Trong nền kinh tế năng động hiện nay đặc biệt là khi Việt Nam đã gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO) các doanh nghiệp sẽ gặp phải rất nhiều sự biến đổi trong môi trường hoạt động sản xuất kinh doanh. Những biến đổi này có thể là cơ hội thuận lợi sự phát triển của doanh nghiệp nhưng cũng có thể là thách thức cho sự tồn tại của doanh nghiệp. Để có thể tận dụng được những cơ hội hay xử lý phòng tránh rủi ro đòi hỏi doanh nghiệp phải có những dự báo và kế hoạch thật tốt.
37 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1313 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu hoạch định tài chính năm 2007 tại công ty TNHH Việt AN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU
Cơ sở hình thành
Trong nền kinh tế năng động hiện nay đặc biệt là khi Việt Nam đã gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO) các doanh nghiệp sẽ gặp phải rất nhiều sự biến đổi trong môi trường hoạt động sản xuất kinh doanh. Những biến đổi này có thể là cơ hội thuận lợi sự phát triển của doanh nghiệp nhưng cũng có thể là thách thức cho sự tồn tại của doanh nghiệp. Để có thể tận dụng được những cơ hội hay xử lý phòng tránh rủi ro đòi hỏi doanh nghiệp phải có những dự báo và kế hoạch thật tốt.
Tuy chỉ mới đi vào hoạt động từ năm 2005, nhưng qua những báo cáo tài chính của công ty TNHH Việt An có thể thấy sự phát triển rất nhanh của Việt An về quy mô sản xuất và thị trường. Sự phát triển nhanh này đòi hỏi Việt An phải có những chính sách kinh doanh, chiến lược phát triển thị trường, đầu tư mở rộng sản xuất hợp lý và có hiệu quả. Để thực hiện các chiến lược trên Việt An cần huy động nguồn vốn rất lớn, các chính sách tài chính giữ vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động của Việt An. Do đó ngoài việc chú trọng các kế hoạch kinh doanh cần chú trọng hơn nữa đến các kế hoạch tài chính phù hợp và mang lại hiệu quả cao nhất đảm bảo sự phát triển nhanh, bền vững của Việt An.
Tuy nhiên công tác hoạch định, lập kế hoạch tài chính của Việt An chưa được quan tâm thực hiện đúng mức xứng đáng với vai trò quan trọng của nó. Vì vậy tôi đã chọn đề tài:“Hoạch định tài chính 2007 tại công ty TNHH Việt An” với tiêu chí đóng góp ý kiến của mình đến Việt An. Hơn nữa đề tài này giúp tôi vận dụng được các kiến thức đã được nghiên cứu vào thực tiễn.
1.2 Mục tiêu
Dựa trên những phân tích nhận định về tình hình tài chính của Việt An,làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch tài chính tốt nhất trong năm 2007. Từ đó đảm bảo cho sự phát triển nhanh, bền vững của Việt An.
1.3 Phạm vi nghiên cứu
♦ Đối tượng nghiên cứu:
Tổng hợp, so sánh, phân tích các số liệu từ các báo cáo tài chính của doanh nghiệp như: bảng cân đối kế toán, bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, bảng báo cáo lưu chuyển tiền tệ để đạt mục tiêu nghiên cứu.
♦ Phạm vi nghiên cứu:
Phân tích các báo cáo tài chính của doanh nghiệp trong hai năm 2005 và 2006 để nhận biết được tình hình tài chính của doanh nghiệp từ đó lập kế hoạch tài chính trong năm 2007
1.4 Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện các phương pháp sau:
(i) Phương pháp thu thập số liệu: phỏng vấn các cá nhân trong doanh nghiệp, từ các báo cáo, tài liệu của doanh nghiệp.
(ii) Phương pháp xử lý số liệu: Phân tích các số liệu từ các tài liệu của doanh nghiệp. So sánh, tổng hợp, phân tích sự biến động của các biến số trong năm 2005 và 2006.
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1 Những vấn đề chung về báo cáo tài chính
2.1.1 Khái niệm
Báo cáo tài chính là hệ thống thông tin được cung cấp bởi hệ thống kế toán tài chính phù hợp với các quy định của các chuẩn mực kế toán hiện hành. Báo cáo tài chính cung cấp thông tin về tài sản, nguồn vốn, kết quả hoạt động kinh doanh, lưu chuyển các luồng tiền trong một kỳ kế toán. Hệ thống báo cáo tài chính bao gồm:
- Bảng cân đối kế toán: là một báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tổng quát toàn bộ giá trị tài sản hiện có và nguồn hình thành tài sản của doanh nghiệp dưới hình thức tiền tệ, vào thời điểm lập báo cáo.
- Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh: là báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh tổng quát tình hình và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ, chi tiết theo các hoạt động; tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước.
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ: là báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh việc hình thành và sử dụng lượng tiền phát sinh trong kỳ báo cáo của doanh nghiệp. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ phản ánh đầy đủ các dòng thu và chi bằng tiền và tương đương tiền của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo. Nó cung cấp thông tin về dòng tiền vào, ra của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo.
- Thuyết minh báo cáo tài chính: là báo cáo quản lý trong đó mô tả và diễn giải những đặc điểm chính về tình hình kinh doanh và tài chính, cũng như những sự kiện không chắc chắn chủ yếu mà doanh nghiệp phải đối phó nếu ban giám đốc xét thấy chúng hữu ích cho những người sử dụng trong quá trình ra các quyết định kinh tế.
2.1.2 Vai trò của báo cáo tài chính
Báo cáo tài chính phản ánh theo một cấu trúc chặt chẽ tình hình tài chính, kết quả kinh doanh của một doanh nghiệp. Mục đích của báo cáo tài chính là cung cấp các thông tin về tình hình tài chính, tình hình kinh doanh và các luồng tiền của một doanh nghiệp, đáp ứng nhu cầu hữu ích cho số đông những người sử dụng trong việc đưa ra các quyết định kinh tế. Để đạt mục đích này báo cáo tài chính phải cung cấp những thông tin của một doanh nghiệp về:
- Tài sản;
- Nợ phải trả;
- Vốn chủ sở hữu;
- Doanh thu, thu nhập khác, chi phí, lãi và lỗ;
- Các luồng tiền.
Các thông tin này cùng với các thông tin trình bày trong Bản thuyết minh báo cáo tài chính giúp người sử dụng dự đoán được các luồng tiền trong tương lai và đặc biệt là thời điểm và mức độ chắc chắn của việc tạo ra các luồng tiền và các khoản tương đương tiền.
2.2 Phân tích báo cáo tài chính
2.2.1 Khái niệm
Phân tích báo cáo tài chính là quá trình xem xét, kiểm tra, đối chiếu và so sánh các thông tin được trình bày trên các báo cáo tài chính trong những thời kỳ nhất định. Các báo cáo tài chính tạo thành một hệ thống thông tin rất phong phú để hiểu biết, theo dõi và đánh giá doanh nghiệp. Các thông tin này rất hữu ích đối với các nhà quản lý doanh nghiệp cũng như tất cả những ai chú ý đến tình trạng tài chính của doanh nghiệp.
2.2.2 Phương pháp phân tích báo cáo tài chính
Những báo cáo tài chính trình bày theo các mẫu đã mang lại rất nhiều thông tin về doanh nghiệp. Công tác quan trọng là nghiên cứu các báo cáo này từ đó rút ra những chỉ tiêu quan trọng, và sau đó phân tích để vạch ra ý nghĩa của nó đối với doanh nghiệp.
Phân tích báo cáo tài chính sẽ tiến hành nghiên cứu từng báo cáo theo những bước sau: (i) trước tiên nhận dạng các chỉ tiêu then chốt và nghiên cứu sự tiến triển của nó; (ii) sau đó so sánh một số chỉ tiêu với nhau và tính ra những tỷ lệ và hệ số có ý nghĩa, từ đó phân tích để rút ra những thông tin có ích cho doanh nghiệp.
2.2.3 Phân tích báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
2.2.3.1 Những chỉ tiêu then chốt:
- Doanh thu: là số lượng sản phẩm bán ra nhân với đơn giá. Đó là thu nhập mà doanh nghiệp nhận được qua hoạt động sản xuất kinh doanh. Doanh thu thuần là doanh thu đã trừ các khoản giảm trừ. Doanh thu cho biết vị thế của doanh nghiệp trên thương trường. Đây là chỉ tiêu có ý nghĩa nhất đối với tình trạng của một doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Sự phát triển của chỉ tiêu này phải được theo dõi và phân tích một cách chặt chẽ.
