Đề tài Tìm hiểu công nghệ IP

Việc thực hiện truyền đa tin tức trên mạng Internet dựa trên giao thức TCP/IP có nghĩa là các máy tính kết nối đến mạng cần phải có một số hiệu để nhận dạng, số hiệu này được gọi là địa chỉ IP của máy tính đó. Tin tức truyền đa trên mạng được thể hiện dưới dạng các gói tin, mỗi gói tin đều được gán các địa chỉ IP của máy tính cần nhận thông tin đó. Trong công nghệ IP một vấn đề đáng quan tâm nữa là các bộ định tuyến, để các gói tin đến đích một cách chính xác cần phải thực hiện việc định tuyến (router). Do các máy tính trong mạng đều có một địa chỉ IP duy nhất nên các bộ router sẽ tính toán và tìm ra hướng truyền phù hợp.

doc43 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1635 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu công nghệ IP, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. Công nghệ IP 1.1 Tổng quan. Việc thực hiện truyền đa tin tức trên mạng Internet dựa trên giao thức TCP/IP có nghĩa là các máy tính kết nối đến mạng cần phải có một số hiệu để nhận dạng, số hiệu này được gọi là địa chỉ IP của máy tính đó. Tin tức truyền đa trên mạng được thể hiện dưới dạng các gói tin, mỗi gói tin đều được gán các địa chỉ IP của máy tính cần nhận thông tin đó. Trong công nghệ IP một vấn đề đáng quan tâm nữa là các bộ định tuyến, để các gói tin đến đích một cách chính xác cần phải thực hiện việc định tuyến (router). Do các máy tính trong mạng đều có một địa chỉ IP duy nhất nên các bộ router sẽ tính toán và tìm ra hướng truyền phù hợp. 1.2 Công nghệ IP version 6 (IP phiên bản 6). IP version 6 (IPv.6) là phiên bản mới của giao thức Internet vốn đã trở nên hết sức phổ biến với chúng ta ngày nay, là giao thức Internet Protocol (IP hay TCP/IP). Sự ra đời của IPv.6 bắt nguồn từ chỗ người ta phát hiện ra những vấn đề nảy sinh trong mạng IP khi mà Internet đã phát triển vượt bậc. Bởi vậy IPv.6 được đưa ra như một giải pháp cho những vấn đề trên cũng như để tạo ra giao thức ưu việt hơn giao thức TCP/IP. Chúng ta có thể nhận thấy rằng bằng cách sử dụng giao thức IP phiên bản 4 hiện nay rõ ràng không đạt hiệu quả cao. Bởi vì tại thời điểm đưa ra giao thức IP, những nhà thiết kế và quy hoạch mạng đã cho rằng con số 4 tỷ nút mạng (các địa chỉ IP của máy tính) có thể cùng trao đổi thông tin với nhau là quá đủ cho mạng truyền thông cho dù có phân các nút mạng trên thành các lớp A, B, C đi chăng nữa. Tuy nhiên gần 75% trong số địa chỉ này đã bị chiếm giữ bởi những người khổng lồ trong viễn thông như MIT hay AT&T. Các công ty này đều có ở vị trí A trong các phân lớp IP, mỗi hãng hiện nay đang điều khiển khoảng hơn 16 triệu địa chỉ. Bởi vậy các công ty khác ngày nay chỉ có thể chia sẻ với nhau những địa chỉ thuộc lớp C mà thôi . Ngược lại với IPv.4 (chỉ sử dụng 32 bít dể đánh địa chỉ), IPv.6 sử dụng đến 128 bít do đó có thể đa số địa chỉ IP lên tới 340 tỷ tỷ tỷ tỷ địa chỉ. Nói các khác nếu mỗi người trên hành tinh chúng ta đều sở hữu một mạng IPv.6 với 18 tỷ nút thì