Đề tài Tìm hiểu một số giải pháp nhằm hoàn thiện nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng Công thương Cầu Giấy

Từ sau Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam, nền kinh tế nước ta có nhiều thay đổi nhanh chóng, đổi mới cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang quản lý theo cơ chế thị trường có định hướng của Nhà nước và chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần đã đưa nền kinh tế nước ta đi đúng hướng phát triển của thời đại.

doc46 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1283 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu một số giải pháp nhằm hoàn thiện nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng Công thương Cầu Giấy, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Từ sau Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam, nền kinh tế nước ta có nhiều thay đổi nhanh chóng, đổi mới cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang quản lý theo cơ chế thị trường có định hướng của Nhà nước và chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần đã đưa nền kinh tế nước ta đi đúng hướng phát triển của thời đại. Trong nền kinh tế thị trường mỗi doanh nghiệp là một đơn vị hạch toán độc lập, tự tổ chức và quản lý mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Đối với mọi doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh, điểm mấu chốt là phải căn cứ vào việc có bán được hàng hay không. Chỉ có bán được hàng doanh nghiệp mới có thể thu lại được vốn, thông qua đó mới thực hiện được lợi nhuận tiếp tục mở rộng tái sản xuất kinh doanh. Để đáp ứng được sự phát triển của nền kinh tế thị trường buộc các doanh nghiệp phải cạnh tranh gay gắt với nhau, phải chiếm lĩnh được thị trường các sản phẩm mà mình đang kinh doanh, do vậy bán hàng luôn là mối quan tâm hàng đầu của các nhà sản xuất kinh doanh. Trong tiêu thụ người ta sử dụng rất nhiều các biện pháp để thúc đẩy hoạt động bán hàng sao cho bán được nhiều nhất, nhanh nhất và hiệu quả nhất. Bán hàng là khâu cuối cùng của quá trình lưu thông hàng hoá và là khâu quan trọng nhất nối liền giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Kết quả hoạt động bán hàng ảnh hưởng trực tiếp đến tất cả mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của toàn công ty. Bán hàng tuy không phải là vấn đề mới mẻ nhưng nó luôn mang tính chất thời sự. Bởi vì thị trường hàng hoá luôn có những thay đổi không ngừng. Trong thời gian thực tập tại Công ty dệt len mùa đông qua nghiên cứu và phân tích tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty, tôi xin đưa ra những vấn đề về khả năng đẩy mạnh hoạt động bán hàng của Công ty. Đây là một vấn đề phức tạp và khó khăn vì vậy sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi mong được thầy cô chỉ bảo thêm để chuyên đề của tôi đạt được kết quả tốt. Chương I Cơ sở lý luận về hoạt động bán hàng I/ Vai trò - nội dung của công tác bán hàng: 1. Khái niệm bán hàng: Sản xuất hàng hoá đã cho ra đời từ rất lâu khi mà chế độ công xã nguyên thuỷ tan rã. Đó là cách tổ chứ nền sản xuất xã hội, ở đó các quan hệ kinh tế giữa con người với nhau thể hiện qua thị trường, qua mua bán sản phẩm của lao động "sản xuất hàng hoá chính là cách tổ chức của kinh tế xã hội, trong đó sản phẩm do người sản xuất cá thể, riêng lẻ sản xuất ra, mỗi người chuyên làm ra một loại sản phẩm nhất định, thành thử muốn thoả mãn nhu cầu xã hội thì phải mua bán sản phẩm. Vì vậy sản phẩm trở thành hàng hoá trên thị trường" (Lênin toàn tập, tập I trang 106). Hàng hoá vận động, trao đổi