,74
Thông liên thất 12 6,74
Bệnh lý van hai lá và hẹp van
ĐMC
6 3.37
Bệnh lý 3 nhánh mạch vành và
hẹp van ĐMC
1 0,56
Bệnh lý mạch vành phải và
thông liên nhĩ
1 0,56
Thông liên nhĩ – Bất thường
tĩnh mạch phổi
1 0,56
U nhầy Thất phải 1 0,56
Tổng số 178 100%
Chúng tôi thực hiện gây mê mổ 178 trường hợp phẫu thuật tim các loại có THNCT.
Trong đó nam giới chiếm tỉ lệ 53,4%, nữ giới chiếm 46,6%, điều này cũng phù hợp
với mô hình bệnh tật tại bệnh viện chúng tôi, đa số bệnh nhân là cán bộ trung cao cấp
và nam giới chiếm nhiều hơn nữ giới. Bảng 1 cho thấy nghiên cứu của các tác giả về
phẫu thuật tim mạch cũng nhận thấy tỉ lệ nam nhiều hơn nữ(Error! Reference source not
found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.).
Chúng tôi nhận thấy bệnh lý mạch vành là bệnh lý hàng đầu ở bệnh nhân trên 65 tuổi.
Phù hợp với đặc điểm riêng của bệnh viện Thống Nhất là nơi điều trị bệnh nhân lớn
tuổi, trong tương lai bệnh lý mạch vành sẽ tăng lên và chiếm vị trí hàng đầu của phẫu
thuật tim mạch. Nhóm bệnh lý tim bẩm sinh thông liên nhĩ chiếm tỉ lệ 19,10% do
chúng tôi ưu tiên phẫu thuật những ca bệnh lý tim bẩm sinh đơn giản, sau đó mới phát
triển phẫu thuật ở những bệnh lý khác phức tạp và nặng hơn. Kế đó là nhóm bệnh lý
tim bẩm sinh thông liên thất và bệnh lý một van, hẹp van ĐMC cùng chiếm tỉ lệ
6,74%.
Bảng 3: Phân tích yếu tố tuổi, chiều cao, cân nặng, chỉ số khối cơ thể ảnh hưởng đến
việc sử dụng thuốc TCBCT
Tham số
Không sử
dụng thuốc
TCBCT
Sử dụng
thuốc
TCBCT
Gía
trị p
(n=104) (n=74)
Tuổi (năm)
44,92 (17 –
71)
58,51 (41–
1)
< 0,01
Chiều cao
(cm)
162,93 ±
9,11
160,74 ±
8,82
KYN
Cân nặng
(kg)
59,76
(12,62)
51,57 ±
10,41
< 0,01
Chỉ số khối
cơ thể
(kg/m2)
24,42 ± 5,30
22,58 ±
3,71
KYN
(KYN: không ý nghĩa)
Bảng 4: Phân tích yếu tố giới và loại phẫu thuật ảnh hưởng đến việc sử dụng thuốc
TCBCT
Không
sử dụng
thuốc
TCBCT
Sử dụng
thuốc
TCBCT
Tham số
Tổng
số
BN
N % N %
Gía
trị p
Giới
<
0,01
Nam 95 66 63,46 29 39,18
Nữ 83 38 26,54 45 60,82
Loại phẫu
thuật
<
0,01
Bắc cầu
ĐMV
44 27 25,96 17 22,97
Van tim 78 36 34,61 42 56,75
Bắc cầu
ĐMV kết
hợp van tim,
tim bẩm sinh
2 0 0 2 2,71
Hai van tim 6 1 0,96 5 6,76
Tim bẩm
sinh
47 39 37,51 8 10,81
U nhầy thất
phải
1 1 0,96 0 0
Bảng 5: Phân tích yếu tố bệnh lý kèm theo ảnh hưởng đến việc sử dụng thuốc
TCBCT
Không
sử dụng
thuốc
TCBCT
Sử
dụng
thuốc
TCBCT
Gía
trị p Tham số
Tổng
số
BN
N % N %
Không 140 83 79,81 57 77,03 Bệnh lí
ĐMV
trái
Có 38 21 20,19 17 22,97
Không 122 74 71,15 48 64,86 Tiền sử
cao
huyết
áp
trước
mổ
Có 56 30 28,85 26 35,14
Không 152 94 90,38 58 78,38 Suy
thận Có 26 10 9,62 16 21,62
<0,01
Không 141 83 79,80 58 78,38 Tiểu
đường Có 37 21 20,20 16 21,62
Không 146 90 86,54 56 75,67 Bệnh