IPv.6 vẫn thừa khả năng để đánh địa chỉ cho tất cả các nút đó. Vấn đề thứ hai xảy ra đối với giao thức IPv.4 là khó khăn của việc chọn đường trong một hệ thống mạng luôn thay đổi như Internet. Vấn đề này càng trở nên rõ ràng khi chúng ta xét đến các chức năng của internet tại những mức ứng dụng cao nhất. Hiện tại, người ta sử dụng hai giải pháp sau để giải quyết vấn đề trên: Sử dụng những kỹ thuật để chuyển đổi địa chỉ (Network Address Translation) để cải thiện khả năng đánh địa chỉ. Sử dụng cơ chế chọn đường liên mạng kiểu không phân lớp (Classles Interdomain Routing) để giải quyết vấn đề chọn đường. Tuy nhiên, cả hai giải pháp trên mới chỉ là tạm thời. Bởi vậy người ta đã đưa ra IPv.6 để giải quyết triệt để các vấn đề trên. Khả năng đánh giá địa chỉ cũng như chọn đường chỉ là hai trong số rất nhiều tính năng của IPv.6. Những khả năng này phát triển dựa trên những nhu cầu của các doanh nghiệp cho môt cấu trúc mạng có khả năng chuyển đổi cao, tăng cường bảo mật và toàn vẹn dữ liệu, tích hợp với các tiêu chuẩn chất lượng dịch vụ có khả năng tự động cấu hình mạng, tích hợp với công nghệ di động, truyền thông dữ liệu... Tại hội nghị thường niên của SIGCOMM năm 1999, bà Sandy Fraser - giám đốc kỹ thuật của AT&T đã bày tỏ mối quan tâm của mình tới cấu trúc mạng Internet hiện nay. Liêu có đủ khả năng để đáp ứng tốc độ phát triển của Viễn thông và Công nghệ truyền thông như hiện nay hay không? Tại sao chúng ta chưa chuyển đổi từ IPv.4 sang IPv.6 ? Phải chăng tổ chức chịu trách nhiệm nghiên cứu và phát triển Internet IETF đang tỏ ra cứng nhắc trong hoạt động của mình? Một trong những vấn đề xung quanh việc phỏ cập IPv.6 là chúng ta không thể xác định được khi nào chúng ta mới có thể đặt dấu chấm hết cho các địa chỉ kiểu IPv.4. Những người lạc quan cho rằng IPv.4 sẽ chỉ còn tồn tại trong vài thập kỷ nữa mà thôi. Bởi vì có một thức tế là những quốc gia chỉ được phân phối địa chỉ IPv.4 như: Trung Quốc, Nhật Bản.... lại đang là những nước có nhu cầu về địa chỉ IP tăng mạnh trong thời gian tới. Những nhà cung cấp dịch vụ IP thế hệ mới như: Công nghệ điện thoại số di động và những nhà cung cấp thiết bị mạng cũng nói rằng hộ cần tới hàng triệu địa chỉ IP cho hàng triệu thiết bị tới của họ. Chúng ta cũng cần ghi nhận những động thái tích cực từ phía IETF, nhóm nghiên cứu về giao thức IP thế hệ mới của tổ chức này đang cố gắng đưa ra những đặc tả về IPv.6 cũng như thiết lập ra một diễn đàn mới nhằm mục đích phát triển giao thức này. 1.3 Chuyển đổi từ IPv.4 sang IPv.6. Một yêu cầu tối cần thiết với IPv.6 là trước khi có thể chuyển đổi hoàn toàn mạng Internet sang sử dụng IPv.6, thì giao thức này phải “chung sống hoà bình” với IPv.4. Thực tế thì IPv.6 hoàn toàn có thể hỗ trợ khả năng này, chúng ta có thể nâng cấp cấu trúc mạng theo kiểu nâng cấp từng nút mạng rồi mới nâng cấp router, hay ngược lại nâng cấp router lên IPv.6 rồi mới nâng cấp nút mạng. Thậm chí chúng ta có thể chỉ nâng cấp một số nút mạng và router, số