Ngày nay,thế giới đang sống trong bầu không khí toàn cầu hoá nhộn nhịp và khẩn trương, với sự bùng nổ của nền kinh tế thị trường. Xu thế hội nhập quốc tế mở ra những thuận lợi đồng thời thách thức sự phát triển của mỗi quốc gia.Từ những nước phát triển đến những nước đang phát triển đã và đang huy động mọi nguồn lực của nước mình vào cuộc, tạo ra sự cạnh tranh vô cùng lớn.Sự cạnh tranh không chỉ diễn ra giữa các nước với nhau mà ngay trong từng lĩnh vực,các tổ chức, doanh nghiệp,công ty của một quốc gia. Để khẳng định tiếng tăm của mình với các bạn hàng và đông đảo nhân dân thế giới,thì quảng cáo là hình thức được chọn lựa hàng đầu.
33 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1402 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động quảng cáo bằng panô, áp phích trên địa bàn Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Ngày nay,thế giới đang sống trong bầu không khí toàn cầu hoá nhộn nhịp và khẩn trương, với sự bùng nổ của nền kinh tế thị trường. Xu thế hội nhập quốc tế mở ra những thuận lợi đồng thời thách thức sự phát triển của mỗi quốc gia.Từ những nước phát triển đến những nước đang phát triển đã và đang huy động mọi nguồn lực của nước mình vào cuộc, tạo ra sự cạnh tranh vô cùng lớn.Sự cạnh tranh không chỉ diễn ra giữa các nước với nhau mà ngay trong từng lĩnh vực,các tổ chức, doanh nghiệp,công ty…của một quốc gia. Để khẳng định tiếng tăm của mình với các bạn hàng và đông đảo nhân dân thế giới,thì quảng cáo là hình thức được chọn lựa hàng đầu.
Quảng cáo ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh nói riêng,với đời sống xã hội nói chung.Nhờ có quảng cáo mà sản phẩm của những hang nổi tiếng thế giới đến được với người tiêu dung khắp năm châu.Do đó, quảng cáo cũng giúp người dân định hướng,chọn lựa những sở thích tiêu dùng của mình một cách hợp lý,nâng cao cuộc sống của chính mình.
Ở Việt Nam, tên tuổi của phần lớn các thương hiệu còn mờ nhạt trên trường quốc tế thì quảng cáo là điều rất cần thiết . Đây là một trong những lĩnh vực mà tuổi thọ không lớn so với các lĩnh vực khác ổ nước ta,song đã có những bước phát triển đáng kể.Từ chỗ hoạt động quảng cáo do nhà nước đảm nhiệm, đã xuất hiện một số công ty,doanh nghiệp tư nhân chuyên về quảng cáo và đạt doanh thu tương đối lớn,góp phần tăng ngân sách nhà nước.Sự đa dạng về hình thức,phong phú về nội dung,quảng cáo đã tạo cho Việt Nam một dáng vể mới. Đặc biệt,hình thức quảng cáo ngoài trời bằng panô, áp phích cho các sản phẩm trong và ngoài nước đã tô điểm khuôn mặt những đô thị và thành phố lớn.
Tại Hà Nội,sự xuất hiện ngày càng nhiều của những tấm quảng cáo panô, ápphích đã mang lại cho thủ đô những lợi ích nhất định, đồng thời chúng gây ra không ít hậu qủa,mặc dù nhà nước đã quy hoạch,quy định rất nhiều lần.Tuy nhiên,cho đến thời điểm này,việc quản lý hình thức panô, ápphích đang là một bài toán khó, đòi hỏi các cơ quan quản lý nhà nước cũng như các nhà quản lý văn hoá phải đi tìm lời giải bằng nhiều cách khác nhau,nhằm tiến tới mục tiêu chung là sự phát triển về mọi mặt của đất nước .
Xuất phát từ những vấn đề trên, cùng tư cánh là 1 nhà quản lí văn hoá trong tương lai, tác giả đã mạnh dạn chọn “Tìm hiểu công tác quản lí nhà nước đối với hoạt động quảng cáo bằng panô, áp phích tấm lớn trên địa bàn Hà nội” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Khách thể nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu, đối tượng khảo sát.
Văn hoá - thông tin là một trong những lĩnh vực quan trọng đối với sự phat triển của đất nước. Trong đó, quảng cáo vừa độc lập, vừa bổ sung, hỗ trợ, thúc đẩy văn hoá phát triển cùng kinh tế tạo điều kiện để nước ta sánh vai với khu vực và thế giới.