- Giá vốn hàng bán: đây là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh tổng giá mua của hàng hoá, giá thành sản xuất của sản phẩm, dịch vụ đã bán. Giá trị này là yếu tố lớn quyết định khả năng cạnh tranh và mức kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Trong trường hợp doanh nghiệp có vấn đề với giá vốn hàng bán thì ta phải theo dõi và phân tích từng cấu phần của nó: chi phí nhân công trực tiếp, chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí sản xuất chung…
- Lãi gộp: Là doanh thu trừ giá vốn hàng bán chỉ tiêu tổng hợp này phát triển phụ thuộc vào cách biến đổi các thành phần của nó. Nếu phân tích rõ những chỉ tiêu trên, doanh nghiệp sẽ hiểu được mức độ và sự biến động của chỉ tiêu này.
- Chi phí bán hàng: Trong cơ chế thị trường, mọi doanh nghiệp đều phải bán hàng hoá, sản phẩm hay dịch vụ trên thị trường. Hoạt động này làm phát sinh các chi phí (chi phí nhân viên tiếp thị, bán hàng, chi phí quảng cáo, cửa hàng…) Cũng như các chi phí khác, doanh nghiệp phải theo dõi và tác động vào loại chi phí này để đạt hiệu quả tối đa với mức chi phí tối thiểu. Việc này đặc biệt quan trọng đối với các doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp thương mại vì đây là loại chi phí lớn nhất.
- Chi phí quản lý doanh nghiệp: Theo dõi, quản lý và phân tích để giảm đến mức nhỏ nhất có thể với bộ máy quản lý nhẹ nhàng và có hiệu lực.
- Lợi nhuận thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh: Chỉ tiêu tổng hợp này là kết quả của các chỉ tiêu trên. Khi phân tích kỹ các chỉ tiêu trên ta hiểu được sự tiến triển của chỉ tiêu này và rút ra được những kinh nghiệm nhằm tối đa hoá lợi nhuận.
- Thu chi và lợi nhuận từ hoạt động tài chính: Hầu như tất cả mọi doanh nghiệp đều có hoạt động tài chính. Góp vốn liên doanh hay đầu tư thị trường chứng khoán là những hoạt động của các doanh nghiệp tương đối lớn, nhưng gửi tiền cho vay là những hoạt động của các doanh nghiệp nhỏ và lớn. Những khoản thu chi liên quan phản ánh cơ cấu các nguồn vốn và quy mô của các hoạt động tài chính. Một cơ cấu vốn tối ưu và hoạt động tài chính có hiệu lực mang lại cho doanh nghiệp nhiều lợi nhuận tài chính.
- Thu chi và lợi nhuận khác: Trong lợi nhuận chung của doanh nghiệp, phải tách riêng những yếu tố bất thường không thuộc vào đời sống thông thường của doanh nghiệp. Những yếu tố này khi quan trọng có thể ảnh hưởng đáng kể đến kế quả kinh doanh của doanh nghiệp.
- Tổng lợi nhuận các hoạt động trước và sau thuế: Là chỉ tiêu tổng hợp tóm tắt bảng báo cáo kết quả kinh doanh. Đây là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất đối với doanh nghiệp. Vì lợi nhuận là mục đích của các doanh nghiệp trong kinh tế thị trường, nên chỉ tiêu này được dùng để đánh giá hiệu quản kinh doanh của doanh nghiệp, của ban lãnh đạo. Nó cũng được dùng để dự báo trong tương lại của doanh nghiệp. Các cổ đông, các nhà đầu tư rất quan tâm, cũng như nhà nước, vì mức thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp tuỳ thuộc vào mức lợi nhuận.
Đối với tất cả các mục trên đây, ngoài số liệu tuyệt đối của một thời kỳ hay một chuỗi thời kỳ, ta có thể trình bày sự tiến triển dưới hình thức tỷ lệ hoạt chỉ số đối với một kỳ nào đó.
2.2.3.2 Cơ cấu và hệ số
Sau khi nghiên cứu giá trị tuyệt đối của các chỉ tiêu báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, và sự tiến triển của mức gái trị đó qua thời gian, ta có thể đi sâu vào việc phân tích tình trạng của doanh nghiệp bằng cách nghiện cứu các cơ cấu và hệ số. Nguyên tắc cơ bản ở đây không phải là xét từng chỉ tiêu một mà so sánh một số chỉ tiêu với nhau. Thí dụ doanh thu và lợi nhuận của một doanh nghiệp đều tăng. Thoạt tiên ta có thể coi đây là một dấu hiệu tích cực đối với doanh nghiệp. Nhưng khi so sánh sự biến đổi của hai chỉ tiêu, ta sẽ thấy doanh thu tăng 30% trong khi lợi nhuận tăng 10%. Vậy có nghĩa là phần lợi nhuận trong doanh thu giảm đi, và khả năng sinh lời của doanh nghiệp cũng giảm đi.
