Đề tài Tìm hiểu đánh giá rủi ro trước khi cho vay đối với các dự án đầu tư tại Ngân hàng MHB-Chi nhánh Hà Nội.Thực trạng và giải pháp

Việt Nam gia nhập WTO tạo ra một sân chơi mới cho thị trường tài chính tại Việt Nam. Trong bối cảnh hội nhập mở rộng tài trợ cho các dự án đầu tư là một chính sách phù hợp để tăng trưởng tín dụng. Tuy nhiên, việc mở rộng qui mô đầu tư đòi hỏi phải có một hệ thống ngân hàng thích ứng để hỗ trợ - các doanh nghiệp yêu cầu cung cấp dịch vụ tài chính tốt hơn, các công ty đa quốc gia cũng muốn có các dịch vụ tài chính trong nước hỗ trợ cho vốn đầu tư của mình.

doc87 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1347 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu đánh giá rủi ro trước khi cho vay đối với các dự án đầu tư tại Ngân hàng MHB-Chi nhánh Hà Nội.Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Việt Nam gia nhập WTO tạo ra một sân chơi mới cho thị trường tài chính tại Việt Nam. Trong bối cảnh hội nhập mở rộng tài trợ cho các dự án đầu tư là một chính sách phù hợp để tăng trưởng tín dụng. Tuy nhiên, việc mở rộng qui mô đầu tư  đòi hỏi phải có một hệ thống ngân hàng thích ứng để hỗ trợ - các doanh nghiệp yêu cầu cung cấp dịch vụ tài chính tốt hơn, các công ty đa quốc gia cũng muốn có các dịch vụ tài chính trong nước hỗ trợ cho vốn đầu tư của mình. Điều này thúc đẩy sự hình thành các chi nhánh ngân hàng tại Việt Nam, cũng như thúc đẩy sự phát triển của các ngân hàng trong nước mở rộng qui mô và chất lượng dịch vụ nhằm đáp ứng yêu cầu mở rộng sản xuất của các doanh nghiệp trong nước. Nhưng tăng trưởng tín dụng đi đôi với chất lượng tín dụng và áp dụng các chuẩn mực quốc tế mới là cách thức đưa các ngân hàng thương mại (NHTM) trong nước hội nhập một cách thực chất và bền vững, có khả năng cạnh tranh cao với các NHTM nước ngoài. Hiện nay, dự án đầu tư đang giữ một vị trí quan trọng và tham gia vào hầu hết các quan hệ kinh tế, trong đó có quan hệ tín dụng với các NHTM. Đầu tư theo dự án là một trong những phương thức đầu tư được đánh giá là có hiệu quả nhất mà các nhà đầu tư trên thế giới đã tổng kết và coi đó là cách thức thực hiện chủ yếu khi quyết định đầu tư đối với mọi công trình. Đứng về phương diện Ngân hàng, hoạt động tín dụng nói chung cà hoạt động cho vay theo dự án nói riêng đem lại nguồn thu nhập chủ yếu cho Ngân hàng, nhưng tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất. Do đó Ngân hàng luôn phải giám sát chặt chẽ hoạt động này để đảm bảo hoạt động hiệu quả nhưng an toàn. Đánh giá rủi ro dự án đầu tư giúp cho Ngân hàng phần nào dự báo được hiệu quả tài chính và tính khả thi của từng dự án để có thể chọn lọc được các cơ hội đầu tư tốt, có hiệu quả, có khả năng thu hồi vốn và do đó hạn chế rủi ro cho vay sai lầm, gây hậu quả không nhỏ đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Do vậy hoạt động đánh giá rủi ro trước khi cho vay là một hoạt động vô cùng cần thiết và có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động cho vay của Ngân hàng. Qua thực tế tìm hiểu tình hình đánh giá rủi ro trước khi cho vay của Ngân hàng MHB-chi nhánh Hà Nội, tôi đã chọn nghiên cứu đề tài “Đánh giá rủi ro trước khi cho vay đối với các dự án đầu tư tại Ngân hàng MHB-chi nhánh Hà nội.Thực trạng và giải pháp” , với mục đích đánh giá những kết quả đã đạt được, xem xét những khó khăn còn tồn tại và đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác này hơn nữa tại Ngân hàng MHB trong thời gian tới. Chuyên đề này được kết cấu như sau : Chương I : Lý luận chung về dự án đầu tư, tín dụng đầu tư phát triển và rủi ro. Chương II : Thực trạng công tác đánh giá rủi ro trước khi cho vay đầu tư tại Ngân hàng MHB-chi nhánh Hà nội. Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao công tác đánh giá rủi ro trước khi cho vay đối với dự án vay vốn đầu tư tại Ngân hàng MHB-chi nhánh Hà nội. Trong thời gian thực tập và hoàn thành chuyên đề này tôi xin chân thành cảm ơn giáo viên hướng dẫn Ths. Nguyễn Thu Hà, cùng các anh chị phòng thẩm định và quản lý tín dụng Ngân hàng MHB-chi nhánh Hà nội đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ tôi hoàn thành chuyên đề này. Hà nội,tháng 4 năm 2008 Sinh viên Nguyễn Thị Hồng Ngọc Chương I : Lý luận chung về dự án đầu tư, tín dụng đầu tư phát triển và rủi ro. I. Đầu tư : 1. Khái niệm : Đầu tư theo nghĩa rộng, là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho nhà đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Nguồn lực của hoạt động đầu tư tạo ra có thể là sự tăng them các tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy,đường sá, các của cả vật chất khác…), tài sản trí tuệ (trình độ văn hóa, chuyên môn, khoa học kỹ thuật…) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện để làm việc với năng suất cao hơn trong nền sản xuất xã hội. 2. Phân loại : Có nhiều cách phân loại hoạt động đầu tư, tuy nhiên xuất phát từ bản chất và phạm vi lợi ích do đầu tư đem lại, có thể phân chia thành 3 loại hình đầu tư cơ bản : đầu tư tài chính, đầu tư thương mại, đầu tư phát triển. II. Dự án đầu tư : Khái niệm : Dự án đầu tư có thể được xem xét từ nhiều góc độ như về mặt hình thức, góc độ quản lý, kế hoạch hóa hay xem xét về mặt nội dung thì có những khái niệm khác nhau ứng với mỗi góc độ đó : Là tập hợp các hoạt động nhằm thực hiện một mục tiêu nhất định, trong quá trình thực hiện mục tiêu đó cần có các đầu vào và kết quả thu được là các đầu ra. Là một lĩnh vực haotj động đặc thù, một nhiệm vụ cụ thể cần phải được thực hiện với phương pháp riêng, nguồn lực riêng và theo một kế hoạch tiến độ nhằm tạo ra một thực thể mới. Dự án là những nỗ lực có hạn nhằm tạo ra một sản phẩm hoặc một dịch vụ nhất định Ở Việt Nam, khái niệm về dự án được thể hiện ở các văn bản pháp quy. Nghị định 52/1999/NĐ-CP đã xác định : “ Dự án đầu tư” là tập hợp những đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì, cải tiến,nâng cao chất lượng sản phẩm hoặc dịch vụ trong khoảng thời gian xác định. 2. Chu kỳ của dự án : Chu kỳ của dự án đầu tư là các bước hoặc các giai đoạn mà một dự án phải trải qua, bắt đầu từ khi dự án mới chỉ là ý đồ đến khi dự án được hoàn thành cà chấm dứt hoạt động. Ta có thể minh hoạ chu kỳ của dự án theo sơ đồ sau đây: ý đồ về dự án đầu tu Sản xuất kinh doanh Thực hiện đầu tư. Chuẩn bị đầu tư ý đồ về dự án mới Hình 1.1: Chu kì của dự án đầu tư. * Giai đoạn chuẩn bị đầu tư : - Nghiên cứu về sự cần thiết phải đầu tư và quy mô đầu tư - Tiến hành tiếp xúc, thăm dò thị trường trong nước và ngoài nước để xác định nhu cầu tiêu thụ, khả năng cạnh tranh của sản phẩm, tìm nguồn cung ứng thiết bị, vật tư cho sản xuất, xem xét khả năng về nguồn vốn đầu tư và lựa chọn hình thức đầu tư. - Tiến hành điều tra, khảo sát, và chọn địa điểm xây dựng - Lập dự án đầu tư - Gửi hồ sơ dự án và văn bản trình người có thẩm quyền quyết định đầu tư, tổ chức cho vay vốn đầu tư và cơ quan thẩm định dự án đầu tư. * Giai đoạn thực hiện đầu tư: - Xin giao hoặc thuê đất (đối với dự án sử dụng đất) - Xin giấy phép xây dựng(nếu yêu cầu phải có giấy phép xây dựng ) và giấy phép khai thác tài nguyên (nếu có khai thác tài nguyên) - Thực hiện việc đền bù giải phóng mặt bằng, thực hiện kế hoạch tái định cư và phục hồi, chuẩn bị mặt bằng xây dựng - Mua sắm thiết bị và công nghệ - Thực hiện việc khảo sát, thiết kế xây dựng - Thẩm định, phê duyệt thiết kế và tổng dự toán, dự toán công trình. - Tiến hành thi công xây lắp - Kiểm tra và thực hiện hợp đồng - Quản lý kỹ thuật, chất lượng thiết bị và chất lượng xây dựng - Vận hành thử, nghiệm thu, quyết toán vốn đầu tư, bàn giao và thực hiện bảo hành sản phẩm. * Giai đoạn kết thúc đầu tư : - Nghiệm thu bàn giao công trình - Thực hiện việc kết thúc xây dựng công trình - Vận hành công trình và hướng dẫn sử dụng công trình - Bảo hành công trình - Quyết toán vốn đầu tư - Phê duyệt quyết toán - Hoàn trả vốn đầu tư Quá trình nghiên cứu, soạn thảo một dự án đầu tư được thực hiện theo từng giai đoạn rất cẩn thận nhưng không thể tránh khỏi những sai sót nhất định. Do đó, chúng ta cần phải có một quy trình đánh giá rủi ro trước khi cho vay vốn dự án thích hợp nhằm phát hiện ra những sai sót để có biện pháp khắc phục, đảm bảo tính khả thi của dự án. 2. Các nguồn vốn cho dự án : 2.1. Nguồn vốn trong nước * Nguồn vốn nhà nước : - Vốn ngân sách : Được hình thành từ nguồn thu thuế và nguồn thu khác cộng với tiết kiệm chi cho ngân sách. Đây là nguồn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng cho các đơn vị hoạt động đầu tư trong nước. Nguồn này hiện nay chủ yếu được tập trung cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế và xó hội, đầu tư phát triển một số công trình then chốt. Bảo đảm vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh trong nền kinh tế. Đây chính là nguồn chi của ngân sách Nhà nước cho đầu tư. Đó là một nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến lựơc phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Nguồn vốn này thường được sử dụng cho các dự án kết cấu kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, hỗ trợ cho các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần sự tham gia của Nhà nước, chi cho các công tác lập và thực hiện các quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng, lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn. - Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước: Cùng với quá trình đổi mới và mở cửa, tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ngày càng đóng vai trò đáng kể trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước có tác dụng tích cực trong việc giảm đáng kể việc bao cấp vốn trực tiếp của Nhà nước. Với cơ chế tín dụng, các đợn vị sử dụng nguồn vốn này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay. Chủ đàu tư là người vay vốn phải tính kỹ hiệu quả đầu tư, sử dụng vốn tiết kiệm hơn. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là một hình thức quá độ chuyển từ hình thức cấp phát ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. - Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp Nhà nước: Được xác định là thành phần chủ đạo trong nền kinh tế, các doanh nghiệp Nhà nước vẫn nắm giữ một khối lượng vốn khá lớn. Mặc dù vẫn còn một số hạn chế nhưng đánh giá một cách công bằng thì khu vực thì khu vực kinh tế Nhà nước với sự tham gia của các doanh nghiệp Nhà nước vẫn đóng một vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần.Với chủ trương tiếp tục đổi mới doanh nghiệp Nhà nước, hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế này ngày càng được khẳng định, tích luỹ của các doanh nghiệp Nhà nước ngày càng gia tăng và đóng góp đáng kể vào tổng quy mô vốn đầu tư của toàn xã hội. * Nguồn vốn từ khu vực tư nhân. Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích luỹ của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Theo đánh giá sơ bộ, khu vực kinh tế ngoài Nhà nước vẫn sở hữu một lượng vốn tiềm năng rất lớn mà cuă được huy động triệt để. Cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, một bộ phận không nhỏ trong dân cư có tiềm năng về vốn do có nguồn thu nhập gia tăng hay do tích luỹ tryuền thống. Nhìn tổng quan nguồn vốn tiềm năng trong dân cư không phải là nhỏ, tồn tại dưới dạng vàng, ngoại tệ, tiền mặt ,nguồn vốn này xấp xỉ bằng 80% tổng nguồn vốn huy động của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Vốn của dân cư phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của các hộ gia đình. Quy mô của các nguồn tiết kiệm này phụ thuộc vào: - Trình độ phát triển của đất nước (ở những nước có trình độ phát triển thấp thường có quy mô và tỷ lệ tiết kiệm thấp). + Tập quán tiêu dùng của dân cư. + Chính sách động viên của Nhà nước thông qua chính sách thuế thu nhập và các khoản đóng góp với xã hội. 2.1. Nguồn vốn nước ngoài. Có thể xem xét nguồn vốn đầu tư nuớc ngoài trên phạm vi rộng hơn đó là dòng lưu chuyển vốn quốc tế (international capital flows). Về thực chất, các dòng lưu chuyển vốn quốc tế là biểu thị quá trình chuyển giao nguồn lực tài chính giữa các quốc gia trên thế giới. Trong các dòng lưu chuyển vốn quốc tế, dòng từ các nước phát triển đổ vào các nước đang phát triển thường được các nước thế giới thứ ba đặc biệt quan tâm. Dòng vốn này diễn ra với nhiều hình thức. Mỗi hình thức có đặc điểm, mục tiêu và điều kiện thực hiện riêng, không hoàn toàn giống nhau. Theo tính chất lưu chuyển vốn, có thể phân loại các nguồn vốn nước ngòai chính như sau: - Tài trợ phát triển vốn chính thức (ODF - official development finance). Nguồn này bao gồm: Viện trợ phát triển chính thức (ODA -offical development assistance) và các hình thức viện trợ khác. Trong đó, ODA chiếm tỷ trọng chủ yếu trong nguồn ODF; - Nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại; - Đầu tư trực tiếp nước ngoài; - Nguồn huy động qua thị trường vốn quốc tế. * Nguồn vốn ODA. Đây là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ nước ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. So với các hình thức tài trợ khác, ODA mang tính ưu đãi cao hơn bất cứ nguồn vốn ODF nào khác. Ngoài các điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời hạn cho vay tương đối lớn, bao giờ trong ODA cũng có yếu tố không hoàn lại (còn gọi là thành tố hỗ trợ) đạt ít nhất 25%. Mặc dù có tính ưu đãi cao, song sự ưu đãi cho loại vốn này thường di kèm các điều kiện và ràng buộc tương đối khắt khe (tính hiệu quả của dự án, thủ tục chuyển giao vốn và thị trường…). Vì vậy, để nhận được loại tài trợ hấp dẫn này với thiệt thòi ít nhất, cần phải xem xét dự án trong điều kiện tài chính tổng thể. Nếu không việc tiếp nhận viện trợ có thể trở thành gánh nặng nợ nần lâu dài cho nền kinh tế. Điều này có hàm ý rằng, ngoài những yếu tố thuộc về nội dung dự án tài trợ, còn cần có nghệ thuật thoả thuận để vừa có thể nhận vốn, vừa bảo tồn được những mục tiêu có tính nguyên tắc. * Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại. Điều kiện ưu đẫi dành cho loại vốn này không dễ dàng như đối với nguồn vốn ODA. Tuy nhiên, bù lại nó có ưu điểm rõ ràng là không có gắn với các ràng buộc về chính trị, xã hội. Mặc dù vậy, thủ tục vay đối với nguồn vốn này thường là tương đối khắt khe, thời gian trả