Đôí tượng nghiên cứu của đề tài sẽ chuyên về công tác quản lí nhà nước đối với hình thức quảng cáo bằng hình thức quảng cáo bằng panô, áp phích trên địa bàn Hà nội.
3. Mục tiêu của đề tài.
Khẳng định vai trò của quảng cáo trong đời sống hiện đại. Đồng thới tìm hiểu công tác quản lí của nhà nước bằng văn kiên cũng như sự thi hành chúng trên thực tế đối với lĩnh vực quảng cáo.Khảo sát thực tế việc quảng cáo bằng panô, áp phích trên địa bàn Hà nội để thấy được những hiệu quả hạn chế trong công tác quản lí nhà nước về lĩnh vực này. Đề ra những ý kiến , giải pháp nhằm thực hiện và nâng cao hiệu lực quản lí nhà nước đối với quảng cáo nói chung và quảng cáo bằng panô, áp phích nói riêng. Từ những mục tiêu trên, đề tài đi đến mục đích làkhẳng định tầm quan trọng của quảng cáo trong việc thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng, thúc đẩy kinh tế phát triển, khẳng định danh tiếng của Việt Nam trên trường quốc tế.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng những phương pháp : nghiên cứu tài liệu, khảo sát thực tế, thu thập tài liệu, phân tích tổng hợp.
5. Lịch sử nghiên cứu cua đề tài
Đề tài nghiên cứu những vấn đề nóng hôi trong lĩnh vực quảng cáo đặc biệt là hình thức quảng cáo bằng panô,áp phích. Vạch ra được những mặt còn hạn chế trong công tác quản lí, đưa quảng cáo vào trật tự để đạt hiểu quả tối ưu, đem lại lợi ích nhiều mặt cho quốc gia.
6. Đóng góp của đề tài:
Xác lập cơ sở khoa học cho việc phát triển hoạt động quảng cáo,mang lại lợi ích cho người tiêu dùng,các doanh nghiệp và cho nhà nước.
7.Bố cục của bài tiểu luận:
Chương I: Vai trò của quảng cáo đối với hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội.
1.1:Những khái niệm chung.
1.1.1:Khái niệm văn hoá,quảng cáo,panô, ápphích.
1.1.2:Khái niệm quản lý,quản lý nhà nước,quản lý văn hoá.
1.2:những quan điểm,chủ trương,chính sách của Đảng và nhà nước đối với hoạt động quảng cáo.
1.3: Vai trò của quảng cáo đối với hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội.
Chương II :Thực trạng công tác quản lý nhà nhà nước đối với hoạt động quảng cáo bằng panô, ápphích trên địa bàn Hà Nội.
2.1: Hình thức quảng cáo bằng panô, ápphích trên địa bàn Hà Nội.
2.2: Quản lý nhà nước đối với hoạt động quảng cáo bằng panô, ápphích trên địa bàn Hà Nội.
2.3: Những yếu tố văn hoá trong quảng cáo sản phẩm bằng panô, áp phícâmtreen địa bàn Hà Nội.
2.4: Những hạn chế trong công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động quảng cáo bằng panô, ápphích trên địa bàn Hà Nội.
Chương III: Những đề xuất,giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động quảng cáo bằng panô, ápphích trên địa bàn Hà Nội.
CHƯƠNG I
VAI TRÒ CỦA QUẢNG CÁO ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT
KINH DOANH VÀ ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
1.1: Những khái niệm chung;
1.1.1: Khái niệm văn hoá,quảng cáo,panô, áppích.
* Khái niệm văn hoá:
Văn hoá là một khái niệm rất rộng lớn,có nhiều cách hiểu định nghĩa khác nhau,thậm chí là trái ngược nhau khi người ta cố găng đưa ra một định nghĩa thống nhất về văn hoá.Thuật ngữ văn hoá có nguồn gốc từ rất lâu đời.Nó là từ việt gốc hán:”văn” có nghĩa là đẹp,”hoá” là sự thay đổi,biến đổi của cái đẹp,trong đó sự thay đổi phải được hiểu với ý nghĩa là sự vận động phát triển toàn diện.