theo công thức : H-T-H. Như vậy quá trình lưu thông hàng hoá trải qua 2 giai đoạn: - Giai đoạn 1: Hàng - Tiền - Giai đoạn 2: Tiền - Hàng Trong giai đoạn 1: Giá trị hàng hoá chuyển từ hình thái hàng hoá sang hình thái tiền tệ và đó chính là việc bán hàng. Vậy bán hàng là việc chuyển hình thái giá trị của vật tư hàng hoá từ hàng sang tiền, là việc thực hiện giá trị sử dụng đối với người sản xuất hàng hoá và người tiêu dùng hàng hoá đó. Đây là quá trình chuyển giao quyền sử dụng hữu về hàng hoá. Kết thúc mua, bán, người mua nhận được hàng, người bán nhận được tiền. 2. Vai trò vị trí của công tác bán hàng: Trong nền sản xuất hàng hoá, hàng hoá sản xuất ra là để bán. Khi một hàng hoá được đem ra bán trên thị trường thì cả người mua và người bán đều quan tâm đến hàng hoá đó nhưng với mục đích hoàn toàn khác nhau. Mục đích của người sản xuất là sản xuất ra để bán nên cái mà họ quan tâm hàng đầu là giá trị. Người mua thì quan tâm đến giá trị sử dụng, nhưng để có được giá trị sử dụng thì họ phải trả giá trị cho người bán. Đối với người sản xuất một mặt lao động của anh ta mang tính chất xã hội cần thiết cho người sản xuất khác, mặt khác còn mang tính chất cá biệt do chính anh ta tiến hành. Để chứng minh lao động đó là ích lợi đối với xã hội hàng hoá làm ra phải được người mua trên thị trường chấp nhận, tức là hàng hoá phải bán được. Từ đó lao động của người sản xuất vừa mang tính xã hội vừa mang tính cá biệt. Khi người sản xuất bán được hàng thì có nghĩa vụ là sản xuất của họ ăn khớp với nhu cầu của xã hội. Nó thể hiện sự thừa nhận tính chất lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá, nó thủ tiêu mâu thuẫn giữa giá trị và giá trị sử dụng. Khâu bán hàng là khâu cuối cùng của quá trình lưu thông hàng hoá nhưng nó có một vai trò quan trọng đối với toàn bộ hoạt động của một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Hoạt động của một doanh nghiệp thương mại bao gồm nhiều khâu khác nhau: Mua vào - phân phối - bảo quản - dự trữ - bán hàng. Mỗi khâu có một vị trí độc lập và có tầm quan trọng riêng, đồng thời các khâu lại có mối quan hệ với nhau rất hữu cơ và thúc đẩy lẫn nhau. Song bán hàng là hoạt động có nhiều chi phối nhất, bán là mục đích, nó qui định phương hướng, nội dung và phương pháp hoạt động của các khâu khác. Do đó bán hàng là mục tiêu hoạt động kinh doanh và chỉ có bán được hàng mới thực hiện được mục tiêu của kinh doanh là thu lợi nhuận.Thông qua bán hàng, lợi nhuận được thực hiện và nó là nguồn để bổ xung vốn lưu động và hình thành các loại quỹ của doanh nghiệp, dùng để kích thích vật chất cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp nhằm động viên, gắn bó học với doanh nghiệp. Tổ chức tốt công tác bán hàng sẽ có tác động làm tăng lượng hàng bán ra, tăng mức lưu chuyển hàng hoá sẽ làm tổng lợi nhuận của doanh nghiệp tăng, thu hồi vốn nhanh, tăng hiệu quả sử dụng vốn, cho phép tiết kiệm được một khoản vốn để đầu tư vào một loại hàng hoá khác hoặc mở rộng qui mô kinh doanh. Tổ chức tốt hoạt động bán hàng sẽ góp phần giảm chi phí lưu thông vì khi hàng hoá bán được nhiều nhanh sẽ giảm được thời gian dự trữ, giảm chi phí bảo quản, hao hụt, mất mát hàng hoá. Trong cơ chế thị trường bán hàng là tấm gương phản chiếu tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp góp phần củng cố vị trí thanh thế của doanh nghiệp trên thị trường. Mặt khác, bán hàng là một hoạt động vừa đại diện cho người sản xuất vừa đại diện cho người tiêu dùng, vì vậy nó thúc đẩy tính chủ động sáng tạo trong kinh doanh của các doanh nghiệp. Thông qua hoạt