Các phương pháp phân tích cơ cấu và hệ số sẽ được trình bày theo hai phần: phần đầu sẽ đề cập đến cách quản lý doanh nghiệp, phần sau sẽ nghiên cứu kết quả của doanh nghiệp.
* Tỷ lệ lãi gộp
Tỷ lệ lãi gộp là phần trăm giữa lãi gộp đơn vị sản phẩm so với giá bán hay lãi gộp so với doanh thu. Tỷ lệ lãi gộp chỉ ra mức lãi gộp trong một đồng doanh thu, được tính bằng công thức sau:
Tỷ lệ lãi gộp
=
Lãi gộp
Doanh thu
* Suất sinh lời của doanh thu
Tỷ lệ này cho biết trong một đồng doanh thu thuần thì có bao nhiêu phần trăm là lợi nhuận. Tỷ lệ này rất được các nhà quản lý, đầu tư quan tâm.
Suất sinh lời của doanh thu
=
Lợi nhuận
Doanh thu
* Suất sinh lời của tài sản (ROA)
Suất sinh lời của tài sản cho biết một đồng tài sản tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận
ROA
=
Lợi nhuận
Tài sản
Ta viết lại phương trình trên như sau:
ROA
=
Lợi nhuận
=
Lợi nhuận
x
Doanh thu
Tài sản
Doanh thu
Tài sản
Hai nhân tố trên chính là: suất sinh lời của doanh thu và số vòng quay của tài sản, có tác động trực tiếp đến suất sinh lời của tài sản ROA.
* Suất sinh lời của vốn chủ sở hữu (ROE):
ROE đo lường mức sinh lời đầu tư của vốn chủ sở hữu, những nhà đầu tư thường quan tâm đến chỉ số này bởi vì họ quan tâm đến khả năng thu nhận được lợi nhuận so với vốn đầu tư bỏ ra
ROE
=
Lợi nhuận
Vốn chủ sở hữu
2.2.4 Phân tích bảng cân đối kế toán:
Bảng cân đối kế toán là một tài liệu quan trọng để nghiên cứu, đánh giá một cách tổng quát tình hình và kết quả kinh doanh cũng như trình độ sử dụng vốn và những triển vọng kinh tế, tài chính của doanh nghiệp
2.2.4.1 Những chỉ tiêu then chốt
- Tiền: Bảng cân đối kế toán ghi lượng tiền có trong quỹ hay gửi tại nhân hàng của doanh nghiệp vào thời điểm lập bảng. Muốn hiểu sự tiến triển của chỉ tiêu này cần phải theo dõi trong báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Lượng tiền có trong doanh nghiệp luôn luôn thay đổi. Ngay trong một ngày cũng có sự thay đổi lớn. Vì vậy việc đánh giá riêng lẻ nó không có ý nghĩa nhiều. Phải nghiên cứu phải nghiên cứu báo cáo luân chuyển tiền tệ thì mới hiểu được thì mới hiểu được sự tiến triển của quỹ tiền, phải so sánh với các chỉ tiêu khác thì mới đánh giá tình hình tiền tệ của doanh nghiệp.
- Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn: Khi có tiền mà chưa cần tới, doanh nghiệp sẽ đầu tư ngắn hạn để được hưởng lãi suất. Các hình thức đầu tư này có đặc điểm là có thể trở thành tiền một cách rất nhanh chóng. Vì tính chất lưu động cao nên khi phân tích tình trạng tiền tệ, các khoản này thường hay gộp lại với tiền vì đối với doanh nghiệp, tất cả đều là những công cụ thanh toán sử dụng được ngay.
- Các khoản phải thu: Đây là các khoản tiền mà người thứ ba nợ, chủ yếu là khách hàng. Cho khách nợ là một công cụ chính sách thương mại, nhằm phát triển thị trường và gây lòng trung thành của khách. Nhưng đối với doanh nghiệp có hai hậu quả: Một là không thu hồi được tiền ngay, hai là có nguy cơ khách hàng không trả nợ, hay là trả không đúng kỳ hạn. Ích lợi về mặt thương mại có thể mang lại bất lợi về mặt tài chính. Ngoài ra, người phân tích phải kiểm tra độ chính xác của những khoản nợ đó bao gồm: lập dự phòng, và khoản nợ đã mất. Khi theo dõi sự tiến triển của các khoản phải thu, những hiện tượng bất thường phải được phân tích và giải thích rõ ràng.
