Nông nghiệp Việt Nam trải qua gần 2 thập kỷ đổi mới đã đạt được những thành tựu đang kể, sản xuất phát triển tương đối toàn diện và ổn định với tốc độ tăng trưởng bình quân 4, 3 %/năm, trong lĩnh vực xuất khẩu của Việt Nam xuất khẩu nông sản đã đạt được những thành tựu nhất định trong tỉ trong xuất khẩu các sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản.Trong tổng giá trị xuất khẩu cả nước 5 năm qua luôn chiếm từ 25%-30%.
37 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1309 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thương hiệu hàng nông sản Việt Nam_Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Nông nghiệp Việt Nam trải qua gần 2 thập kỷ đổi mới đã đạt được những thành tựu đang kể, sản xuất phát triển tương đối toàn diện và ổn định với tốc độ tăng trưởng bình quân 4, 3 %/năm, trong lĩnh vực xuất khẩu của Việt Nam xuất khẩu nông sản đã đạt được những thành tựu nhất định trong tỉ trong xuất khẩu các sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản.Trong tổng giá trị xuất khẩu cả nước 5 năm qua luôn chiếm từ 25%-30%.Đến nay nông nghiệp xuất khẩu đã tạo ra được một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực ngày càng có vị trí trên thị trường quốc tế như gạo, cà phê, chè, hạt tiêu, điều, cao su… và một số mặt hàng thuỷ sản.
Tuy nhiên thương hiệu cho các mặt hàng nông sản trên còn chưa được chú trọng;làm cho giá trị hàng nông sản Việt Nam vẫn còn thấp.Việc xây dựng thương hiệu cho các mặt hàng nông sản xuất khẩu chính là một đòi hỏi lớn khi nước ta từng bước tham gia sâu hơn vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Vậy làm sao để thương hiệu hàng nông sản Việt Nam ngày càng được nâng cao?Nông nghiệp Việt Nam ngày càng khẳng định được vị thế của mình trên thị trường thế giới?
Để góp phần làm rõ hơn thực trạng xây dựng thương hiệu hàng nông sản Việt Nam và đưa ra những giải pháp thiết thực nhằm duy trì, củng cố thương hiệu hàng nông sản Việt Nam em xin viết đề án với đề tài: "Thương hiệu hàng nông sản Việt Nam_Thực trạng và giải pháp"
Do là lần viết đầu tiên cũng như còn nhiều hạn chế về thời gian, kiến thức và kinh nghiệm nên bài viết còn nhiều thiếu sót.Vì thế em rất mong nhận được sự đóng góp của cô và các bạn để các bài viết sau được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn cô!
Chương 1: Lý luận về thương hiệu
1.1. Thương hiệu là gì?
1.1.1. Định nghĩa
Từ thương hiệu(Brand) có nguồn gốc từ chữ dấu, xuất phát từ thời xa xưa khi nhiều chủ trại chăn nuôi muốn phân biệt đàn cừu của mình với những đàn cừu khác.Họ đã dùng một con dấu bằng sắt nung đỏ đóng lên lưng từng con một thông qua đó khẳng định giá trị hàng hoá và quyền sở hữu của mình.Như thế thương hiệu xuất hiện từ nhu cầu tạo sự khác biệt cho sản phẩm của một nhà sản xuất.Vì vậy, theo hiệp hội Marketing Hoa Kỳ một thương hiệu, một cái tên, một từ ngữ, một dấu hiệu, một biểu tượng, một hình vẽ hay tổng hợp tất cả các yếu tố kể trên nhằm xác định các sản phẩm hay dịch vụ của một(hay một nhóm) người bán và phân biệt các sản phẩm(dịch vụ) đó với đối thủ cạnh tranh.
1.1.2. Cấu tạo một thương hiệu.
-Phần phát âm được:là những dấu hiệu có thể nói thành lời;tác động vào thính giác người nghe như tên gọi, từ ngữ, chữ cái, câu khẩu hiệu, đoạn nhạc đặc trưng.
