Nguồn lực con người không phải là một vấn đề mới. Tuy nhiên, việc nghiên cứu nguồn lực con người thì diễn ra thường xuyên trong tất cả các giai đoạn lịch sử, ở tất cả các quốc gia nếu như trong giai đoạn đó, ở quốc gia đó muốn có được sự phát triển đất nước, phát triển xã hội. Vì vậy, việc nghiên cứu nguồn lực con người luôn là một vấn đề có tính thời sự.
35 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1605 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tiếp tục nghiên cứu nguồn lực con người và phương hướng, giải pháp phát huy nguồn lực con người Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
§¹i häc Quèc Gia Hµ Néi
Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lí luận chính trị
Khóa luận tốt nghiệp
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Lớp: Chuẩn hoá
Tên đề tài: Tiếp tục nghiên cứu nguồn lực con người và phương hướng, giải pháp phát huy nguồn lực con người Việt Nam.
Họ và tên :
Đơn vị :
Hà Nội, tháng 3 năm 2008
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nguồn lực con người không phải là một vấn đề mới. Tuy nhiên, việc nghiên cứu nguồn lực con người thì diễn ra thường xuyên trong tất cả các giai đoạn lịch sử, ở tất cả các quốc gia nếu như trong giai đoạn đó, ở quốc gia đó muốn có được sự phát triển đất nước, phát triển xã hội. Vì vậy, việc nghiên cứu nguồn lực con người luôn là một vấn đề có tính thời sự. Con người là vừa chủ thể của lịch sử vừa là sản phẩm của lịch sử. Vì vậy, con người là nhân tố đưa đến sự phát triển xã hội, sự phát triển đất nước, bên cạnh đó con người đó như thế nào lại bị chi phối bởi chính hoàn cảnh lịch sử ấy.
Trong những thập kỷ cuối thế kỷ XX, nảy sinh hiện tượng là một số nước Đông Á có tốc độ phát triển kinh tế thần kỳ gây ra nhiều sự chú ý trong giới nghiên cứu và họ cố gắng đi tìm câu trả lời cho câu hỏi tại sao những nước như Nhật Bản, Singgapo, Đài Loan, Hồng Kông, … v.v lại có sự phát triển đó. Kết quả của những nghiên cứu cho thấy có nhiều nhân tố tạo nên như văn hóa truyền thống, trình độ dân số, kỹ thuật, công nghệ, …v. v. song câu trả lời làm ngạc nhiên giới nghiên cứu là sự nhảy vọt về kinh tế ở các nước đó không phải là kỹ thuật, công nghệ mà là văn hóa truyền thống. Vì vậy, nghiên cứu nguồn lực con người hiện đại cần phải thấy được sự liên hệ với yếu tố truyền thống, con người truyền thống, gắn với điều kiện hoàn cảnh cụ thể.
Đối với nước ta, xuất phát từ một nền sản xuất nhỏ, tự cung, tự cấp, nông nghiệp là chính tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, lại chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh kéo dài. Việc khắc phục những tàn dư của xã hội cũ, của nền sản xuất cũ như thói quen tác phong sản xuất nông nghiệp của người nông dân, tâm lí sợ sệt trong đầu tư sản xuất - kinh doanh, cách thức làm việc tuỳ tiện không khoa học, lối sống gia trưởng còn ăn sâu vào nếp nghĩ của con người Việt Nam hiện nay đang là một sự cản trở lớn đối với sự phát huy nguồn nhân lực trong phát triển xã hội,v.v.
Hiện nay, đất nước ta đang tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội và cùng với nó là phát triển một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện khoa học công nghệ trên thế giới đang phát triển như vũ bão và nền kinh tế thì trường thế giới đã phát triển đến trình độ cao. Chúng ta đã tham gia và là thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO. Sự tham gia đó đã mở ra cơ hội cũng như thách thức lớn đối với chúng ta.
Xuất phát từ những điều kiện đó, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội hơn lúc nào hết việc nghiên cứu và phát huy nguồn lực con người là một điều cần thiết.