phổi tắc
nghẽn
mạn
tính
Có 32 14 13,46 18 24,33
<0,01
Bảng 6: Phân tích yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến việc sử dụng thuốc TCBCT
Không
sử dụng
thuốc
TCBCT
Sử
dụng
thuốc
TCBCT
Gía
trị p
Tham số
Tổng
số
BN
N % N %
Không 17 13 12,51 4 5,41
NYHA
I
67 51 49,03 16 21,62
Suy
tim
sung
huyết
NYHA
II
84 37 35,58 47 63,51
<0,01
NYHA
III
10 3 2,88 7 9,46
> 50% 126 86 82,69 40 54,05 Phân
xuất
tống
máu
trước
mổ
30 - 50
%
52 18 17,31 34 45,95
<0,01
≤40
mmHg
116 84 80,77 32 43,24
Ap lực
ĐMP
trước
mổ
>40
mmHg
62 20 19,23 42 56,76
<0,01
Bảng 7: Phân tích yếu tố dùng thuốc trước mổ ảnh hưởng đến việc sử dụng thuốc
TCBCT
Không
sử dụng
thuốc
TCBCT
Sử
dụng
thuốc
TCBCT
Gía
trị p Tham số
Tổng
số
BN
N % N %
Không
sử dụng
thuốc
TCBCT
Sử
dụng
thuốc
TCBCT
Gía
trị p Tham số
Tổng
số
BN
N % N %
Không 111 66 63,46 45 60,81 Ức chế men
chuyển Có 67 38 36,54 29 39,19
Không 133 84 80,77 49 66,22
Lợi tiểu
Có 45 20 19,23 25 33,78
Không 161 98 94,23 63 85,13
Digitalis
Có 17 6 5,77 11 14,87
<0,01
Không 140 82 78,85 58 78,78
Ức chế bê-ta
Có 38 22 21,15 16 21,22
<0,01
Không 132 76 73,08 56 75,68 Ức chế can-
xi Có 46 28 26,92 18 24,32
Nitroglycerin Không 152 92 88,46 60 81,08
Không
sử dụng
thuốc
TCBCT
Sử
dụng
thuốc
TCBCT
Gía
trị p Tham số
Tổng
số
BN
N % N %
Có 26 12 11,54 14 18,92
Không 163 95 91,35 68 91,89 Thuốc chống
loạn nhịp Có 15 9 8,65 6 8,11
Các yếu tố sau ảnh hưởng có ý nghĩa (p < 0,01) trong việc sử dụng các thuốc TCBCT
sau mổ như tuổi ≥ 65, giới nữ (60,8%), suy tim sung huyết (NYHA ≥ II)(73%), phân
xuất tống máu thấp (30-50%)(46%), tăng áp động mạch phổi trước mổ (56,8%), suy
thận (21,6%), bệnh lý phổi tắc nghẽn mạn tính (24,3%), các thuốc sử dụng trước mổ
như ức chế (21,6%), Digitalis (14,9%), các loại bệnh lý, chủ yếu là bệnh van tim
(56,8%). Thực vậy tuổi càng lớn thường đi kèm với sự suy sụp phần lớn các cơ quan,
đặc biệt là sự thay đổi các cấu trúc về chức năng của tim và mạch máu, từ đó ảnh
hưởng đến hoạt động của hệ thống tim mạch, ngay cả khi không có bệnh lý kèm theo.
Tỉ lệ nữ giới trong nghiên cứu của chúng tôi sử dụng thuốc TCBCT sau mổ cao hơn
nam giới, điều này cũng phù hợp với các nghiên cứu gần đây về phẫu thuật mạch
vành, người ta nhận thấy rằng nữ giới thường đi kèm với tỉ lệ biến chứng và tỉ lệ tử
vong cao hơn là do hậu quả của kích thước các mạch vành nhỏ hơn và có yếu tố
thuyên tắc đoạn ghép cao hơn. Royster và Cs(Error! Reference source not found.) đã nghiên cứu
trên 128 bệnh nhân mổ bắc cầu mạch vành và ghi nhận các yếu tố như giới nữ, tim
lớn, phân xuất tống máu thấp, áp lực cuối tâm trương thất trái cao, và rối loạn vận
động vùng là những yếu tố tiên đoán độc lập cho việc sử dụng thuốc TCBCT sau mổ.