động này các có thể thu được đầy đủ chính xác các thông tin về cung - cầu giá cả, thị hiếu của người tiêu dùng. Từ đó có thể ra các quyết định sản xuất kinh doanh phù hợp, tạo điều kiện cho công tác bán hàng đạt hiệu quả cao hơn. Công tác bán hàng có tầm quan trọng đặc biệt đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào. Việc tổ chức và quản lý hoạt động này như thế nào là tùy thuộc vào mặt hàng kinh doanh, tuỳ thuộc vào từng điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp. Nhưng dù thế nào đi nữa công tác bán hàng có tầm quan trọng và có ảnh hưởng quyết định đến hoạt động khác của doanh nghiệp. Vì vậy vấn đề tổ chức công tác bán hàng như thế nào là vấn đề cần được coi trọng. 3. Nội dung bán hàng đối với một doanh nghiệp thương mại: Trong cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay, trong mấy năm gần đây, nền kinh tế nước ta đã có nhiều biến đổi quan trọng và đã có những nét khởi sắc rõ nét. Theo tinh thần nghị quyết VI và VII, nền kinh tế nước ta đang chuyển từ một nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Sự chuyển đổi về cơ chế quản lý đã dẫn đến những thay đổi về điều kiện, môi trường và yêu cầu đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường. Điều đó tạo ra cho doanh nghiệp một môi trường tốt hơn. Song cũng đặt cho các trước những thử thách gay go, buộc các doanh nghiệp phải tìm cách tự tìm lấy vị trí và con đường của mình. Như mọi người đều biết quá trình sản xuất hàng hoá gồm bốn khâu: sản xuất - phân phối - trao đổi - tiêu dùng. Hàng hoá được sản xuất ra là để bán. Bán hàng là một trong những vấn đề thường xuyên làm cho đau đầu các nhà sản xuất kinh doanh, các nhà kinh tế học đã khẳng định "Bán hàng là bước nhảy nguy hiểm chết người". Tổ chức sản xuất đã khó khăn song tổ chức bán hàng còn nguy hiểm và phức tạp hơn nhiều. a. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, chức năng thương mại được coi là một bộ phận hữu cơ quan trọng của hoạt động kinh doanh, có tác động và liên hệ trực tiếp giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Như vậy chức năng thương mại cụ thể là các doanh nghiệp thương mại với vai trò là cầu nối giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Hoạt động chính là mua để bán. Thông qua đó tìm kiếm lợi nhuận. Nguyên tắc đầu tiên có ý nghĩa sống còn đối với một doanh nghiệp thương mại là phải hướng tới thị trường trung tâm và là đối tượng được các nhà sản xuất kinh doanh chú trọng. Người tiêu dùng là người quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. b. Vậy thị trường là gì? Theo nghĩa rộng thị trường là một quá trình trong đó người mua và người bán tác động qua lại với nhau để xác định giá cả và chất lượng, số lượng thị trường nằm trong khâu lưu thông của quá trình tái sản xuất hàng hoá. Nó là nơi diễn ra các hoạt động mua bán thể hiện quan hệ mua - bán - tiền tệ. Chính vì vậy thị trường được coi là môi trường kinh doanh. Trên thị trường số lượng hàng hoá mà người bán muốn và có khả năng bán theo mức giá cả nhất định biểu hiện ra thành cung. Số lượng hàng hoá mà người mua muốn và có khả năng mua theo mức giá nhất định biểu hiện thành cầu. Trên thị trường hoạt động trao đổi mưa bán diễn ra khi cung và cầu gặp nhau, cân bằng với nhau. Thị trường hay người tiêu dùng là yếu tố quyết định doanh nghiệp sẽ kinh doanh cái gì? bán cho ai? và bán như thế nào? Vì vậy công tác nghiên cứu thị trường là đối tượng chủ yếu của các hoạt động bán hàng đồng thời là nhân tố quan trọng có ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả của hoạt