-Phần không phát âm được:là những dấu hiệu tạo sự nhận biết thông qua thị giác người xem như hình vẽ, biểu tượng, nét chữ, màu sắc.
1.2. Tác dụng của thương hiệu.
1.2.1. Thương hiệu là tài sản vô hình của doanh nghiệp.
Khi đánh giá tài sản một doanh nghiệp, thương hiệu là yếu tố không thể bỏ qua.Năm 1980 công ty Schweppers đã mua lại hãng Crush từ P&G với gía 220 triệu USD trong đó chỉ có 20 triệu USD dành cho cơ sở vật chất, còn 200 triệu USD dành cho giá trị thương hiệu, chiếm tỉ trọng 91%.Tương tự hãng Nestle khi mua lại công ty Rowntre đã chấp nhận tới 83% chi phí dành cho thương hiệu.Như vậy rõ ràng thương hiệu là tài sản có triển vọng khai thác trong tương lai và ngân sách dành cho việc xây dựng và quảng bá thương hiệu là một dạng đầu tư có lợi nhất.
Ở Việt Nam nhiều thương hiệu nổi tiếng được khẳng định như Đồng Tâm, Kinh Đô, Toàn Mỹ, Vinacafe…Tuy nhiên hiện nay chưa có một nghiên cứu toàn diện nào đánh giá chính xác giá trị của từng thương hiệu.Có một điều chắc chắn không thể phủ nhận doanh nghiệp nào có ý thức đầu tư cho việc quảng bá thương hiệu thì uy tín, hình ảnh, giá trị, niềm tin của họ trên thị trường sẽ được củng cố và do đó tài sản văn hoá của họ cũng tăng lên tương ứng.
1.2.2. Xây dựng thương hiệu doanh nghiệp sẽ có lợi gì?
-Nhờ sự phân biệt của từng thương hiệu mà quá trình lắp đặt, bảo hành, sửa chữa sẽ được giản hoá đi nhiều lần.Các thông tin về sản phẩm, giá cả.. được lưu trữ sẽ được truy cập nhanh chóng và chính xác giúp doanh nghiệp nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng.
-Thương hiệu đã đăng kí sẽ được bảo hộ của pháp luật tránh khỏi sự bắt trước của đối thủ cạnh tranh, khẳng định được ưu thế đặc trưng của doanh nghiệp.
-Thương hiệu là sự khẳng định đẳng cấp sản phẩm của doanh nghiệp.Hệ thống các thương hiệu sẽ cho phép doanh nghiệp tấn công vào từng phân khúc khách hàng khác nhau.
-Tên gọi, biểu tượng, màu sắc đặc trưng của thương hiệu sẽ hỗ trợ sản phẩm dễ dàng đi vào tâm trí khách hàng.
-Thương hiệu là nguồn củng cố khả năng cạnh tranh giúp nâng cao doanh số lợi nhuận của doanh nghiệp.
1.2.3. Xây dựng thương hiệu của doanh nghiệp khách hàng có lợi gì?
Nhờ thương hiệu khách hàng có thể:
-Biết xuất xứ sản phẩm.
-Yên tâm về chất lượng
-Tiết kiệm thời gian tìm kiếm thông tin.
-Giảm chi phí nghiên cứu thông tin.
-Khẳng định giá trị bản thân.
-Giảm rủi ro trong tiêu thụ.
1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến thương hiệu hàng nông sản Việt Nam.
1.3.1. Chất lượng sản phẩm.
Hiện nay, phần lớn những nhà quản lý doanh nghiệp và lãnh đạo kinh tế đều đề cao chất lượng sản phẩm như là lợi thế cạnh tranh.Họ cho rằng, chất lượng sản phẩm là cơ sở để giành, giữ thị phần cũng như khai phá thị trường mới.
Chất lượng sản phẩm bao gồm:
-Hàng hoá sản xuất ra phải đáp ứng theo chuẩn mực.Hàng hoá nông sản phải đáp ứng theo các tiêu chuẩn ISO quốc tế và phải được các tổ chức quốc tế xét duyệt và cấp chứng chỉ ISO .Có như vậy nông sản hàng hoá mới giữ được thị phần, giữ được vị thế trên thị trường, đảm bảo đủ độ tin cậy cho người tiêu dùng.