- Hàng tồn kho: đây là chỉ tiêu khá quan trọng, vì vậy phải lưu ý sự thay đổi của nó. Những câu hỏi cần đặt ra là: Mức tồn kho như vậy có chính đáng không? Doanh nghiệp có cần lượng đó nguyên vật liệu không? Mức tối ưu đạt được khi vừa đủ để quy trình sản xuất không bị ngắt đoạn và không dư thừa là bao nhiêu? Mức thành phẩm trong kho nếu quá lớn thì có thể phản ánh sự bất cân đối giữa hoạt động sản xuất và khả năng bán hàng. Ngược lại, khi doanh nghiệp không có thành phẩm trong một khoản thời gian nào đó (trong trường hợp sản phẩm không thuộc loại phải tiêu thụ ngay), thì phải xét là năng lực sản xuất có kém quá đối với thị trường tiềm năng không?
- Tài sản cố định hữu hình: Đây là những yếu tố quyết định năng lực sản xuất của doanh nghiệp. Thường thường, khi tài sản hữu hình tăng có ý nghĩa là doanh nghiệp đã đầu tư để phát triển quy mô sản xuất kinh doanh, khi giảm thì có nghĩa ngược lại. Ta thấy đây là một chỉ tiêu quan trọng, phản ánh sự phát triển của doanh nghiệp qua những công cụ sản xuất mà doanh nghiệp là chủ sở hữu.
- Tài sản cố định thuê tài chính:Loại tài sản này được sử dụng như loại tài sản trên, đối với sự phát triển của doanh nghiệp thì có cùng ý nghĩa. Điều khác nhau là đối với tài sản thuê tài chính, doanh nghiệp không mua mà thuê dài hạn. Nhu cầu vốn khi mua và khi thuê rất khác nhau. Khi nghiên cứu về nhu cầu tài chính ta phải phân biệt hai loại tài sản cố định này.
- Nợ ngắn hạn: Là những khoản nợ phát sinh trong chu kỳ sản xuất kinh doanh. Thường các khoản này tiến triển cùng với mức độ hoạt động. Nếu có hiện tượng nào có vẻ bất thường thì nên nghiên cứu sâu hơn để tìm ra nguyên nhân.
- Nợ dài hạn: Sự tăng trưởng các khoản nợ dài hạn không bắt buộc phải là dấu hiệu xấu đối với doanh nghiệp. Đây là một thí dụ điển hình, cho ta thấy rằng trong các tài liệu kế toán, đặc biệt là trong bảng cân đối kế toán, xét riêng một chỉ tiêu là không đủ.
- Nguồn vốn chủ sở hữu: Đặc điểm của loại vốn này chính là doanh nghiệp là chủ sở hữu. Do đó, theo nguyên tắc, vốn này sẽ lưu lại trong doanh nghiệp tới lúc thanh lý. Đây là một nguồn vốn ổn định, doanh nghiệp không phải trả cho ai cả. Hai mục đáng chú ý là nguồn vốn kinh doanh và các quỹ.
2.2.4.2 Cơ cấu và hệ số
* Vốn luân chuyển:
Định nghĩa một cách tổng quát thì vốn luân chuyển là khoản chênh lệch giữa sử dụng vốn và nguồn vốn cùng thời gian sử dụng do các giao dịch tài chính trong kỳ kinh doanh gây ra.
Công thức tính vốn luân chuyển như sau:
Vốn luân chuyển = Nguồn vốn dài hạn – Tài sản cố định
Nguồn vốn dài hạn của doanh nghiệp là nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể sử dụng trong một thời gian dài hơn một năm. Nguồn vốn dài hạn gồm nguồn vốn chủ sở hữu và các khoản nợ dài hạn khác.