Theo nghĩa hẹp,văn hoá thường được hiểu như một lĩnh vực hoạt động và sinh hoạt xã hội,gồm các hoạt động động giáo dục,nghệ thuật,thong tin tuyên truyền,câu lạc bộ,thư viên, boả tang.Theo nghĩa rộng,văn hoá là hệ những giá trị do con người sang tạo ra trong xã hội loài người. nói đến văn hoá là nói đến con người.bàn đến văn hoá tức là bàn đến chiến lược phát triển con người nhằm đạt đến mục tiêu nhân văn cao cả của con người trong đời sống xã hội.
Tổ chức UNESCO đưa ra một khái niệm về văn hoá” văn hoá là một hệ thống các biểu trưng,quy định thế ứng xử của con người và làm cho một số đông người có thể giao tiếp với nhau,liên kết họ thành cộng đồng”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng nói:” vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống,loài người sáng tạo và phát minh ra ngon ngữ,chữ viết, đạo đức,luật pháp,khoa học,kỹ thuật,tôn giáo,văn học nghệ thật,những công cụ hang ngày về ăn mặc, ở và phương thức sử dụng, toàn bộ các sang tạo và phát minh đó tức là văn hoá”.
Văn hoá được coi là cốt lõi, bản lĩnh , bản sắc và những truyền thống tốt đẹp của mỗi dân tộc. Hoạt động văn hoá luôn có tính kế thừa, vận động và phát triển. Một nền văn hoá dân tộc muốn giữ sức sống của mình thì phải kế thừa những truyền thống văn hoá tốt đẹp của quá khứ và tiếp thu tinh hoa văn hoá hiện đại của nhân loại. Sự kết hợp hài hoà giữa hiện đại và truyền thống sẽ tạo ra bản sắc, bản lĩnh riêng cho mỗi quốc gia.
Đánh giá đúng tầm quan trọng của văn hoá, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định “văn hoá là nền tảng tinh thần xã hội, vùa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy xã hội phát triển và mọi mặt hoạt động của văn hoá văn nghệ đều phải nhằm xây dựng nền văn hoá việt Nam tiên tiến, đạm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng, đạo đúc , tâm hồn, tình cảm lối sống, xây dựng môi trường văn hoá lành mạnhcho sự phat triển của xă hội”.
Văn hoá gắn bó với đời sống con người và trở thành nhu cầu không thể thiếu của con người. Theo dòng thời gian văn hoá góp phần phát triển xã hội loài người. Mỗi dân tộc có một nét văn hoá riêng , nền văn hoá đó qui tụ toàn bbộ những tinh tuý mà dân tộc đó tạo ra và được giữ gìn truyền bá qua lịch sử dân tộc. Văn hoá dân tộc là thành tựu quan trọng, quyết định tính dân tộc bản sắc của mỗi quốc gia, là chỗ dựa điểm xuất phát của lịch sử.
Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam phải đương đàu với giặc ngoại xâm, sự khắc nghiệt của thiên nhiên, người Việt Nam đã xây dựng và vun trồng một nền văn hoá đa dạng mà thống nhất, có giao lưu tiếp biến mà vần giữ gìn dược sắc thái truyeenf thống văn hoá dân tộc. Có thể khẳng định rằng bản sắc văn hoá dân tộc là cội nguồn, là sức mạnh của dân tộc Việt nam.
* Khái niệm quảng cáo
Vấn đề quảng cáo được từng nước, từng tổ chức, từng doanh nghiệp nhìn nhận theo mục tiêu mà mình hướng tới.
Theo từ điển Oxfod của Mĩ : “Quang cáo là một cong việc có lien hệ đến việc quảng cáo hàng hoá, đặc biệt là số lượng hang bán.
Người Nhật quan niệm : “Quảng cáo là một hoat động mà khách hang truyền thống tin về sản phẩm và dịch vụ của họ tới những người nhất định hoặc khôg xác định để đạt được mục ddichs trên quảng cáo.
Quảng cáo là sự tuyên truyền, giới thiệu về hang hoá dịch vụ, nhằm thu hút sự chú ý của những người, có thể là người mua gây sự thích thú đối với hang hoá và dịch vụ, cuối cùng làm cho họ trở thành khách hang thực tế của tổ chức kinh doanh hang hoá và dịch vụ đó”
Trong từ điển Tiếng Việt do NXB khoa học xã hội -1988 có nêu : Quảng cáo là trình bày, giới thiệu rộng rãi cho nhiều người biết, nhằm tranh thủ được nhiều khách hang.