động bán hàng, nghiên cứu thị trường là tìm đúng cái mà thị trường cần. Thị trường là nơi bắt đầu cũng là nơi kết thúc của quá trình kinh doanh, nó chứa đựng tổng số cung cầu và cơ cấu của cung cầu về một mặt hàng nào đó. Thị trường là nơi diễn ra các hoạt động mua bán và các quan hệ tiền tệ. Có trao đổi hàng hoá là có thị trường. Song thị trường tồn tại một cách khách quan, từng doanh nghiệp riêng lẻ không thể điều khiển được thị trường mà ngược lại họ phải tìm cách tiếp cận và thích nghi với thị trường. Trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp phải tự xác định lấy mọi hoạt động của mình: mua cái gì, bán cái gì số lượng bao nhiêu, giá cả như thế nào, phương thức bán ra sao... Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phải tự bù đắp chi phí và có lãi trên cơ sở số vốn nhất định. Mặt khác cơ chế thị trường mở ra cho doanh nghiệp nhiều cơ hội để tìm kiếm lợi nhuận, nhưng cũng đầy cạm bẫy và rủi ro, cạnh tranh trong thị trường cũng rất gay gắt và quyết liệt. Doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển, chiến thắng trong cạnh tranh đòi hỏi phải nghiên cứu kỹ lưỡng, tỉ mỉ thị trường. Nghiên cứu thị trường là điểm xuất phát của kế hoạch, các biện pháp định hướng để đạt mục đích tìm kiếm lợi nhuận của doanh nghiệp. * Cung: Cung là toàn bộ hàng hoá hiện có hoặc có thể đưa ra thị trường trong một thời gian nào đó. Cung chịu tác động của nhiều nhân tố như tốc độ phát triển của sản xuất tính chất trình độ của sản xuất, các điều kiện tự nhiên tài nguyên thiên nhiên, sự tiến bộ của KHKT, chính sách kinh tế chính trị... Đối với doanh nghiệp thương mại để đảm bảo có hàng bán, quá trình kinh doanh liên tục thì các doanh nghiệp phải thực hiện phương châm: "Nhà buôn nắm lấy sản xuất". Điều đó có nghĩa là các nhà buôn trên cơ sở hiểu biết về thị trường, cùng với người sản xuất tạo ra những sản phẩm phù hợp với nhu cầu tiêu dùng. Không những thế còn phải tiếp tục hoàn thiện sản phẩm trong khâu lưu thông, tiếp tục quá trình sản xuất trong khâu lưu thông. * Cầu: Cầu hàng hoá là nhu cầu có khả năng thanh toán của các đơn vị, các tổ chức kinh tế và tư nhân về hàng hoá. Nhu cầu là nguồn gốc, nội dung của nhu cầu, không có nhu cầu thì không có cầu, nhu cầu bao giờ cũng lớn hơn cầu, nhu cầu tồn tại mang tính xã hội, còn cầu mang tính thị trường. Cầu chịu tác động rất lớn của giá cả hàng hoá trên thị trường, giá cả càng cao thì nhu cầu càng thấp và ngược lại. Ngoài ra cầu còn chịu nhiều ảnh hưởng của các nhân tố khác như khả năng thay thế của các hàng hoá khác, đặc điểm tâm lý xã hội, sở thích mức thu nhập... Muốn xác định được chính xác nhu cầu, người kinh doanh phải thật sự là đại diện cho người tiêu dùng. Trước hết, là phải đại diện cho quyền lợi người tiêu dùng, đảm bảo đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. * Giá cả: Giá cả thị trường là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá. Giá cả chịu sự tác động của nhiều nhân tố như giá trị cá biệt của hàng hoá, sức cung, sức cầu, cạnh tranh trên thị trường, qui luật lưu thông tiền tệ. Giá cả luôn là mối quan tâm hàng đầu đối với cả người mua lẫn người bán, người mua muốn mua rẻ, người bán muốn bán đắt. Giá cả của một loại hàng hoá dịch vụ được xác định trên cơ sở thoả thuận của người mua và người bán. Các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh cần phải có một phương pháp xác định giá và chính sách giá cả hợp lý. Mức giá đưa ra cơ sở giá cả thị trường theo nguyên tắc đảm bảo bù đắp chi phí và có lãi, giá cả phải có tác dụng kích thích nhu cầu và