2. Mục đích nghiên cứu
Trong khuôn khổ một đề tài môn học chủ nghĩa xã hội khoa học, khóa luận tập trung làm sáng tỏ quan niệm về con người, nguồn lực con người và vai trò của nguồn lực con người đối với sự phát triển xã hội, qua đó tạo cơ sở cho việc nghiên cứu và làm sáng tỏ nguồn lực con người Việt Nam ở những khía cạnh như: những yếu tố tác động đến nguồn lực con người Việt Nam, thực trạng con người Việt Nam và phương hướng, giải pháp phát huy nguồn lực con người Việt Nam.
3. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng phương pháp nghiên cứu chung là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trên cơ sở đó sử dụng các phương pháp tổng kết lí luận từ thực tiễn, kết hợp phương pháp lôgic và phương pháp lịch sử; phương pháp phân tích - tổng hợp để tiếp cận đối tượng.
NỘI DUNG
Chương 1: QUAN NIỆM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LENIN VỀ CON NGƯỜI VÀ NGUỒN LỰC CON NGƯỜI
1.1 Quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin về con người và con người xã hội chủ nghĩa.
Nguồn lực con người luôn có vai trò to lớn trong sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Việt Nam là một nước có nền kinh tế kém phát triển, muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội cần phát huy có hiệu quả nguồn lực con người của đất nước.
Kế thừa những giá trị tích cực trong quan niệm về con người trước đó, các nhà sáng lập của chủ nghĩa Mác đã đưa ra quan niệm về con người, theo đó Con người là một “thực thể tự nhiên”( 10 -232), “Nhưng con người không chỉ là thực thể tự nhiên, nó còn là thực thể tự nhiên có tính chất người, nghĩa là thực thể tồn tại cho bản thân mình và do đó là thực thể loài” (10 -234).
Như vậy, từ quan niệm của C.Mác và F. Ănghen ở trên ta thấy con người là một thực thể thống nhất, thực thể “song trùng” giữa hai mặt tự nhiên và xã hội, giữa hai mặt đó luôn gắn bó hữu cơ với nhau vào nhau tạo nên con nguời, thiếu một trong hai mặt đó thì con người không còn là con người, hai yếu tố này gắn kết với nhau, đan quyện vào nhau, trong cái tự nhiên chứa đựng tính xã hội và cũng không có cái xã hội tách rời cái tự nhiên. Từ các luận điểm trên còn cho thấy vai trò đặc biệt quan trọng của yếu tố, nhân tố xã hội trong sự hình thành con người và theo các nhà kinh điển Mác – Lênin thì nhân tố xã hội giữ vai trò quyết định đối với sự hình thành con người. Điều này còn được C.Mác, F.Ănghen nhắc lại và làm rõ ở những luận điểm sau; Trong quan niệm về con người, các nhà kinh điển còn tiếp tục làm sáng tỏ con người không chỉ là cá nhân con người mà con người còn là cộng đồng người, dân tộc người, là nhà nước, là nhân loại chứ không phải con người chung chung trừu tượng. Vì vậy, các nhà nghiên cứu chủ nghĩa Mác -Lênin ở Việt Nam đã khái quát quan niệm về con người thành luận điểm “Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học với mặt xã hội” (1- tr386). Đặc biệt con người trong quá trình tồn tại không chỉ tác động vào tự nhiên, làm biến đổi thế giới tự nhiên mà con người còn quan hệ với nhau tạo nên bản chất người, làm cho con người khác với con vật. "Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Con người không thể tồn tại được một khi tách khỏi xã hội. Chỉ trongxã hội con người mới có thể trao đổi lao động, thông qua đó mà thoả mãn những nhu cầu trong cuộc sống, như ăn, ở, đi lại v.v.. Trong xã hội thông qua quan hệ với người khác mà mỗi người nhận thức về mình một cách đầy đủ hơn, trên cơ sở đó mà rèn luyện, phấn đấu vươn lên về mọi mặt.