còn lại giữ nguyên. Cho đến khi nhà cung cấp dịch vụ có thể xây dựng được Backbone IPv.6 riêng và bắt đầu cung cấp các dịch vụ IPv.6, các nút mạng đầu cuối vẫn trao đổi thông tin qua mạng IPv.4 điều này có thể được thực hiện dễ dàng bởi các gói tin IPv.6 được đóng gói trong phần dữ liệu của IPv.4. Tại một điểm dừng, gói tin IPv.4 sẽ được phân tích để lấy lại gói tin IPv.6 rồi tiếp tục được gửi cho tới điểm đích. 1.4 Những thuận lợi của mạng IP thế hệ mới sử dụng IPv.6. Với việc đáp ứng được các nhu cầu doanh nghiệp về khả năng tương tác dữ liệu đa phương tiện cũng như hỗ trợ cho các ứng dụng truyền thông chất lượng cao, IPv.6 đang là giải pháp đầy triển vọng cho các liên mạng của các doanh nghiệp nói riêng cũng như toàn Internet nói chung. Tính tin cậy và khả chuyển: Môt trong những khác biệt quan trọng giữa mạng Internet ngày nay và mạng Internet trong tương lai sẽ là độ tin cậy của nó Internet sẽ trỡ nên luôn sẵn sàng khi chung ta muốn sử dụng nó. Người dùng sẽ dễ dàng kết nối vào mạng mà không cần thực hiện một loạt các thủ tục quay số đăng nhập phức tạp như ngày nay nữa và họ có thể truy nhập vào bất cứ side nào hay môt ứng dụng nào trên mạng mà không phải quan tâm đến những vấn đề như biến đổi thông lượng mạng dẫn đến mất kết nối. Tính an toàn và bảo mật: Người dùng trong mạng IP thế hệ mới có thể hoàn toàn tin cậy vào những dữ liệu trên mạng giống như những dữ liệu mà họ lưu trữ trong tủ hồ sơ của mình với sự trợ giúp của thông tin số lúc đó đã trở nên phổ biến, các dữ liệu của người dùng sẽ được bảo mật và lưu trữ hết sức an toàn. Đặc biệt, chúng ta sẽ có được những phương pháp đảm bảo an toàn để: Bảo đảm tính bí mật của dữ liệu được gửi đi trên mạng Internet. Bảo đảm rằng những thông điệp được gửi đi và nhận về hoàn toàn chính xác. Lưu trữ và bảo đảm an toàn cho các thông tin cá nhân trên mạng. Cung cấp chữ ký điện tử cho các văn bản lưu hành trên mạng. Bảo đảm rằng các giao dịch sẽ được thực hiện đúng với thời gian quy định. Chất lượng dịch vụ: Cả IPv.4 và IPv.6 đều hỗ trợ những trường trong phần header để đảm bảo cung cấp các dịch vụ khác biệt đơn giản. Cả IPv.4 và IPv.6 đều có thẻ hỗ trợ giao thức lưu trữ tài nguyên cho những dịch vụ tương đối phức tạp hơn. Khuôn dạng gói tin trong IPv.6 bao gồm một trường 24 bít để xác định trafficflow cho phép các nhà cung cấp có thể thực hiện những tiêu chuẩn chất lượng dịch vụ của mình. Mặc dù những dịch vụ này đang còn ở giai đoạn thử nghiệm những IPv.6 đã đợc đặt nền móng cho phép triển khai những ứng dụng đảm bảo chất lượng dịch vụ cho phép phương thức mới có tính khả thi. Một điểm lợi khác của IPv.6 là cung cấp trường flow label cũng có thể được dùng để xác định giải thông ngay cả khi phần dữ liệu gói tin đã bị mã hoá. Nhờ thông tin trong trường flow label, chúng ta có thể xác định được những gói tin nào cần phải được thao tác một cách đặc biệt. Ví dụ như: dữ liệu hình ảnh, âm thanh có thể gắn với một nhãn flow label cũng có thể được sử dụng