Nghị định 194/CP của chính phủ về hoạt đọng quảng cáo trên lãnh thổ Việt nam : “Hoạt đọng quảng cáo bao gồm việc giới thiệu và thong báo rộng rãi vễ doanh nghiệp, hang hoá, dịch vụ,nhãn hiệu hang hoá, tên gọi thoe nhu cầu hoạt động của cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ”.
Pháp lệnh quảng cáo được uỷ ban thường vụ Quộc hội khoá X thông qua 16/11/2001 có hiệu lực từ ngày 1/5/2002 cũng chỉ rõ :”Quảng cáo là giới thiệu đến người tiêu dung về hoat động kinh doanh hang hoá , dịch vụ, bao gồm dịch vụ có mục đính sinh lời và cả mục đích không sinh lời.
Từ những nhận định treen ta có thể khái quát lại Quảng cáo là cách mà chủ thể giới thiêu nội dung quảng cáo đến mọi người bằng nhiều hình thức khác nhau nhằm đạt mục đích nhất định nào đó.
* Khái niệm về panô
Là một trong những hình thức của quảng cáo trực quan ngoài trời, có kết cấu bền vững bao gồm nhiều ápphích ghép lại với nhau, được sơn, vẽ, in rồi dán lên. Chi phí cho quảng cáo bằng panô lớn hơn ápphích. Panô chủ yếu đặt ở vên đường giao thong, lối ra vào sân bay, bến cảng, trung tâm thương mại. Đó là những nơi không gian thoáng dễ quan sát. Các mặt hang thường quảng cáo trên panô là : Hoá mỹ phẩm, vật liệu xây dựng, điện tử…
* Khái niệm ápphích
Là khái niệm chung cho các biển quảng cáo, có khung hoặc không có khung, kích thước nhỏ hơn panô, thường là khổ A4, A3, A2, A1 được in, dán, đặt, treo ở mặt tiền các toà nhà trong thành phố, trên các phương tiện giao thong và những nơi có đông người qua lại, thường có đèn chiếu sang chất liệu phát quang, lắp đèn điện tử lên chữ , hình hiệu để thu hút tầm nhìn của mọi người. Các sản phẩm trên ápphích thường là : Hàng tiêu dung, trang sức, thời trang…
1.1.2 Khái niệm quản lí , quản lí nhà nước, quản lí văn hoá
* Khái niệm quản lý
Quản lý được Mac coi là chức năng đặc biệt nảy sinh từ tính chất xă hội hoá lao động . Bất kì là 1 xă hội hay cộng đồn nào được tién hành trên quy mô tương đối lớn đều phải có sự quản lí. Nó thieets lập mối quan hệ hài hoà giữa công việc riêng lẻ và thực hiện chức năng chung nhất, xuất phát từ sự vaan động của toàn bộ cơ cấu sản xuất khác với sự vận động của từng bộ phận độc lập trong nền sản xuất ấy ( Mac và Angen toàn tập – NXB chính trị ).
Quản lí là một khái niệm có nội hàm rất rộng, do vậy ở mỗi góc độ ngiên cứu, mỗi lĩnh vực nghiên cứu, người ta có thể đưa ra những khái niệm khác nhau về quản lý. Tuy nhiên hoạt động quản lí chỉ được hình thành trên cơ sở đã có sự phân công lao động, xã hội và cả từ sự vận động của toàn bộ cơ cấu sản xuất.Vì vậy nó phải được xem xét 1 cách tổng thể và phải gắn với hệ thống của cơ cấu ấy.
Trên kia quan điểm lí thuyết hệ thống, ta có thể coi “quản lí là sự tác động liên tục, tổ chức hướng đích của một chủ thẻ lên đối tương quản lí nhằm duy trì tính trội của hệ thống, sử dụng một cách tốt nhất các tiềm năng , các cơ hội của hệ thống nhằm đưa hệ thống đến mục tiêu một cách tốt nhất trong điều kiện môi trường luôn biến động”.
* Quản lí nhà nước
Khi nói đến quản lí nhà nước bao giờ cũng phải tìm hiểu khái niệm tổ chức bởi :”Nhà nước là một tập hợp các tổ chức được xây dựng thành 1 hệ thống khoa học, tập trung nhất. Nhà nước là 1 tổ chức quyền lực cao nhất của nhân dân đại diện cho ý chí nguyện vọng cua nhân dân. Tổ chức là một nhóm có cấu trúc nhất định, những con người lien kết với nhau, cùng hoạt đông vì mục tiêu chung, mà để đạt được hiểu quả ấy một cá nhân đơn lẻ không thể làm được.