-Để thu hút khách hàng, nâng cao thương hiệu điều quan trọng hơn là hàng hoá phải đem lại cho người tiêu dùng những tác dụng đặc biệt.Vì vậy, vấn đề không chỉ là việc đảm bảo chất lượng chuẩn mực của sản phẩm mà là việc phấn đấu một chất lượng vượt trội thể hiện sự khác biệt cuả sản phẩm so với sản phẩm cùng loại trên thị trường quốc tế.Để thực hiện điều này, một nhân tố quan trọng là thực hiện sự đổi mới để tạo sự khác biệt so với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh.Đổi mới sản phẩm là một nhân tố cũng như là một phương cách để giành và giữ thị phần rất hữu hiệu.Sản phẩm có ấn tượng, đắt khách trên thị trường luôn luôn thu hút sự cạnh tranh.Do đó, đổi mới liên tục sản phẩm là để đón đầu các đối thủ cạnh tranh và cũng là cách để tự mình cạnh tranh với chính mình.Thực hiện quan điểm này, chiến lược của nông sản xuất khẩu là không phải tìm mọi cách để kéo dài chu kỳ sống sản phẩm mà luôn ở tư thế rút ngắn chu kỳ đó và thay thế bằng một chu kỳ sống khác.Đây chính là một bí quyết nâng cao giá trị thương hiệu.
1.3.2. Nhân tố thời gian xuất hiện trên thị trường.
Sự có mặt kịp thời đúng theo đòi hỏi của khách hàng là yếu tố mang đến giá trị gia tăng cho các đơn vị xuất khẩu hàng hoá nhiều khi còn cao hơn so với giảm chi phí và chế biến, từ đó sản phẩm dần đi vào tâm trí khách hàng.Yếu tố thời gian ở đây thể hiện ở chỗ:đảm bảo cho sản phẩm hàng hoá cung cấp trên thị trường luôn luôn đi trước một bước so với đối thủ cạnh tranh, nhằm tạo ra cái lạ, cái khác, cái chưa có so với cái hiện có ở thị trường.Yếu tố thời gian cung cấp trên thị trường cần được quán triệt trên hai ý tưởng:
Một là:đón đầu trào lưu thị trường.Điều này có nghĩa là phải dẫn đầu và tăng tốc kịp thời việc tung sản phẩm vào thị trường nhằm mục đích là để khách hàng đón nhận thương hiệu mang đến bởi doanh nghiệp.
Hai là:việc tối ưu hoá vận hành sản xuất.Điều này có nghĩa là, khi đã xác định được yêu cầu của khách hàng thì yếu tố cơ bản là phải nhanh chóng giữ và bành trướng thị phần trên cơ sở chuẩn bị đầy đủ lực lượng để phát triển và mở rộng quy mô sản xuât.
1.3.3. Nhân tố trung gian cung cấp hàng hoá nông sản.
Hàng hoá nông sản muốn có được thương hiệu trên thị trường quốc tế cần phải tìm được khách hàng có nhu cầu.Để thực hiện được mục tiêu này, ngoài việc đón bắt đúng thời điểm, còn là việc xác định đúng không gian và việc tổ chức cung cấp mạng lưới như thế nào?Liên quan đến nhân tố này bao gồm hai vấn đề:
- Lựa chọn thị trường xuất khẩu phù hợp.Thị trường quốc tế có quy mô khá rộng lớn và tính chất rất phong phú.Tuy vậy, để có thể đến với khách hàng một cách chủ động và kinh doanh có hiệu quả, chúng ta phải lựa chọn thị trường phù hợp.Đó là một thị trường bao gồm một khối lượng khách hàng lớn có nhu cầu và thị hiếu tiêu dùng của họ phù hợp với hàng nông sản của mình.Một thị trường ít đối thủ cạnh tranh, hoặc là bao gồm những khách hàng thiện chí là thuận lợi lớn để tiêu thụ sản phẩm.