để gắn cho một luồng dữ liêụ những mức ưu tiên về đảm bảo an toàn về độ trễ hay về chi phí truyền thông. Hỗ trợ các ứng dụng di động: Vì nhiều lý do, hiện nay IPv.4 tỏ ra rất khó khăn trong việc quản lý nút mạng di động. Mỗi nút mạng di động cần sử dụng một địa chỉ chuyển tiếp tại mỗi thời điểm mà nó kết nối với Internet. IPv.4 thực hiẹn việc này một cách khó khăn. IPv.4 không hỗ trợ những cơ chế đã đăng ký và quản lý thuê bao tốt mà những cơ chế này lại rất cần thiết trong mạng di động để các agent có thể được thông tin về vị trí mới của các nút di động. Các nút mạng di động thường gặp nhiều khó khăn để xác định xem chúng có cùng thuộc một mạng IPv.4 hay không. Trong IPv.4 các nút mạng di động thường không thể thông báo cho đối tác truyền thông của nó sự thay đổi vị trí. Cấu trúc IPv.6 cho phép hỗ trợ tối đa cho việc thiết lập và quản lý các nút mạng di động. Việc tăng cường khả năng xử lý về lựa chọn địa chỉ đích tự động cấu hình, routing header, đóng gói gói tin, đảm bảo an toàn và có thể truyền thông anycast đáp ứng được yêu cầu của mạng di động. 2. Các dịch vụ của Internet 2.1 Thư điện tử (E-mail). Là dịch vị cơ bản, được sử dụng nhiều nhất và có hiệu quả nhất. Người gửi nạp thông tin cần soạn thảo trên máy tính, khi khai báo địa chỉ máy tính của người nhận trong Internet, rồi thực hiện một số thao tác đơn giản theo mẫu hướng dẫn. Bức thư điện tử được tự động chuyển đến và lưu trữ trong hộp thư của ngời nhận. Khi bật máy tính của mình, cũng thực hiện một số thao tác hướng dẫn đơn giản, người nhận sẽ thấy trên màn hình xuất hiện các thư điện tử mới được chuyển đến. Cách gửi thư điện tử thuận tiện hơn nhiều so với gửi thư qua hệ thống bưu điện trước đây hoặc qua FAX, lại rẻ hơn và nhanh hơn nhiều lần. Dịch vụ thư điện tử là một phương thức đáng tin cậy để gửi và nhận các thông điệp này tới đúng địa chỉ và còn nguyên vẹn. 2.2 Dịch vụ trao đổi các tệp dữ liệu cũng được thực hiện tương tự đối với thư điện tử. Dịch vụ trao đổi tệp FPT (File Transfer Protocol: Giao thức chuyển tệp) cho phép chuyển tệp từ một máy tính này tới một máy tính khác. Phần nhiều người ta dùng dịch vụ FTP chép tệp trên một máy chủ từ xa vào máy tính của mình. Việc xử lý này gọi là tải xuống (Downloading) và ngược lại gọi là đa lên mạng (uploading). 2.3 Thông tin dưới dạng tiếng nói và hình ảnh được truyền đi thông qua dịch vụ siêu văn bản (Hypertext) như MO-SAIC và WWW (World Wide Web). 2.4 Dịch vụ Telnet: Cho phép thiết lập một phiên làm việc dạng trạm đầu cuối (terminal session) với một máy tính từ xa. Ví dụ, chúng ta có thể sử dụng Telnet để kết nối với một máy chủ ở một miền khác của thế giới. Chỉ khi nối kết được thiết lập, chúng ta mới có thể thâm nhập vào (log in) máy tính đó theo như lệ thường (tất nhiên chúng ta phải có tài khoản người dùng (User Account) hợp lệ và mật khẩu (Password). Telnet còn cho phép hai chương trình phối hợp làm việc bằng cách trao đổi dữ liệu trên Internet. 