Quản lý nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với quá trình xã hội và hành vi của con người, để duy trì và phát triển những mối quan hệ của xă hội, trật tự pháp luật nhằm thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của nhà nước.
( Giáo trình Luật hành chính trường ĐH quốc gia Hà nội )
Theo giáo trình Luật hành chính Việt nam của trường ĐH luật Hà nội có định nghĩa : “Quản lý nhà nước VN là hoạt động chấp hành và điều hành của cơ quan nhà nước VN ( hoặc tổ chức nếu đươc nhà nước uỷ quyền) được tiến hành trên cơ sở tiến hành luật nhằm thực hiện các chức năng quản lý nhà nước trên mọi lĩnh vực hành chính, chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội.
Đảng cộng sản Việt nam có ghi rõ : “Quản lý nhà nước bằng pháp luật chứ không phải bằng đạo lí. Pháp luật là thể chế hoá đường lối chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí của nhân dân. phải thực hiện thống nhất trong cả nước”.
* Quản lý văn hoá.
Văn hoá mang tính trừu tượng , không định hình ở bất kì sự vật hiện tượng nào. Nó là một lát cắt trong toàn bộ hoạt động của xã hội loài người. Trong khoa học người ta có thể tiếp cận văn hoá hoặc riêng rẽ, hoặc tổng hợp. Ở đây do chỉ đề cập đến quản lí văn hoá nên bài viết chỉ đề cập đến văn hoá với tính cách là nhữn hoạt động văn hoá để đi đến một cách hiểu về khái niệm về quản lí văn hoá . “QLVH là quá trình chủ thể quản lí, tác động lên đối tượng hoạt động sản xuất, bảo quản giao lưu, phân phối và tiêu thụ những giá trị văn hoá nhằm nâng cao chất lượng, nhận thức, sang tạo, định hướng, giá trị thẩm mĩ và giao lưu của con người “.
QLVH là sự tác động bằng thể chế của Nhà nước để làm chuyển biến tùng cá nhân theo chuẩn giá : chân - thiện – mĩ , quản lý kết họp giũa quản lý nhà nước và tự quản của nhân dân “ ( Nguyễn Khoa Điềm - Tạp chí văn học số 10-1999). Tự quản của nhân dân ở đây không có nghĩa là nhân dân quản lý nhau bằng “luật rừng” , mà tự quản được hiểu là nhân dân vẫn hoạt động theo pháp luật của Nhà nước.
QLNN về văn hoá là nhằm xác định một nền văn hoá Việt nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, làm cho văn hoá thấm sâu vào toàn bộ đời sống, hoạt động xă hội, vào từng con ngườ, cá nhân, gia đình, cộng đồng đến từng khu vực dân cư, địa lí, vào mọi hoạt động và cả mỗi quan hệ của con người nữa. QLVH nhằm tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần phong phú, lành mạnh, có trình độ dân trí cao, KHKT phát triển, phục vụ đắc lực cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, tiến bước vững chắc trên con đường XHCN.
Với mục tiêu trên, nhiệm vụ đặt ra cho công tác quản lý văn hoá là :
_ văn hoá phải là kết quả và mục tiêu của kinh tế, đồng thời là động lực để phát triển kinh tế.
_Phải xác định nền văn hoá Việt nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
_Xây dựng và phát triển nền văn hoá là sự nghiệp của toàn dân, do ĐCS Việt nam lãnh đạo trong đó đội ngũ trí thức đóng vai trò quan trọng.
_ Văn hoá là một mắt trận, xây dựng và phát triển văn hoá là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng kiên định, phẩm chất đạo đức cách mạng trong sang, kiên trì và thận trọng.
( NQTƯ 5 khoá VIII Ban chấp hành TƯ Đảng ).
QLVH phải bao gồm cả hai mặt có liên quan mật thiết với nhau :
_ Quản lý hoạt đọng của cơ quan, các thiết chế văn hoá, các lĩnh vực sang tạo, sản xuất, bảo tồn, phân phối các giá trị dân tộc và thế giới.
_ Quản lý các hoạt động giao lưu văn hoá của con người trong xã hội nhằm tác động đến sự phát triẻn đời sống tinh thần của con người và cá nhân.