nợ nghiêm ngặt, mức lãi suất cao là những trở ngại không nhỏ đối với các nước nghèo. Do được đánh giá là mức lãi suất tương đối cao cũng như sự thận trọng trong kinh doanh ngân hàng (tính rủi ro ở nước đi vay, của thị trường thế giới và xu hướng lãi suất quốc tế), nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại thường được sử dụng chủ yếu để đáp ứng nhu cầu xuất khẩu và thường là ngắn hạn. Một bộ phận của nguồn vốn này có thể được dùng để đầu tư phát triển. Tỷ trọng của nó có thể gia tăng nếu triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế là lâu dài, đặc biệt là tăng trưởng xuất khẩu của nước đi vay là sáng sủa. * Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài có đặc điểm cơ bản khác nguồn vốn nước ngoài khác là việc tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho nước tiếp nhận. Thay vì nhận lãi suất trên vốn đầu tư, nhà đầu tư sẽ nhận được phần lợi nhuận thích đáng khi dự án đầu tư hoạt động có hiệu quả. Đầu tư trực tiếp nước ngoài mang theo toàn bộ tài nguyên kinh doanh vào nước nhận vốn nên có thể thúc đẩy phát triển ngành nghề mới, đặc biệt là những ngành đòi hỏi cao về trình độ kỹ thuật, công nghệ hay cần nhiều vốn. Vì thế nguồn vốn này có tác dụng cực kỳ to lớn đối với quá trình công nghiệp hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng trưởng nhanh ở các nước nhận đầu tư . * Thị trường vốn quốc tế. Với xu hướng toàn cầu hoá, mối liên kết ngày càng tăng của các thị trường vốn quốc gia vào hệ thống tài chính quốc tế đã tạo nên vẻ đa dạng vế các nguồn vốn cho mỗi quốc gia và làm tăng khối lượng vốn lưu chuyển trên phạm vi toàn cầu. Ngay tại nhiều nước đang phát triển, dòng vốn đầu tư qua thị trường chứng khoán cũng gia tăng mạnh mẽ. Mặc dù vào nửa cuối những năm 1990, có sự xuất hiện của một số cuộc khủng hoảng tài chính nhưng đến cuối năm 1999 khối lượng giao dịch chứng khoán tại các thị trường mới nổi vẫn đáng kể. Riêng năm 1999, dòng vốn đầu tư dưới dạng cổ phiếu vào Châu á đã tăng gấp 3 lần năm 1998, đạt 15 tỷ USD. Để đảm bảo tiến độ thực hiện đầu tư của dự án, vừa để tránh ứ đọng vốn, nên các nguồn tài trợ cần được xem xét không chỉ về mặt số lượng mà về cả thời điểm nhận được tài trợ. Phải so sánh nhu cầu về vốn với khả năng đảm bảo vốn cho dự án từ các nguồn về số lượng và tiến độ thông qua lập bảng cân đối vốn đầu tư. III. Đặc điểm và vai trò của tín dụng đầu tư phát triển với nền kinh tế: Khái niệm : Tín dụng đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng vốn tín dụng nhằm tiến hành các hoạt động tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất kỹ thuật nhằm duy trì các tiềm lực sẵn có, làm tăng tài sản mới và năng lực sản xuất mới cho các cơ sở sản xuất kinh doanh nói riêng và nền kinh tế nói chung. Đối với các doanh nghiệp khi nguồn vốn tự có hay vốn huy động không đủ tài trợ cho việc triển khai dự án thì họ sẽ sử dụng vốn tín dụng Ngân hàng. Vốn này được huy động qua các trung gian tàì chính là hệ thống Ngân hàng và các tổ chức tín dingj sản xuất kinh doanh. Các doanh nghiệp khi vay vốn tín dụng Ngân hàng để triển khai các dự án đầu tư của mình, trong quá trình vận hành phát huy tác dụng cần thu hồi đủ vốn để hoàn trả vốn đầu tư ban đầu và đem lại lợi ích cho chủ đầu tư. Đặc điểm của tín dụng ĐTPT : Tín dụng đầu tư phát triển có sự tham gia của các Ngân hàng vào dự án đầu tư. Điều này thể hiện ở chỗ khi doanh nghiệp muốn vay vốn tín dụng để đầu tư họ phải có dự án và dự án đó được Ngân hàng thẩm định trước khi cho vay. Khác với hoạt động đầu tư bằng vốn tự