2.5 Usenet: Là loại dịch vụ trong đó các loại thông tin mà chỉ có thể trao đổi trong một nhóm người theo kiểu hội thảo chuyên đề, thông qua dịch vụ gọi là nhóm tin tức (New Groups). Internet có hơn 1000 nhóm khác nhau với phạm vi và chủ đề rất rộng, như các sở thích công việc, sở thích và cách sống... 2.6 Truy nhập thông tin từ xa (Remote Login): Xâm nhập vào một máy tính bất kỳ trên mạng để tìm kiếm các thông tin cần biết và được phép. Hiện nay trong Internet có rất nhiều kho dữ liệu đồ sộ luôn luôn mở cửa phục vụ miễn phí cho mọi ngời. 3.Các ứng dụng công nghệ IP tại Việt Nam. ở Việt Nam, công nghệ IP đã được ứng dụng phục vụ công tác hoạt động giảng dạy và nghiên cứu từ khá sớm chủ yếu dưới dạng các mạng cục bộ LAN tại các công sở, trường học, viện nghiên cứu... Cho đến cuối năm 1997, công nghệ IP cho mạng WAN bắt đầu được phát triển rộng rãi với sự ra đời và phát triển của Internet tại Việt Nam. Đến nay hệ thông mạng IP đã trở nên phổ biến trên toàn quốc tuy nhiên khả năng đáp ứng về chất lượng cũng như dải thông vẫn còn hạn chế (Hầu hết là 10Mbps cho mạng LAN và 2Mbps cho mạng WAN back bone). Hiện nay, mạng truy nhập VNN đã có mặt tại 61 tỉnh thành phố, được chia làm 3 vùng tương thích với mạng PSTN đang tồn tại. Ba vùng này được kết nối bằng backbone 2MBps, tại Hà Nội có các cổng kết nối ra Internet quốc tế. Mỗi vùng có một Inter Domain Router HN- gateway cisco 7531. Nhìn sơ đồ hình 1.1 chúng ta có thể nhận thấy rằng mạng này được cấu tạo nên từ 5 phân lớp chính, phân lớp trên cùng chính là mạng Internet quốc tế. Các nhà cung cấp dịch vụ Internet trong nước sẽ truy nhập tới mạng Internet quốc tế bằng những cổng riêng sử dụng đường truyền tốc độ cao. Tại mỗi cổng truy nhập Internet quốc tế các nhà cung cấp dịch vụ có thể đặt một Domain router làm nhiệm vụ định tuyến cho toàn bộ thuê bao trong nước muốn truy nhập Internet quốc tế qua cổng trên. Vì một Router tại một cổng truy nhập quốc tế có thể là không đủ cho nhu cầu thuê bao cả nước, các nhà cung cấp dịch vụ có thể sử dụng nhiều Domain router, nếu một trong các router này bị quá tải, công việc của nó có thể sẽ được chia sẻ trong một router khác còn rỗi. Domain router có thể được kết nối với các router phân cấp, các router có nhiệm vụ chuyển đổi giao diện mạng WAN - LAN. Mỗi router này được kết nối một Access server tại điểm truy nhập của các mạng PSTN Bưu điện tỉnh. Từ đây các kết nối Inernet giữa các thuê bao và nhà cung cấp dịch vụ sẽ được thiết lập. Điểm truy nhập phía thuê bao Access Server PSTN nội tỉnh PSTN nội tỉnh PSTN nội tỉnh PC PC Điểm truy nhập dịch vụ Đường kết nối internet quốc tế Backbone Internet domain router Mạng Internet quốc tế Internet quốc tế WAN LAN PSTN user Web Server Mail Server Hình 1.1: Cấu trúc mạng Internet tại Việt Nam. 4. Mạng điện thoại công cộng trên mạng Viễn thông Việt Nam Dịch vụ thoại là một trong những dịch vụ cơ bản của Viễn thông, do đó về cấu trúc thì mạng điện thoại công cộng nằm trong cấu trúc mạng Viễn thông bao gồm mạng nội