-Vấn đề thứ hai mang tính kỹ thuật thương mại có liên quan đến yếu tố không gian cung cấp là nghệ thuật về tổ chức mạng lưới, chi nhánh và sự bày trí các cơ sở buôn bán, các cửa hàng tiêu thụ hàng hoá.Việc tạo ra sự tiện lợi cho khách hàng khi muốn tiêu thụ hàng hoá hoặc tạo ra sự bắt mắt cho người tiêu dùng bởi hệ thống cửa hàng hiện đại, hấp dẫn sẽ là cơ hội để thu hút được khách hàng với quy mô lớn.Đứng trên giác độ này, thì cần phải coi cửa hàng là nơi để cho khách hàng mua chứ không phải để cho doanh nghiệp bán.Cửa hàng hay nói chung là không gian cung cấp hàng hoá phải có tác dụng gây được các ấn tượng vị thế và châm ngòi hào hứng cho khách hàng, đó là nhân tố chủ lực tạo thương hiệu cho doanh nghiệp.
1.3.4. Nhân tố chất lượng, dịch vụ.
Để có thể nâng cao giá trị thương hiệu, vấn đề không kém phần quan trọng là yếu tố chất lượng dịch vụ, phục vụ vượt trội của các nhà cung cấp so với các đối thủ cạnh tranh .Liên quan đến vấn đề này có hai khía cạnh:
Một là, những dịch vụ để chuẩn bị tung sản phẩm ra thị trường, bao gồm tổ chức và đa dạng hoá các hình thức cung ứng dịch vụ xuất khẩu hàng hoá, tổ chức các hình thức dịch vụ, quảng cáo, bao bì, hình thức đóng gói sản phẩm đáp ứng được nhu cầu khách hàng, tạo ra được những nét độc đáo trong dịch vụ cung cấp.
Hai là, các dịch vụ nhằm thiết lập, củng cố, và mở rộng quan hệ đối tác lâu dài với khách hàng và thị trường.Dịch vụ đạt chất lượng vượt trội khi đem đến cho khách hàng giá trị sản phẩm nhiều hơn so với đối thủ cạnh tranh trong cùng lĩnh vực.
1.3.5. Nhân tố thuộc về các chính sách hỗ trợ.
Để nâng cao thương hiệu hàng nông sản Việt Nam như đã phân tích ở trên, yếu tố đóng vai trò quyết định thuộc về chính các doanh nghiệp mà nội dung cơ bản là làm thế nào để nâng cao khả năng cạnh tranh, tạo ấn tượng trong tâm trí người tiêu dùng và đạt hiệu quả trong kinh doanh.Mặt khác nó còn phụ thuộc rất lớn vào các giải pháp thuộc phía ngành và chính phủ.Đặc biệt với các nước đang phát triển như Việt Nam, mới bắt đầu những bước đi đầu tiên trong quá trình hội nhập quốc tế, thì sự tác động của Chính phủ thông qua các chính sách định hướng và điều tiết vĩ mô lại càng thực sự quan trọng hơn.Trong lĩnh vực nghiên cứu là hàng hoá nông sản xuất khẩu, các chính sách hỗ trợ của Chính phủ có liên quan trực tiếp đến các vấn đề :sử dụng yếu tố đất đai, sử dụng các yếu tố đầu vào của sản xuất nông sản, giá cả các hàng hoá trung gian sử dụng trong sản xuất và chế biến hàng hoá, giá cả các hàng hoá xuất khẩu, hỗ trợ vốn…Cụ thể bao gồm các chính sách chủ yếu như:
-Chính sách hỗ trợ trực tiếp, bao gồm:chính sách vốn, tín dụng, thuế, trợ cấp sản xuất, xuất khẩu hàng hoá, chính sách đất đai, trợ giá nông sản và các yếu tố đầu vào của sản xuất nông nghiệp.Cụ thể:ưu tiên cấp vốn, cho vay vốn với quy mô nhiều hơn, thủ tục thanh toán lới nỏng hơn và lãi suất nhẹ hơn với các cơ sở đăng kí sản xuất, chế biến hàng nông sản.Thực hiện thuế suất bằng không đối với mặt hàng nông sản xuất khẩu.Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài trong ngành sản xuất và chế biến nông sản nhằm hoàn thiện lợi thế so sánh đối với các hàng hoá này.