Quản lý văn hoá một cách khoa học là phải tiến hành đồng bộ trong mối quan hệ hữu cơ của cả hai mặt nói trên.Mục tiêu chung của quản lý văn hoá là phải xuất phát từ thực tiễn từ khát vọng tinh thần của con người,từ việc phải thoã mãn nhu cầu tinh thần lành mạnh, đến việc hình thành, định hướng nhu cầu tinh thần của con người. Đây chính là điểm khác biệt lớn nhất của quản lý văn hoá so với các hạt động quản lý xã hội khác.
Trong điều kiện các phương tiện thông tin đại chúng phát triển như vũ bão,việc hưởng thụ các giá trị văn hoá và nhu cầu tiêu dùng văn hoá của nhân dân trở lên rộng rãi và cần thiết.Mặt khác trong xu hướng quốc tế hoá,toàn cầu hoá hiện nay,việc xây dựng văn hoá không thể bó hẹp trong phạm vi mỗi nước mà phải mang tính chất quốc tế.Sự liên kết các hoạt động văn hoá giữa các nước trên thế giới đã đặt ra những vấn đề mới,phức tạp trong việc chon lọc,tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.Vấn đề bảo tồn sắc thái văn hoá dân tộc phải được quán triệt phát triển nhằm chống lại những yếu tố phản văn hoá,yếu tố văn hoá lai căng không phù hợp với văn hoá Việt Nam.chính vì thế mà công tác quản lý văn hoá cần phải được tăng cường hơn bao giờ hết.
1.2: Những chủ trương, chính sách của nhà nước đối với hoạt động quảng cáo.
Trong nhiều năm qua Đảng và nhà nước ta đã đưa ra nhiều chủ trương,chính sách,tổ chức nhiều cuộc hội thảo nhằm đưa quảng cáo đi đúng hướng,góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất nước.Nhận thấy sự phát triển nhanh chóng, manh mẽ của quảng cáo cũng như tàm quan trọng của nó dối với nền kinh tế thị trường,nhà nước ta không ngừng đưa ra nhỡng biiện pháp nhằm đưa quang cáo phat triển thành một nghành công nghiệp. Đồng thời quy hoạch,hướng dẫn quảng cáo để vừa mang lại lợi nhuận vừa mang lại nét đẹp văn hoá riêng,phù hợp với thị hiếu thẩm mỹ của người dân Việt Nam. Có thể kể đến:Luật doanh nghiệp có hiệu lực đầu năm 2006,Pháp lênh quảng cáo số 39/2001/PL-UBTVQH,nghị định 24/2003/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành pháp lệnh quảng cáo,thông tư số 79/2005/TT-BVHTT,nghị định 56/2006 của bộ VHTT về xử phạt vi pham hành chính trong lĩng vực văn hoá- thông tin.
1.3 Vai trò của quảng cáo đối với hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội
* Quảng cáo là hoạt động tất yếu trong nền kinh tế thị trường.
Trở lại thời kỳ bao cấp,thời mà nhà nước đứng ra quản lý về mọi mặ của đời sống xã hội,từ khâu sản xuất đến phân phối sản phẩm.Thành phẩm làm ra dược phân chia đến từng hộ gia đình theo bình quân nhân khẩu,mội thành viên trong xã hội đều đưôcj hưởng như nhau,không có sự lựa chọn riêng cho mỗi cá nhân.Các xưởng sản xuất hoàn toàn của nhà nước nên mâu mã và chất lượng vhỉ có một.Lẽ tất nhiên quảng cáo trở thành”vô duyên” và thừa.Vòng quay cứ đều đặn tiếp diễn cho đến 1986,chính sách “đổi mới”,”mở cửa” của nhà nước được thực thi và đạt những hết quả ban đầu, đưa nước ta sang những trang sử mới.Viết vào đó sự ra đời của nền kinh tế thị trường, phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt,chủ trương khuyến khích kinh tế tư nhân và đầu tư nước ngoài đã khơi dậy nhựng tiềm năng to lớn của đất nước.Hàng loạt các công ty,doanh nghiệp tư nhân được thành lập,bên canh những công ty doanh nghiệp nhà nước.Vấn đề đặ ra là:Làm thế nào để tồn tại và phát triển?Mỗi thành phần kinh tế đều nhận thấy rằng,mục đích cuối cùng không phải làẩn xuất ra nhiều sản phẩm mà phải đưa chung đến làm quen với người tiêu dung và càng khó hơn để thuyết phục họ lựa chọn sản phẩm c