Trong những “ Luận cương về PHOI Ơ BẮC”, C.Mác đã đi đến khái quát về bản chất con người. Ông viết “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”( 9 -tr11). Như vậy, qua sự khái quát về bản chất con người của C.Mác thì bản chất con người là những quan hệ xã hội. Tuy nhiên, nói thế không có nghĩa là bản chất con người chỉ toàn là những quan hệ xã hội mà nó bao gồm cả những quan hệ với tự nhiên nữa, trong đó mặt xã hội, những quan hệ xã hội là yếu tố quan trọng nhất. Điều đó càng khẳng định con người là sản phẩm của lịch sử, bản chất con người do điều kiện lịch sử, điều kiện kinh tế -xã hội tạo nên. Nhưng trước khi con người là sản phẩm của lịch sử thì con người là chủ thể của lịch sử, sáng tạo ra lịch sử trước đã. Với cách hiểu như vậy sẽ là cơ sở lí luận quan trọng trong việc nghiên cứu về nguồn lực con người.
Khi bàn về việc xây dựng một chế độ xã hội mới, chế độ xã hội chủ nghĩa, C.Mác, F.Ănghen còn đưa ra quan niệm về con người xã hội chủ nghĩa. Theo đó con người xã hội chủ nghĩa bao gồm cả những con người củaxã hội cũ để lại và cả những con người sinh ra trong xã hội mới. Con người sốngdưới chế độ xã hội chủ nghĩa mang những nét đặc trưng của chủ nghĩa xãhội, song vẫn còn chịu ảnh hưởng không ít những tư tưởng, tác phong, thóiquen của xã hội cũ. Cho nên, quá trình xây dựng con người mới xã hội chủnghĩa là quá trình diễn ra cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt giữa cái cũ vàcái mới, cái tiến bộ và cái lạc hậu. Con người xã hội chủ nghĩa vừa là chủ thể trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa là sản phẩm của quá trình đó.Một mặt, trong lao động sản xuất, đấu tranh xã hội, con người tạo ra những điều kiện cơ sở vật chất ngày một tốt hơn, phục vụ con người ngày một chu đáo hơn, cuộc sống của con người ngày càng đầy đủ hơn, môi trường xã hội ngày càng trong sạch, ngày càng nhân văn hơn, do vậy, càng có những điều kiện để xây dựng nên những phẩm chất của con người xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, cũng chính trong quá trình lao động cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội mà con người cải tạo chính bản thân mình, tự rèn luyện khắc phục những hạn chế, thiếu sót của bản thân.
Trong từng thời kỳ lịch sử, trên cơ sở của sự phát triển lực lượng sản xuất, của trình độ phát triển xã hội, cần phải xác định mô hình con người cần xâydựng. Toàn bộ mọi hoạt động của xã hội, hệ thống luật pháp, những chínhsách kinh tế - xã hội, mục tiêu của giáo dục - đào tạo phải hướng vào mụctiêu. Dựa trên lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tiếp thu truyền thống dân tộc, căn cứ vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, những đặc trưng con người xã hội chủ nghĩa mà chúng ta phấn đấu xây dựng là:
• Con người XHCN là con người có ý thức, trình độ và năng lực làm chủ; • Con người XHCN là con người lao động mới, có tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc;
• Con người XHCN là con người sống có văn hóa, tôn trọng các giá trị nhân văn, có tinh thần cầu tiến;
• Con người XHCN là con người giàu lòng yêu nước, thương dân, có ý thức bảo vệ tính bền vững của chế độ XHCN.
1.2. Quan niệm về nguồn lực con người và vai trò của nó đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
1.2.1. Quan niệm về nguồn lực con người
Trong các nguồn lực có thể khai thác thì nguồn lực con người là quyết định nhất bởi lẽ những nguồn lực khác chỉ có thể khai thác có hiệu quả khi nguồn lực con người được phát huy. Những nguồn lực khác ngày càng cạn kiệt, ngược lại nguồn lực con người ngày càng đa dạng, phong phú và có khả năng nội sinh không không bao giờ cạn. Vậy nguồn lực con người được hiểu như thế nào?