-Chính sách hỗ trợ gián tiếp nhằm định hướng các đơn vị sản xuất, các địa phương, các ngành phát triển mạnh sản xuất hàng hoá nông sản:chính sách đào tạo nguồn nhân lực, chính sách khoa học công nghệ, khuyến nông, chính sách cải cách hành chính nhà nước.Chính sách khoa học công nghệ là quan trọng nhất với mục đích đề xuất, tạo ra kỹ thuật công nghệ mới, lựa chọn và phổ biến những tiến bộ công nghệ cho các đơn vị sản xuất và chế biến nông sản hàng hoá.Chính sách công nghệ nhằm khai thác triệt để các nguồn của đổi mới công nghệ nông nghiệp có liên quan đến tất cả các khâu của quá trình sản xuất, đến mọi cây trồng vật nuôi và mọi ngành nghề.Đặc biệt các chính sách về triển khai nghiên cứu, áp dụng tiến bộ kỹ thuật và đổi mới công nghệ sản xuất sản phẩm nông nghiệp nhiệt đới xuất khẩu như chè, cà phê, lúa gạo và thuỷ sản đóng vai trò quyết định.Chính sách khuyến nông, khuyến ngư nhằm cung cấp thông tin về giống mới, kỹ thuật mới, phương pháp công nghệ hiện đại đóng vai trò quan trọng trong việc giúp các nhà sản xuất cập nhật thông tin và kỹ thuật hiện đại.Hỗ trợ kỹ thuật, công nghệ trong quá trình chuyển đổi cơ cấu khai thác và chế biến thuỷ sản cần được nhấn mạnh nhiều hơn, vì hiện nay, những địa phương ven biển có kế hoạch áp dụng nuôi trồng công nghiệp và bán công nghiệp khá nhiều nhưng họ đang gặp khó khăn về thông tin, phương pháp kỹ thuật, giống…Nên thường gặp thất bại, họ đang rất cần có sự hướng dẫn và trợ giúp trực tiếp của chính phủ và các tổ chức khuyến nông của ngành.
Những chính sách và sự tác động vĩ mô của Chính phủ là cơ sở để hoạt động sản xuất và xuất khẩu hàng hoá nông sản của nước ta có những bước đi chắc chắn trong tương lai trên thị trường quốc tế.
Có thể nói các nhân tố tác động tạo thành một hệ thống làm căn cứ cho việc xác định, thực thi các chính sách và giải pháp cụ thể nhằm xây dựng thương hiệu hàng nông sản Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng xây dựng thương hiệu hàng nông sản Việt Nam.
2.1. Thực trạng sản xuất, chế biến, xuất khẩu nông sản ở Việt Nam trong những năm đổi mới.
2.1.1. Thực trạng sản xuất, chế biến, xuất khẩu gạo.
-Thực trạng sản xuất.
Lúa luôn giữ vị trí trung tâm trong nông nghiệp và kinh tế nông thôn Việt Nam .Việt Nam có hai vùng sản xuất lúa lớn là đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long.Đây là hai vùng có mật độ dân cư và trình độ thâm canh sản xuất nông nghiệp thuộc loại cao nhất nước.
Từ năm 1986 Việt Nam đã bắt đầu đổi mới kinh tế.Hộ gia đình đã từng bước trở thành đơn vị sản xuất tự chủ và là lực lượng chính trong nông thôn, được trao quyền tự chủ quyết định sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.Cơ chế khoán hộ cùng với cải cách về chế độ sử dụng đất và tự do hoá thương mại đã tạo ra một bước nhảy vọt trong nông nghiệp.Sản xuất lúa gạo bắt đầu tăng mạnh từ cuối thập kỷ 80, Việt Nam chuyển từ nước nhập khẩu lương thực thành nước xuất khẩu gạo thứ hai trên thế giới.Cụ thể:
+Về diện tích:tổng diện tích tự nhiên của cả nước là 329.314, 02km2 với khoảng 20-25% đất đai được sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp, trong đó trên một nửa được sử dụng cho sản xuất lúa.