làm nảy sinh ra các nhu cầu mới. Cung - cầu và giá cả là 3 yếu tố cơ bản trong thị trường, có mối quan hệ mật thiết với nhau và có tác động qua lại hữu cơ với nhau. Chỉ cần trong 3 yếu tố thay đổi sẽ làm cho 2 yếu tố còn lại thay đổi theo. Theo qui luật giá tăng thì cung tăng cầu giảm, ngược lại giá giảm thì cung giảm cầu tăng. Giao điểm của đường cung và đường cầu nói lên trạng thái cân bằng, dùng cung cầu phản ánh mức giá cần thiết để có sự phù hợp cân đối cung cầu. Xét trên toàn xã hội thì trạng thái tối ưu trong tương quan cung cầu là cân bằng và sự phù hợp với nhau cả về khối lượng và cơ cấu mặt hàng, cả về không gian lẫn thời gian. Đây là trạng thái lý tưởng không xảy ra trong thực tế. * Cạnh tranh trên thị trường: Cạnh tranh là linh hồn, là sức sống của thị trường, do vậy nghiên cứu thị trường phải nghiên cứu các hình thức và mức độ cạnh tranh trên thị trường. Trên thị trường có mấy loại cạnh tranh sau đây: - Cạnh tranh giữa người sản xuất và người bán hàng - Cạnh tranh giữa người bán và người mua. Những người bán thì muốn giá cao và liên kết với nhau để giữ giá và nâng giá, những người mua thì muốn mua giá thấp và họ liên kết với nhau để dìm giá. Chuyển sang cơ chế thị trường mua bán theo giá cả thoả thuận đòi hỏi các nhà sản xuất kinh doanh phải năng động và nhạy cảm với quan hệ thị trường. Để đạt được lợi nhuận và hiệu quả kinh tế cao, các đơn vị phải chấp nhận cạnh tranh để chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ hàng hoá. Cạnh tranh là áp lực bắt buộc các doanh nghiệp phải tính toán năng động trong mọi hoạt động để đẩy mạnh bán hàng, thu hồi vốn nhanh, tiếp tục mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh. c. Chiến lược sản phẩm: Chiến lược sản phẩm là nền tảng, xương sống cho mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nó chỉ ra cho các doanh nghiệp phương hướng đầu tư kinh doanh. Đối với một doanh nghiệp thương mại điều mấu chốt của chiến lược sản phẩm là phải kinh doanh cái mà thị trường cần chứ không phải là các dp mà doanh nghiệp hiện có. Lấy nhu cầu tiêu dùng của khách hàng làm cơ sở cho việc xác định chiến lược sản phẩm. Chính sách sản phẩm của doanh nghiệp phải đảm bảo thực hiện các mục tiêu chung như: + Mục tiêu lợi nhuận: Đây là mục tiêu chính của mọi doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Có lợi nhuận doanh nghiệp mới có thể tiếp tục phát triển và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. + Mục tiêu thế lực: Doanh nghiệp có thể tăng được doanh số bán, mở rộng thị trường hay không sẽ tuỳ thuộc rất lớn vào khả năng xâm nhập thị trường, vị trí, thế lực của doanh nghiệp trên thị trường. + Mục tiêu an toàn: Rủi ro và tổn thất là điều khó có thể tránh khỏi trong kinh doanh. Mọi chính sách sản phẩm đúng đắn có thể giúp cho doanh nghiệp tránh được những rủi ro tổn thất. Nội dung của chính sách sản phẩm bao gồm nhiều vấn đề như chủng loại sản phẩm, đổi mới và đa dạng hoá sản phẩm. Nghiên cứu chu kỳ sống sản phẩm... Tuy nhiên trong việc nghiên cứu chính sách sản phẩm thì vấn đề quan trọng là nghiên cứu chu kỳ sống của sản phẩm. c1. Chu kỳ sống của sản phẩm: Chu kỳ sống của sản phẩm là một thuật ngữ để mô tả sự biến động của doanh số tiêu thụ tương quan với các chi phí bán đối với một sản phẩm kể từ khi sản phẩm được đưa vào thị trường cho đến khi nó phải rút lui khỏi thị trường. Chu kỳ sống của sản phẩm được gắn với một thị trường nhất định bởi vì mỗi sản phẩm ở trong thị trường do có những đặc tính riêng nên có một chu kỳ sống riêng biệt. Về thực chất, chu kỳ sống của sản phẩm