Trong thời đại hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về nguồn lực con người. Tuy nhiên, có thể hiểu nguồn lực con người là những yếu tố ở trong con người có thể huy động, sử dụng để thúc đẩy sự phát triển xã hội. Như vậy, cách hiểu này cho thấy khi nói đến nguồn lực con người là nói đến thể lực, trí lực của con người, nói đến kỹ năng, tay nghề của con người, nói đến phẩm chất đạo đức của con người. Từ cách hiểu như vậy mà hiện nay trong các giáo trình giảng dạy môn học chủ nghĩa xã hội khoa học trong các trường đại học, cao đẳng ở Việt nam đều hiểu một cách khái quát “Nguồn lực con người là tổng thể những yếu tố thuộc về thể chất, tinh thần, đạo đức, phẩm chất, trình độ tri thức, vị thế xã hội, v.v. tạo nên năng lực của con người, của cộng đồng người có thể sử dụng, phát huy trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước và trong những hoạt động xã hội” (2 -tr271-272).
Từ cách hiểu về nguồn lực con người như trên có thể thấy nguồn lực con người là tổng thể những cái đã có, đang có, sẽ có tạo thành tiềm năng, sức mạnh của con người nhằm cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội để phục vụ cho đời sống con người với cách hiểu như vậy thì nguồn lực con người đã trở thành chủ thể của mọi hoạt động tham gia vào cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội. Chủ thể ấy - nguồn lực con người - thể hiện thông qua số lượng và chất lượng nguồn nhân lực.
Về số lượng nguồn nhân lực được xác định trên quy mô dân số, cơ cấu độ tuổi, sự tiếp nối các thế hệ, giới tính và sự phân bố dân cư giữa các vùng miền của đất nước, giữa các ngành kinh tế, giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội. Với sự biểu hiện về số lượng nguồn nhân lực như vậy cho thấy một quốc gia có quy mô dân số đông, cơ cấu độ tuổi lao động trẻ sẽ là một biểu hiện tốt cho sự phát triển nguồn nhân lực của quốc gia đó. Tuy nhiên, nguồn nhân lực không chỉ biếu hiện qua số lượng mà còn biểu hiện thông qua chất lượng nguồn nhân lực.
Về chất lượng nguồn nhân lực thể hiện qua thể lực, trí lực, trình độ tay nghề, năng lực quản lí, mức độ thành thạo trong công việc, phẩm chất đạo đức, tình yêu quê hương đất nước, ý thức giai cấp, v.v. Qua sự biểu hiện trên cho thấy thể lực, trí lực, trình độ tay nghề là những yếu tố vô cùng quan trọng nói lên chất lượng của nguồn nhân lực. Tuy nhiên, cũng cần khẳng định rằng những biểu hiện về thể lực và trí lực trong nguồn lực con người không phải là thứ tự nhiên mà có, không phải do chúa ban cho mà do chính bản thân con người, nhà nước, xã hội tạo ra. Nhận thức được điều đó cho chúng ta cơ sở phương pháp luận trong việc tìm hiểu và phát huy vai trò nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay.