Mức tăng diện tích gieo trồng lúa trong khoảng 1990-2003 đạt 1,8%/năm, với con số tuyệt đối là 1442,6 ngàn ha trong đó mức tăng của đồng bằng sông Cửu Long là 3,31%/năm nhờ cải tạo thuỷ lợi vùng Đồng Tháp Mười khai thác đất hoang hoá ở các tỉnh trong vùng và tăng thêm vụ sản xuất thứ 3 trên diện rộng ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.
Vùng đồng bằng sông Hồng, các tỉnh Bắc Trung Bộ và các tỉnh miền núi phía Bắc có tốc độ tăng trưởng dưới 1%, các tỉnh Tây Bắc và Duyên hải Nam Trung Bộ diện tích lúa giảm do chuyển sang trồng các loại khác có hiệu quả hơn ở các vùng thiếu nước.
Như vậy diện tích gieo trồng lúa tăng không phải do tăng diện tích đất canh tác lúa mà chủ yếu do tăng vụ.Mức độ tăng thêm vụ lúa thứ ba trên phạm vi cả nước là 30,4 % năm 2004 so với 25,8% năm 1995 mức tăng trưởng 330 ngàn ha .
+Về giống lúa:Việt Nam trồng khá nhiều giống lúa khác nhau, tuỳ thuộc vào điều kiện của từng vùng sinh thái và từng mùa vụ.Các tỉnh phía Bắc sử dụng nhiều giống lúa nhập khẩu từ Trung Quốc và lúa lai.Trong khi đó các tỉnh phía Nam lai trồng nhiều giống lúa IR có nguồn gốc từ viện lúa quốc tế.
+Về năng suất:sản lượng lúa gạo tăng một phần do tăng năng suất lúa, đặc biệt là lúa vụ Đông Xuân và vụ mùa .Năng suất lúa của Việt Nam có mức tăng nhanh qua các năm và đạt ở mức khá cao.Tăng năng suất lúa không chỉ nhờ có giống tốt, mà còn do phát triển thuỷ lợi, cải thiện dinh dưỡng cây trồng và cải thiện công tác quản lý, tốc độ tăng năng suất lúa khác biệt giữa các vùng sinh thái, đặc biệt là giữa đồng bằng sông Cửu Long và các vùng còn lại trong cả nước sau nhiều năm;tốc độ tăng năng suất lúa của đồng bằng sông Cửu Long giảm từ 2,1%xuống còn 0,4% ở các vùng khác tăng trung bình từ 4-5%.
Đồng bằng sông Cửu Long chiếm trên 50% tổng sản lượng lúa cả nước, là nguồn cung cấp gạo xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam.
+Về sản lượng: Hàng năm sản lượng cả nước đạt 33-34 triệu tấn thóc, trong đó chỉ sử dụng khoảng 8 triệu tấn cho xuất khẩu(tương đương 4 triệu sau khi xay xát)cho xuất khẩu, còn lại là tiêu thụ trong nước và sử dụng cho dự trữ quốc gia).Sự thay đổi về diện tích và năng suất lúa là hai nhân tố chính tác động tới tốc độ tăng trưởng sản lượng;song vai trò của chúng giữa các vùng là khác nhau, thay đổi theo thời gian.
-Thực trạng chế biến.
Chế biến lúa được phân thành hai loại chế biến tiêu dùng nội địa và chế xuất khẩu.Chế biến tiêu dùng nội địa được tiêu dùng trên phạm vi cả nước với các trình độ công nghệ chế biến khác nhau:từ xay xát thủ công đến xay xát bằng máy với quy mô lớn;nhưng xay xát với quy mô nhỏ là chủ yếu.