phản ánh mức độ thích ứng của sản phẩm đó với nhu cầu của thị trường nhất định, mức độ đó thay đổi theo từng giai đoạn của chu kỳ sống của sản phẩm. Mỗi một sản phẩm trong suốt thời kỳ tồn tại trên thị trường mức độ thích ứng thay đổi làm cho hàng hoá thay đổi theo, kéo theo doanh số tiêu thụ. Vì lẽ đó không thể dùng một chiến lược chính sách đối vói sản phẩm trong suốt cả chu kỳ sống của sản phẩm. Mỗi một sản phẩm hay một nhãn hiệu sản phẩm khác nhau có một chu kỳ sống khác nhau trong mỗi thị trường. Từ đó những hàng hoá thiết yếu hay các sản phẩm độc quyền còn tất cả các loại hàng hoá đều có 1 chu kỳ sống của mình. Mỗi hàng hoá trong chu kỳ sống của nó phải trải qua một số giai đoạn và có thể biểu diễn dưới dạng biểu đồ sau: - Fa1: pha triển khai Fi quảng cáo Doanh số - Fa1: pha tăng cường Lãi suất - Fa1: pha bão hoà - Fa1: pha suy thoái. Fa1 Fa2 Fa3 Fa4 - Đối với pha triển khai: Do sản phẩm mới chưa thích ứng với thị trường, chi phí sản xuất ở giai đoạn này còn cao, sản phẩm còn chưa hoàn thiện. Người ta thường áp dụng chính sách "Hớt váng sữa" tức là bán với giá cao. Đối với sản phẩm chưa có ưu thế rõ rệt doanh nghiệp thường phải bán với giá thấp nhằm tạo ra một chỗ đứng trên thị trường, có thể doanh nghiệp không có lãi hoặc chịu lỗ song việc đầu tiên là phải tạo được chỗ đứng trên thị trường. Tăng cường biện pháp xúc tiến và phân phối sản phẩm. Việc phối hợp trên với mục tiêu càng rút ngắn thời gian này càng tốt. - Đối với pha tăng trưởng: ở giai đoạn nay, doanh số tiêu thụ tăng lên nhanh chóng và đã mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp hoặc mức lợi nhuận tăng lên song cũng đã bắt đầu có những sản phẩm cạnh tranh. Vì vậy doanh nghiệp cần: + Tiếp tục nghiên cứu, cải tiến, hoàn thiện sản phẩm + Mở rộng kênh tiêu thụ + Giảm chi phí cho các hoạt động xúc tiến bán + Có thể giảm giá nếu cần thiết để tạo thế cạnh tranh. - Đối với pha bão hoà hay chín muồi: ở pha này doanh số tiêu thụ đạt mức cao nhất, chính vì lẽ đó mà chi phí sản xuất đối với đơn vị sản phẩm thường là không thống nhất và mức lợi nhuận đạt cao nhất. + Mở rộng tối đa hệ thống phân phối các kênh các mức độ khác nhau. + Giảm chi phí cho việc xúc tiến bán hàng + Nghiên cứu và chuẩn bị đưa ra thị trường sản phẩm mới. - Đối với pha suy thoái: Doanh số tiêu thụ của sản phẩm giảm sút nhanh, trên các kênh tiêu thụ xuất hiện hiện tượng ứ đọng hàng hoá, các sản phẩm cạnh tranh xuất hiện nhiều. + Thực hiện cải tiến sản phẩm, tìm thị trường mới + Giảm giá bán + Tiếp tục đẩy mạnh hệ thống phân phối bằng cách tăng cường các hoạt động dịch vụ bán hàng, thay đổi phương thức thanh toán. + Tăng cường quảng cáo khuyến trương sản phẩm. Đối với một doanh nghiệp thương mại cần phải xác định được đúng thời điểm tham gia kinh doanh sẽ thu được lợi nhuận tối đa. Thích hợp nhất vẫn là lúc sản phẩm bắt đầu vào pha phát triển. Song cũng có thể tham gia ngay từ pha triển khai. Điều này sẽ giúp doanh nghiệp chủ động được nguồn hàng song cần phải có những nghiên cứu, đánh giá chính xác tương lai của sản phẩm. Những sản phẩm mới có thể thất bại. Mức rủi ro liên quan đến việc đổi mới rất lớn nhưng lợi ích gắn liền với nó cũng rất lớn. Sự đảm bảo thành công cho hoạt động đổi mới là việc xây dựng một cơ cấu tổ chức lành mạnh để nghiên cứu những ý tưởng về hàng hoá mới, tiến hành nghiên cứu nghiêm túc và thông qua những quyết định có căn cứ cho từng giai đoạn sáng tạo sản phẩm mới. c2. Đánh giá khả năng thích ứng của sản phẩm: Doanh nghiệp thương mại với hiểu biết của mình về thị trườ
Tài liệu liên quan