Về yếu tố các loại phẫu thuật, Rao và Cs(Error! Reference source not found.) nhận thấy ở các
bệnh nhân phẫu thuật bắc cầu mạch vành đơn độc thì ít sử dụng thuốc TCBCT sau
mổ hơn. Trong các nghiên cứu gần đây phẫu thuật bắc cầu ĐMV có tỉ lệ sử dụng
thuốc TCBCT sau mổ thấp hơn trong các phẫu thuật van tim, hay phẫu thuật van tim
kết hợp với bắc cầu ĐMV. Điều này cũng phù hợp với nghiên cứu của chúng tôi vì
không có sự khác biệt về việc sử dụng thuốc TCBCT sau mổ với yếu tố phẫu thuật
bắc cầu mạch vành đơn độc. Tuy nhiên khi phẫu thuật các bệnh van tim, hai van, hay
kết hợp với bắc cầu mạch vành thì nguy cơ sử dụng thuốc TCBCT tăng lên rõ rệt, với
p < 0,01 (bảng 4). Ở bệnh lý kết hợp hai van tim, diễn tiến suy tim nhanh và nặng nề,
các buồng tim dãn lớn và nhanh, sức co bóp cơ tim giảm, áp lực động mạch phổi tăng
cao. Cùng với thời gian phẫu thuật điều trị tổn thương hai van lâu, thời gian THNCT
và kẹp ĐMC cũng kéo dài hơn. Do đó sau mổ hầu như phải dùng thuốc TCBCT (5/6
ca, 83,3%), trong đó 33,3% (2/6 ca) sử dụng kết hợp hai loại thuốc TCBCT là
Dobutamine và Epinephrine, và 50% (3/6 ca) phải sử dụng trên hai loại thuốc
TCBCT. Ở nhóm bệnh lý tim bẩm sinh, bệnh van ĐMC, và bệnh mạch vành, tỉ lệ
điều trị thuốc TCBCT sau mổ ở mức độ trung bình 10,8-23%. Về yếu tố suy tim
trước mổ, chúng tôi nhận thấy biểu hiện lâm sàng suy tim trước mổ càng nặng, khả
năng phải điều trị thuốc tăng co bóp sau phẫu thuật càng cao. Có sự liên quan chặt
chẽ giữa việc sử dụng các thuốc TCBCT với các yếu tố làm suy giảm chức năng tâm
thất như số lần NMCT trước mổ hay hiện tại và có tiền sử suy tim NYHA ≥ II.
Nghiên cứu của Royster(8) cũng cho kết quả tương tự, nhóm điều trị TCBCT sau mổ
có EF = 54 ± 13%, thấp hơn nhóm không điều trị TCBCT sau mổ có EF = 61 ± 11%.
Điều này chứng tỏ những bệnh nhân trước mổ có giảm chức năng co bóp cơ tim, dãn
lớn buồng thất trái, tăng áp động mạch phổi, sau mổ có nhiều khả năng phải điều trị
bằng thuốc TCBCT. Ngoài ra, chúng tôi nhận thấy những bệnh nhân có bệnh lý kèm
theo là bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính thì có nguy cơ tăng lên cần phải sử dụng thuốc
TCBCT. Vì các bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính thường có tăng áp lực động
mạch phổi từ nhẹ đến trung bình, tăng hậu tải làm ảnh hưởng đến chức năng thất phải
sau THNCT. Ngược lại, chúng tôi nhận thấy các yếu tố như chiều cao, chỉ số khối cơ
thể, tiền sử cao huyết áp, bệnh lý nhánh chính ĐMV trái, tiểu đường, sử dụng thuốc
ức chế men chuyển, ức chế can-xi, Nitroglycerin, và thuốc chống loạn nhịp trong một
thời gian dài trước mổ thì không có ảnh hưởng đến việc sử dụng thuốc TCBCT sau
mổ. Tuy nhiên trong nghiên cứu của Vivek Rao và Cs(Error! Reference source not found.) thì
bệnh lý ĐMV trái vẫn còn là một yếu tố nguy cơ độc lập của hội chứng cung lượng
tim thấp sau mổ.