có, doanh nghiệp phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về hiệu quả dự án, thì tín dụng đầu tư phát triển có sự chịu trách nhiệm về hiệu quả của dự án. Ngân hàng giám sát, đánh giá từ khi trình hồ sơ xin vay vốn, cho đến khi thực hiện dự án, vận hành kết quả của dự án. Trong quá trình sử dụng vốn, Ngân hàng cũng tham gia dưới góc độ xem vốn có sử dụng đúng mục đích không, tiến hành giải ngân theo khối lượng công việc đã hoàn thành và nghiệm thu. Các kết quả của tín dụng đầu tư phát triển chủ yếu là để haotj động chứ không phải dịch chuyển. Tín dụng đầu tư phát triển tạo ra các tài sản hoạt động cho doanh nghiệp, tạo thành công cụ lao động cho doanh nghiệp theo nghĩa rộng đó là máy móc, kho tang, thiết bị… Các tài sản dung để sản xuất hàng hóa vật phẩm bán ra thị trường chứ không phải dung vào việc mua đi bán lại. Kết quả của hoạt động tín dụng đầu tư phát triển là tạo ra năng lực sản xuất mới them cho doanh nghiệp. Tín dụng đầu tư phát triển sử dụng nhiều nguồn vốn ngắn hạn. Đây là đặc điểm riêng có của Việt nam. Đúng ra các kết quả của hoạt động tín dụng đầu tư phát triển khi có thời gian phát huy tác dụng và hoàn vốn thì đòi hỏi nguồn vốn để tài trợ phải là nguồn vốn dài hạn. Vốn ngắn hạn chỉ tập trung tài trợ cho tài sản lưu động để vận hành các kết quả đầu tư này. Tuy nhiên ở Việt nam các công cụ huy đọng vốn dài hạn còn chưa thực sự hấp dẫn thì vốn ngắn hạn chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy động, trong khi nhu cầu vốn trung và dài hạn lại lớn. Việc sử dụng vốn ngắn hạn tài trợ cho vốn trung và dài hạn làm hiệu quả đồng vốn không cao do chi phí huy động lớn, vốn huy động thường xuyên biến động, tín dụng đầu tư phát triển sử dụng vốn ngắn hạn không tạo ra được sự chủ động về vốn cho đầu tư, do tính ổn định của đồng nguốn vốn không cao. Tín dụng đầu tư phát triển chứa đựng nhiều rủi ro. Trước hết là rủi ro về nguồn vốn cho đầu tư. Cụ thể khi chi phí về vốn tăng lên làm cho chi phí sản xuất tăng, giá thành sản phẩm tăng, giảm sức cạnh tranh gây nên thất bại cho dự án. Ngoài ra, Ngân hàng có thể không huy động được đủ số vốn cần thiết, công tác giải ngân chậm… làm ảnh hưởng đến tiến độ của dự án. Thứ hai là rủi ro thuộc về bản than dự án. Một dự án đầu tư bao giờ cũng chứa đựng rủi ro bởi các chi phí thì được bỏ ra ở hiện tại nhưng kết quả có được hoàn toàn mang tính chất dự đoán trong tương lai. Vai trò của Tín dụng đầu tư phát triển với nên kinh tế. 3.1. TD ĐTPT góp phần huy động vốn và nâng cao hiệu quả đầu tư vốn trong nền kinh tế. TD ĐTPT góp phần huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế cho đầu tư phát triển. Để tiến hành TD ĐTPT phải có vốn tín dụng. Vốn tín dụng được huy động từ người thừa vốn trong tất cả các thành phần kinh tế nhằm đáp ứng nhu cầu cho người thiếu vốn là doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế. Thông qua việc xét duyệt cho vay dự án, Ngân hàng có điều kiện tham gia và tác động vào quá trình phân bổ và sử dụng một cách hợp lý hơn, giảm bớt lãng phí thất thoát, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Cũng nhờ có tín dụng đầu tư phát triển mà nguồn vốn được chu chuyển nhanh từ nơi thừa tới nơi thiếu, điều chỉnh quan hệ cung cầu vốn tín dụng từ đó nâng cao hiệu quả vốn trong nền kinh tế. Nhờ có tín dụng đầu tư phát triển nên dự án đầu tư có hiệu quả được đáp ứng đủ vốn, thực hiện đúng tiến độ và thời cơ từ đó góp phần nâng hiệu quả đầu tư của toàn xã hội, tạo ra sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Tài liệu liên quan