Nguồn vốn dài hạn = Nguồn vốn chủ sở hữu + Nợ dài hạn
Nguyên tắc cơ bản của quản lý tài chính là doanh nghiệp phải dùng nguồn vốn dài hạn để hình thành tài sản cố định. Điều đó đảm bảo rằng các tài sản cố định sẽ được sử dụng trong thời gian dài hơn một năm tại doanh nghiệp
* Nhu cầu vốn luân chuyển
Nhu cầu vốn luân chuyển = (tồn kho + các khoản phải thu) – Nợ ngắn hạn
Nhu cầu vốn luân chuyển âm: tức là khoản tồn kho và các khoản phải thu nhỏ hơn nợ ngắn hạn. Vì vậy các nguồn vốn ngắn hạn từ bên ngoài dư thừa và bù đắp đủ cho các sử dụng ngắn hạn của doanh nghiệp.
Nhu cầu vốn luân chuyển dương: tồn kho và phải thu lớn hơn nợ ngắn hạn. Trong trường hợp này các sử dụng ngắn hạn của doanh nghiệp lớn hơn các nguồn vốn ngắn hạn mà doanh nghiệp có từ bên ngoài.
* Khả năng thanh toán nhanh:
Khả năng thanh toán nhanh = Vốn bằng tiền / Nợ ngắn hạn
Chỉ tiêu này thể hiện mối quan hệ giữa tài sản có khả năng thanh toán trực tiếp như tiền mặt, chứng khoán bán được ngay. Đây là chỉ tiêu khắt khe về khả năng trả nợ ngắn hạn.
* Khả năng thanh toán tổng quát
Khả năng thanh toán tổng quát = Tài sản lưu động / Nợ ngắn hạn
Tỷ số này so sánh toàn bộ tài sản lưu động với nợ ngắn hạn, mức đạt được sự an toàn thì tỷ số này phải lớn hơn 1
* Khả năng độc lập tài chính:
Có hai công thức để đánh giá sự độc lập tài chính của doanh nghiệp:
- So sánh tổng nợ và vốn chủ sở hữu. Thông thường tổng nợ không được vượt quá hai lần vốn chủ sở hữu.
- So sánh nợ dài hạn với vốn chủ sở hữu. Điều kiện an toàn là tổng nợ phải bằng vốn chủ sở hữu.
2.2.4 Phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ:
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ chia làm ba phần:
- Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động kinh doanh
- Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động đầu tư
- Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động tài chính
Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động kinh doanh: Phần lớn các quá trình sản xuất kinh doanh đều có thể phân tích được theo mô hình đơn giản hoá sau: Doanh nghiệp chi tiền ra trước để mua yếu tố đầu vào, trả lương cho nhân sự…, khi sản xuất xong và bán được sản phẩm thì mới thu được tiền vào. Hơn nữa nhiều khi mua nhưng chưa trả tiền ngay, nhiều khi bán sản phẩm cũng không thu được tiền ngay vì cho khách nợ. Trong đời sống hằng ngày, doanh nghiệp gặp rất nhiều sự chênh lệch như vậy và đây là những hiện tượng rất bình thường.
Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động đầu tư: Khi doanh nghiệp chi tiền ra để đầu tư vào các phương tiện sản xuất, như nhà xưởng máy móc thì sự chênh lệch trong thời gian lại càng lớn hơn. Tài sản cố định khấu hao trong suốt thời hạn sử dụng nghĩa là đối với một dây chuyền sản xuất sử dụng trong 10 năm thì trong 10 năm đó, doanh nghiệp sẽ dần dần thu hồi được số tiền đã bỏ ra lúc đầu để mua nó. Về phương diện quản lý ngân quỹ đầu tư có nghĩa là chi một lượng tiền lớn ngay và thu dần dần lại trong khoảng thời gian dài.
Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động tài chính: tạo ra những dòng tiền ra vào mà doanh nghiệp sử dụng để giải quyết những chênh lệch về ngân quỹ phát sinh do những hoạt động sản xuất kinh doanh và đầu tư. Hay khi doanh nghiệp vay vốn dài hạn, sẽ thu ngay một lượng tiền lớn và sẽ trả dần dần trong một khoản thời gian dài. Các dòng tiền xuất phát trừ các nghiệp vụ này đặc biệt phù hợp với các doanh nghiệp có chương trình đầu tư. Ngược lại, khi doanh nghiệp có vốn nhàn rỗi, cố thể cho vay ngắn hay dài hạn, trong thời gian cầm tới số tiền đó.
2.3 Lập kế hoạch tài chính
2.3.1 Khái niệm
Kế hoạch tài chính là một quá trình gồm:
- Phân tích các giải pháp đầu tư, tài trợ mà doanh nghiệp có thể lựa chọn.
- Dự kiến các kết quả tương lai của