Có tới 80% tổng sản lượng lúa của Việt Nam đang được xay xát bởi những máy móc nhỏ của tư nhân.Hầu hết các máy nhỏ của tư nhân không được trang bị đồng bộ sân phơi, lò sấy…Hoạt động của các nhà máy loại này phục vụ cho nhu cầu trong nước.Nếu có phục vụ xuất khẩu chủ yếu dưới dạng gia công nên chất lượng lúa không đảm bảo.
Chế biến xuất khẩu được thực hiện ở các vùng sản xuất lúa xuất khẩu, trước hết ở đồng bằng sông Cửu Long và một số cơ sở chế biến ở đồng bằng sông Hồng và Duyên Hải miền Trung.Sản phẩm xuất khẩu lúa chủ yếu là gạo;các sản phẩm từ gạo cũng có nhưng số lượng không đáng kể(bún khô, bánh đa nem, rượu…).Vì vậy chế biến lúa gạo xuất khẩu chủ yếu là hoạt động xay xát.Các nhà máy của tư nhân ở tình trạng như trên.Các nhà máy của Nhà nước chủ yếu mua gạo xay của nhà máy tư nhân về xát đánh bóng để xuất khẩu.Trường hợp chưa đảm bảo độ ẩm có thêm hoạt động sấy sau đó đánh bóng.Hệ thống chế biến lúa gạo xuất khẩu tuy được cải tạo nâng cấp nhưng mức độ hoạt động thấp, chất lượng chế biến chưa cao.Tỷ lệ gạo sau chế biến chỉ đạt 60-65%.Trong đó tỷ lệ gạo nguyên hạt chỉ chiếm 42-48% vừa gây lãng phí trong chế biến vừa phải xuất khẩu với giá rẻ.
Khoảng 10% gạo xuất khẩu không rõ phẩm cấp.Phần lớn gạo xuất khẩu của Việt Nam đã được phân loại theo tỷ lệ tấm do đó chất lượng của gạo chế biến ảnh hưởng rất lớn đến giá trị xuất khẩu và hiệu quả của chế biến.
-Thực trạng xuất khẩu của lúa gạo.
Bên cạnh các giải pháp và chính sách đổi mới nhằm khuyến khích phát triển sản xuất trong nước hoạt động thương mại quốc tế của ngành lúa gạo cũng được đẩy mạnh.
Một trong những thay đổi quan trọng nhất trong chính sách thương mại là việc xoá bỏ hạn ngạch và khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu gạo;nhờ đó tăng nhanh sản lượng gạo xuất khẩu gạo ở Việt Nam.Những thành tựu trong sản xuất lúa gạo thời kỳ đổi mới đã giúp Việt Nam không chỉ đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn trở thành nước xuất khẩu gạo quan trọng thế giới.Bắt đầu từ những năm 90 của thế kỷ trước, xuất khẩu gạo của Việt Nam tăng mạnh.Nếu như trong năm 1990 Việt Nam chỉ mới xuất khẩu 1,6 triệu tấn thì nay lượng gạo xuất khẩu từ Việt Nam đã đạt mức kỷ lục là 5,2 triệu tấn.
2.1.2. Thực trạng sản xuất, chế biến, xuất khẩu cà phê.
-Thực trạng sản xuất.
+Về diện tích:diện tích cà phê tăng nhanh hình thành vùng sản xuất hàng hoá tập trung, có giá trị kinh tế cao và trở thành nước xuất khẩu cà phê vối hàng đầu thế giới.
Diện tích cà phê thời kỳ này tăng nhanh từ 155.00ha năm 1994 lên cao nhất là 535.000 ha năm 2001 rồi giảm xuống 450.000ha năm 2003.
+Về năng suất:trong thời kỳ này là cao nhất.Nếu như trước đây năng suất cà phê dưới 10 tạ/ha thì bắt đầu từ 1999 đến nay năng suất tăng đáng kể năm 1999 là 20 tạ/ha và cho đến năm 2007 là 1,88 tấn/ha.Nếu so v