Còn các yếu tố trong lúc mổ, chúng tôi thấy rằng có sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê (p < 0,01) giữa nhóm điều trị thuốc TCBCT sau mổ có thời gian THNCT là 116
± 40 phút, thời gian kẹp ĐMC là 70,2 ± 26,2 phút, và thời gian phẫu thuật là 202 ±
66 phút kéo dài hơn nhóm không điều trị thuốc TCBCT có thời gian THNCT là
73,9 ± 30,4 phút, thời gian kẹp ĐMC là 54,2 ± 20,1 phút, và thời gian phẫu thuật
là 160,2 ± 53,8 phút. Nghiên cứu của Royster(Error! Reference source not found.) cũng cho
kết quả tương tự, nhóm điều trị TCBCT sau mổ có thời gian THNCT là 125 ± 37
phút, thời gian kẹp ĐMC là 50 ± 19 phút, so với nhóm không điều trị TCBCT sau
mổ có thời gian THNCT là 106 ± 3 phút, và thời gian kẹp ĐMC là 42 ± 15 phút.
Ngược lại Butterworth và Cs(Error! Reference source not found.) nghiên cứu trên các bệnh
nhân phẫu thuật van tim thì lại cho rằng thời gian kẹp ĐMC không ảnh hưởng đến
việc sử dụng thuốc TCBCT sau mổ, trong khi thời gian THNCT kéo dài thì có ảnh
hưởng với p < 0,04. Kenneth H và Cs(Error! Reference source not found.) nghiên cứu trên
1009 bệnh nhân phẫu thuật bắc cầu mạch vành hay bắc cầu kết hợp với phẫu thuật
van tim nhận thấy thời gian kẹp ĐMC kéo dài là yếu tố tiên đoán độc lập cho việc
sử dụng thuốc TCBCT sau mổ. Chúng tôi ghi nhận nhóm sử dụng thuốc TCBCT
có thời gian kẹp ĐMC trong mổ kéo dài > 90 phút có tỉ lệ là 62,2%. Khi thời gian
kẹp ĐMC kéo dài nó góp phần làm giảm Adenosine Triphosphat tạo nên hiện
tượng đờ cơ tim sau mổ.
Bảng 8: Kết quả phân tích hồi quy tuyến tính trong phân tích đa biến
Tham số
Độ
lệch
chuẩn
Gía
trị p
OR
Khoảng
tin cậy
95% của
OR
Mổ bắc - 0,33 <0,01 0,43 0,22 –
cầu mạch
vành
0,85 0,82
Suy tim
NYHA ≥
II
0,61 0,23 <0,01 1,85
1,17 –
2,92
Số nhồi
máu cơ
tim
0,69 0,14 <0,01 2,01
1,50 –
2,68
Bệnh phổi
tắc nghẽn
mạn tính
0,61 0,22 <0,01 1,85
1,19 –
2,87
Tuổi ≥ 65 0,48 0,17 <0,01 1,62
1,15 –
2,29
Thời gian
kẹp ĐMC
> 90 phút
0,84 0,28 <0,01 2,32
1,33 –
4,04
Trong số các yếu tố nguy cơ thì yếu tố NMCT trước mổ có mối tương quan mạnh
nhất (OR 2,01), nó chỉ ra rằng yếu tố nguy cơ NMCT trước mổ làm tăng gấp đôi khả
năng sử dụng thuốc TCBCT sau mổ. Suy tim NYHA ≥ II (OR 1,85), bệnh phổi tắc
nghẽn mạn tính (OR 1,85), tuổi ≥ 65 tuổi (OR 1,62) cũng là những yếu tố ảnh hưởng.
Liên quan đến các tham số về phẫu thuật với kiểu phân tích hồi quy tuyến tính thì
nguy cơ sử dụng thuốc TCBCT sau mổ tăng lên hầu hết ở các bệnh nhân có thời gian
kẹp ĐMC kéo dài > 90 phút (OR 2,32). Ngược lại phẫu thuật bắc cầu ĐMV lại có ảnh
hưởng tốt (OR 0,43).
Khả năng sử dụng thuốc TCBCT sau khi ngưng THNCT, và sau mổ có thể được tính
toán bởi phương trình hồi quy: PTTCBCT = 1/(1+e–z).
Với z = –0,85 x (phẫu thuật bắc cầu mạch vành) + 0,61 x (suy tim NYHA ≥ II) +
0,69 x (số lần nhồi máu cơ tim) + 0,61 x (COPD) + 0,48 x (tuổi ≥ 65) + 0,84 x
(thời gian kẹp ĐMC > 90 phút) – 1,18