1.2.2. Vai trò của nguồn lực con người đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
Như đã đề cập đến ở phần trên có nhiều nguồn lực phát triển kinh tế xã hội, trong các nguồn lực đó thì nguồn lực con người có vai trò quan trọng nhất, bởi các nguồn lực khác như nguồn lực tự nhiên (tài nguyên, khoáng sản, rừng, biển..), nguồn lực vốn, khoa học công nghệ đều rất quan trọng thiếu nó thì không thể phát triển được nhưng nó chỉ tồn tại ở trạng thái tiềm năng, chúng tồn tại ở trạng thái bất động. Chúng chỉ trở nên sống động khi có sự tác động, có sự khai thác của nguồn lực con người, chúng sẽ trở nên có giá tri hơn khi có sự khai thác sử dụng, phát huy của nguồn nhân lực. Chẳng hạn cùng là biển, biển đó chỉ có tác dụng cho việc đánh bắt thuỷ hải sản, nhưng nếu như có sự khai thác, phát huy của nguồn lực con người một cách hiệu quả thì biển ấy không chỉ là địa bàn đánh bắt thuỷ hải sản mà nó còn là nguồn tài nguyên quan trọng trong phát triển du lịch, khai thác giao thông biển, cảng biển,.v. v…Qua đó, chúng ta có thể khẳng định vai trò quan trọng của nguồn lực con người đối với sự phát triển kinh tế xã hội.
Hiện nay, đất nước ta đang bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, vai trò của con người ngày càng được thể hiện rõ rệt, bởi chủ nghĩa xã hội có thể xây dựng thành công trên đất nước ta hay không phụ thuộc vào việc chúng ta có phát huy tốt nguồn lực con người hay không. Vì vậy, mà sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, truớc hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”.(8 -tr310).
Khi khẳng định vai trò của nội lực so với ngoại lực, Đại hội X của Đảng ta đã khẳng định vai trò quyết định của nguồn lực con người đối với sự phát triển kinh tế - xã hội “ Nội lực có vai trò quyết định đối với sự phát triển. Có phát huy được nội lực mới thu hút và sử dụng có hiệu quả ngoại lực. Nội lực được tăng cường mới đảm bảo được độc lập tự chủ về kinh tế và thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế thành công. Phát huy nội lực trước hết là phát huy nguồn lực con người, nguồn lực toàn dân tộc, khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên và sử dụng tốt nhất các nguồn lực nhà nước” ( 7 - tr179).
Khi đề cập đến vai trò của con người đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta có thể khái quát vai trò của ngườn lực con người ở một số nội dung sau:
* Vai trò của nguồn lực con người trong lĩnh vực kinh tế.
Trong bất cứ xã hội nào, người lao động cũng là yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất. V.I.Lênin đã chỉ ra: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”. Con người khi được làm chủ tư liệu sản xuất, được đào tạo một cách chu đáo những kiến thức quản lý kinh tế sẽ có điều kiện khai thác một cách có hiệu quả tiềm năng kinh tế. Ngày nay, vai trò người quản lý trong sản xuất kinh doanh ngày càng trở nên quan trọng, do vậy các quốc gia thường rất quan tâm tới đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ này. Trong quá trình xây dựng CNXH, người lao động đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ quá trình tổ chức quản lý sản xuất. Điều đó tạo ra những điều kiện thuận lợi để phát huy nguồn lực con người, phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững, làm cho đất nước ngày càng giàu đẹp.
* Vai trò của nguồn lực con người trong lĩnh vực chính trị.
Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng nhà nước chuyên chính vô sản, Hồ Chí Minh nhiều lần lưu ý rằng, nước ta phải đi đến dân chủ thực sự, “Chúng ta phải ra sức thực hiện những cải cách xã hội, để nâng cao đời sống của nhân dân, thực hiện sự dân chủ thực sự”. Cán bộ nhà nước có hiểu biết lý luận, hiểu biết thực tiễn, thấy được trách nhiệm của mình đối với nhân dân, sẽ hết lòng phụng sự và tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân. Cán bộ nhà nước tích cực tuyên truyền đường lối của Đảng, kết hợp với việc người dân chủ động tích cực thực hiện đường lối đó sẽ làm tăng cường sức mạnh của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nói về vai trò quần chúng tham gia công việc của Nhà nước, Hồ Chí Minh đã viết: “khi người dân … biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mỉnh dám nói, dám làm, thì việc khó khăn mấy họ cũng làm được, hy sinh mấy họ cũng không sợ”. Có thể khẳng định, nguồn lực con người là yếu tố quan trọng trong việc xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân, vì dân.