hạt, mạng liên tỉnh, mạng quốc tế và kết hợp thành ba miền trung tâm: Hà Nội, Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh. Mạng viễn thông là tổ hợp các nút mạng được nối với nhau bằng các đường truyền dẫn. Nút mạng được phân thành nhiều thứ cấp và từ đó kết hợp với các đường truyền tạo thành các cấp mạng khác nhau. Nút mạng thường là các tổng đài, đường truyền là các tuyến truyền dẫn. ở mạng lưới, các thuê bao được đấu nối vào các tổng đài nội hạt hoặc các tổng đài nhánh.Thông qua mạng lưới, các thuê bao được đấu nối với nhau dể thực hiện các dịch vụ thông tin như điện thoại, truyền số liệu, Fax và các dịch vụ khác. Để tạo kết nối giữa các thuê bao với nhau, các nút mạng phải trao đổi thông tin trên cơ sở thông tin yêu cầu dịch vụ và địa chỉ mạng lưới (danh bạ) của các thuê bao, mạng lưới trao đổi thông tin địa chỉ và dịch vụ gọi là mạng báo hiệu. Nút mạng cấp 1: bao gồm các nút mạng quốc tế (Gateway QT) các nút mạng này làm nhiệm vụ giao tiếp và kết nối mạng quốc gia với mạng quốc tế. Chúng bao gồm thiết bị chuyển mạch và thiết bị truyền dẫn để tạo tuyến kết nối cho thiết bị chuyển mạch về các nút mạng quốc gia và đi quốc tế. Thiết bị thuyền dẫn thường là cáp quang và vệ tinh. Nút mạng cấp 2: là nút mạng chuyển tiếp quốc gia. Nó bao gồm các tổng đài đường dài và hệ thống truyền dẫn đường trục. Các tổng đài làm nhiệm vụ chuyển mạch để kết hợp với các hệ thống truyền dẫn tạo ra tuyến nối đường dài cho các thuê bao qua mạng cấp 4 và cấp 5 Nút mạng cấp 3: Là nút mạng chuyển tiếp nội hạt hoặc nội tỉnh. Chúng bao gồm những tổng đài Tandem cũng như các hệ thống truyền dẫn để kết nối các tổng đài Tandem với các nút cho cuộc gọi từ thuê bao trong khu vực nội hạt hoặc nội tỉnh với nhau và các cuộc gọi liên tỉnh quốc tế chiều đi và chiều đến. Các hệ thông truyền dẫn làm nhiệm vụ tạo đường truyền nối các tổng đài Tadem các với nút 2 và 4, chúng thường là hệ thống cáp quang hay viba. Nút mạng cấp 4: Là nút mạng nội hạt, bao gồm các hệ thống tổng đài nội hạt (Local Exchange) và hệ thống đấu nối các tổng đài nội hạt với các tổng đài Tandem, và các tổng đài nội hạt với các tổng đài nhánh (tông đài vệ tinh và các tổng đài độc lập dung lượng nhỏ, còn gọi là tổng đài thuê bao). Các hệ thống ở đây là các hệ thống truyền dẫn cáp quang và viba dung lượng nhỏ. Nút mạng cấp 5: Đây là nút mạng gắn liền với truy cập thuê bao và kết nối trực tiếp với các thuê bao.Chúng thường là tổng đài độc lập dung lượng nhỏ kết nối với các nút mạng phía trên qua đường truyền trung kế sử dụng báo hiệu. Các kiểu nối mạng chủ yếu trong mạng Viễn thông hiện nay là các mạng hình sao, mắt lưới, mạng hỗn hợp. Mạng Viễn thông được kết nối với nhau bởi các đường nối cơ bản và các đường nối trực tiếp lưu lượng cao. Các đường nối cơ bản tạo ra mạng đảm bảo lưu thoát lưu lượng cơ bản và định hình mạng sao cho mọi thuê bao trên mạng có thể được thiết lập tuyến nối với nhau. Ngoài ra các tuyến nối trực tiếp lưu lượng cao hình thành giữa hai