* Vai trò của nguồn lực con người trong lĩnh vực văn hóa.
Nhân dân lao động đã trở thành người làm chủ trong đời sống văn hóa xã hội. Quần chúng lao động là những người góp phần xây dựng nên những công trình văn hóa, những người sáng tạo ra các tác phẩm nghệ thuật. Một khi con người có tri thức, có hiểu biết vầ các hình thức nghệ thuật, sẽ tham gia sáng tạo ra những tác phẩm nghệ thuật có giá trị cao. Con người có văn hóa cũng là những người có nghĩa vụ bảo tốn di sản văn hóa của đất nước, của nhân loại. Trình độ tri thức của mỗi người về văn hóa là tiền đề cho họ tiếp nhận những giá trị tốt đẹp của dân tộc khác, loại bỏ những yếu tố không phù hợp để làm giàu cho nền văn hóa dân tộc mình, làm phong phú đời sống tinh thần cá nhân. Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ tri thức ,tạo điều kiện tốt cho họ cống hiến hết khả năng trí tuệ cho đất nước, cho sự phát triển của xã hội.
* Vai trò của nguồn lực con người trong lĩnh vực xã hội.
Những vấn đề xã hội bao gồm: Vấn đề lao động việc làm, thực hiện công bằng xã hội, xóa đói – giảm nghèo… Muốn giải quyết tốt những vấn đề này, đòi hỏi chúng ta phải phát huy tốt vai trò của nguồn lực con người. Muốn giải quyết tốt vấn đề lao động việc làm, đòi hỏi chúng ta phải nâng cao chất lượng nguồn lực con người từ nâng cao sức khỏe,trình độ học vấn, tay nghề, năng lực quản lý, tới ý thức chính trị cho người lao động. Chính sách xóa đói giảm nghèo là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Chính sách này chỉ phát huy hiệu quả khi chính những người nghèo thấy được trách nhiệm của mình để nỗ lực phấn đấu vươn lên.
Như vậy con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất, mà còn là chủ thể của quá trình sản xuất tinh thần của xã hội. Sự phối hợp giữa các thành viên trong cộng đồng sẽ tạo ra sức mạnh to lớn trong việc phát huy nguồn lực con người để nhận thức, cải tạo tự nhiên và xã hội. Hiệu quả việc phát huy nguồn lực con người tùy thuộc vào chế độ xã hội, cơ chế và chính sách của xã hội.
Chương 2. PHÁT HUY NGUỒN LỰC CON NGƯỜI VIỆT NAM
2.1. Những yếu tố tác động đến nguồn lực con người Việt nam
Từ thực tiễn xã hội Việt Nam hiện nay có thể thấy có nhiều yếu tố tác động đến nguồn lực con người Việt Nam, biểu hiện như sau:
- Một là những yếu tố lịch sử truyền thống:
Từ lịch sử dân tộc cho thấy trải qua quá trình sống và đấu tranh chống kẻ thù xâm lược đã dần hình thành nên từ rất sớm những truyền thống văn hoá của dân tộc như tinh thần đoàn kết cộng đồng, đề cao vai trò của lao động cần cù sáng tạo, truyền thống yêu nước chống ngoại xâm, ý chí độc lập, tự chủ, tự cường, truyền thống kế thừa văn hoá của dân tộc và nhân loại,v.v. Những nét văn hoá đó luôn được lưu giữ từ đời này qua đời khác và không ngừng được bổ sung, phát huy và phát triển trong từng con người lao động Việt Nam tạo nên những phẩm chất cao đẹp của con người Việt Nam. Với những phẩm chất đó, nguồn nhân lực Việt Nam có thể phát huy tốt các giá trị đó trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những giá trị tốt đẹp được lưu giữ trong từng con người Việt Nam đã trình bầy ở trên, nguồn lực con người Việt Nam còn ẩn chứa những hạn chế bất lợi trong khai thác, phát huy ngu