nút mạng có lưu lượng hấp dẫn (nhiều thuê bao), đảm bảo hiệu suất sử dụng và chất lượng truyền dẫn cao cũng như các ý nghĩa về mặt kinh tế. Dịch vụ thoại công cộng hiện nay đang sử dụng công nghệ số hoá truyền thống yêu cầu tốc độ 64Kbps thường được gọi là mạng thoại PCM 64 Kbps. PCM là tín hiệu điều xung mã, tín hiệu thoại PCM trong suốt thời gian đàm thoại và chiếm toàn bộ băng tần. Đây là bản chất của việc ghép kênh phân chia theo thời gian (TDM) sử dụng trong mạng chuyển mạch kênh. Dưới đây là sơ đồ cấu trúc mạng điện thoại công cộng. Hà nội Đà nẵng TP. HCM International Gateway SW. National transit SW Local Tanden SW Local SW Remote Supscriber Unit Hình 1.2: Cấu trúc mạng điện thoại công cộng Việt Nam. II. Công nghệ Voice over IP 1. Khái niệm về công nghệ Voice over IP (VoIP) Công nghệ Voice over IP (VoIP) hay điện thoại Internet là một dịch vụ điện thoại sử dụng mạng công nghệ IP kết hợp với khả năng tính toán và sử lý dữ liệu của các thiết bị đầu cuối để thực hiện truyền tải các cuộc đàm thoại. Trong đó luồng thông tin sẽ được truyền trong các gói (packets). Các thuật ngữ như IP telephony, Internet telephony, packet-voice, packetized voice và Voice over IP được sử dụng với nghĩa tương tự nhau. Voice over IP (VoIP) là sự phân bố thời gian thực của tín hiệu thoại (và có thể là các kiểu số liệu của các thiết bị multimedia khác) giữa hai hoặc nhiều bên tham gia qua mạng dùng giao thức Internet và trao đổi thông tin yêu cầu để điều khiển sự phân phối này. VoIP là cơ hội tốt để thiết kế các hệ thống truyền thông multimedia toàn cầu có thể thay thế cơ sở hạ tầng mạng hiện tại mà không làm trở ngại đến di sản công nghệ cũ hàng thế kỷ trước. : PSTN H.323 Gatekeeper H.323 GateWay H.323 GateWay PSTN Mạng IP Hình 2.1: Mô hình cung cấp dịch vụ thoại IP theo chuẩn H.323. Trong đó: H.323 Gatekeeper: Giám sát cổng theo chuẩn H.323. PSTN: Mạng chuyển mạch điện thoại công cộng. 2. Sự khác nhau giữa VoIP và mạng chuyển mạch điện thoại công cộng chung (GSTN). VoIP có một số khía cạnh khác với GSTN cả thuật ngữ, cấu trúc và các giao thức. Sự khác nhau là ảnh hưởng đến thiết kế của các dịch vụ VoIP. Về cơ bản VoIP dựa vào mô hình đầu cuối đến đầu cuối (end to end) cho sự phân phối dịch vụ. Các giao thức báo hiệu nằm giữa các hệ thống đầu cuối bao hàm trong các cuộc gọi; Các bộ định tuyến mạng xem các gói báo hiệu này giống như bất kỳ số liệu khác. Tuy nhien để VoIP có thể lợi dụng các bộ định tuyến báo hiệu hoặc proxy để hỗ trợ chức năng như xác định vị trí người sử dụng. Trong trường hợp này, các proxy chỉ sử dụng cho đinh tuyến của các thông điệp báo hiệu khởi động. Các thông điệp báo hiệu khởi động tiếp theo có thể trao đổi end to end, do tính liên tiếp của mô ình báo hiệu end to end, trạng thái cuộc gọi end to end được xem như là sự minh hoạ của nhiều đặc trưng điện thoại. Internet bản thân nó là da dịch vụ và độc lập dịch vụ. Nó cung cấp truyền tải mức gói end to end cho các dịch vụ nào
Tài liệu liên quan