Ngày nay xu thế hội nhập khu vực, thế giới và sự phát triển không ngừng của phương thức sản xuất đã chi phối ngày càng mạnh mẽ vào nền kinh tế xã hội của tất cả các quốc gia trên toàn thế giới, và Việt Nam cũng không nằm ngoài sự chi phối đó .Nền kinh tế nước ta kể từ khi công cuộc đổi mới được tiến hành, kinh tế thị trường ngày càng phát triển mạnh mẽ theo nhiều chiều hướng khác nhau.
29 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1395 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu một số vấn đề về đổi mới kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần mở đầu
Ngày nay xu thế hội nhập khu vực, thế giới và sự phát triển không ngừng của phương thức sản xuất đã chi phối ngày càng mạnh mẽ vào nền kinh tế xã hội của tất cả các quốc gia trên toàn thế giới, và Việt Nam cũng không nằm ngoài sự chi phối đó .Nền kinh tế nước ta kể từ khi công cuộc đổi mới được tiến hành, kinh tế thị trường ngày càng phát triển mạnh mẽ theo nhiều chiều hướng khác nhau.Điều đó đã đặt ra cho các cơ quan Nhà nước về quản lý kinh tế phải không ngừng đổi mới và hoàn thiện các công cụ, chính sách quản lý và điều tiết nền kinh tế , từ đó tạo ra một mức độ can thiệp hợp lý của Nhà nước vào nền kinh tế.
Thực tế đã chứng minh rằng, bằng công tác kế hoạch hoá Nhà nước ta đã thực sự có trong tay một công cụ hiệu quả trong việc điều tiết thị trường qua đó gián tiếp điều tiết nền kinh tế. Do vậy đổi mới và hoàn thiện công tác kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân trở thành một vấn đề hết quan trọng trong công cuộc đổi mới nền kinh tế nước ta. Khi công tác kế hoạch hoá được đổi mới và hoàn thiện phù hợp với trình độ phát triển của thị trường, sẽ tạo ra một sự hợp lý về mối quan hệ giữa kế hoạch và thị trường, từ đó phân định rõ ràng “sân chơi” của chúng trong một nền kinh tế có định hướng như của Việt Nam.
Vấn đề đổi mới và hoàn thiện công tác kế hoạch hoá ở nước ta luôn là vấn đề được quan tâm chú ý ở tất cả các giai đoạn phát triển, vấn đề này luôn được đề cập ở tất cả các kỳ họp đại hội của Đảng. Thông qua việc phân tích bản chất của công tác kế hoạch hoá và thực trạng của nền kinh tế nước ta và những yếu tố tác động khác qua từng thời kỳ nhất định, chúng ta đã xác định được những công việc phải làm để đổi mới và hoàn thiện công tác kế hoạch hoá ở Việt Nam. Và như Đảng và Nhà nước đã xác định thì đổi mới công tác kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế xã hội là trọng tâm của công cuộc đổi mới kế hoạch hoá phát triển kinh tế xã hội.
Để phục vụ cho bài tập đề án môn học cũng như việc học tập chuyên ngành Kế hoạch, Em đã chọn đề tài “Một số vấn đề về đổi mới kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam”. Em xin gửi lời cảm ơn tới thầy giáo: Tiến sĩ Ngô Thắng Lợi đã hướng dẫn và gúp đỡ em trong quá trình hoàn thành bài viết của mình.
Hà Nội ngày 26 tháng 11 năm2004
Sinh viên
Nguyễn Việt Hưng.
Phần I
Những vấn đề lý luận về
kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế xã hội
I. Kế hoạch 5 năm trong hệ thống kế hoạch hoá phát triển kinh tế xã hội.
1. Hệ thống kế hoạch hoá phân theo thời gian trong nền kinh tế quốc dân.
Hệ thống kế hoạch hoá là một hệ thống các loại hình thức kế hoạch phát triển, đó là hệ thống các công cụ điều hành và quản lý vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước. Trong hệ thống kế hoạch hoá, mỗi loại hình kế hoạch khác nhau có vai trò khác nhau và chúng có thể được phân loại theo nhiều góc độ khác nhau.
Nếu xem xét hệ thông kế hoạch hoá theo góc độ nội dung thì hệ thống kế hoạch hoá bao gồm các bộ phận cấu thành như: Chiến lược phát triển kinh tế xã hội; Quy hoạch phát triển; kế hoạch phát triển và các chương trình dự án phát triển.
Trong đó chiến lược phát triển kinh tế xã hội là hệ thống các phân tích, đánh giávà lựa chọn về quan điểm mục tiêu tổng quát, định hướng phát triển các lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội và các giải pháp cơ bản, trong đó bao gồm cácchính sách về cơ cấu, cơ chế vận hành hệ thống kinh tế xã hội nhằm thực hiện mục tiêu đặt ra trong một khoảng thời gian dài.
Quy hoạch phát triển là sự thể hiện của chiến lược phát triển trong thực tiễn phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Quy hoạch phát triển thể hiện tầm nhìn, sự bố trí chiến lược về thời gian và không gian lãnh thổ, xây dựng khung vĩ môvề tổ chức không gian để chủ động hướng tới mục tiêu đạt hiệu quả cao, phát triển bền vững trong tương lai.
Kế hoạch phát triển là một công cụ quản lý và điều hành vĩ mô nền kinh tế quốc dân, nó là sự cụ thể hoá các mục tiêu định hướng của chiến lược phát triển kinh tế xã hội theo từng thời kỳ bằng hệ thống các mục tiêu chỉ tiêuvà chỉ tiêu biện pháp định hướngpt và hệ thống các chính sách, cơ chế áp dụng trong thời kỳ kế hoạch.
Chương trình và dự án phát triển kinh tế xã hội được xem như là một công cụ triển khai thực hiện các kế hoạch phát triển nhằm giải quyết các vấn đề bức xúc về kinh tế và xã hội. Là một phương pháp kế hoạch hoá được áp dụng nhiều nước trên thế giới, ở Việt Nam cùng với quá trình đổi mới và mở cửa nền kinh tế phương pháp kế hoạch hoá quản lý theo các chương trình dự án mà trọng tâm là các chương trình quốc gia cũng được áp dụng rộng rãi từ những năm 1992.
Tóm lại khi xem xét hệ thống kế hoạch hoá dưới góc độ nội dung ta thấy được rằng kế hoạch hoá là một quá trình liên tiếp nhau, bổ trợ nhau và thể hiện mối quan hệ định hướng và thực hiện giữa các bộ phận cấu thành của hệ thống kế hoạch hoá.
Khi chúng ta xem xét hệ thống kế hoạch hoá ở góc độ thời gian thì hệ thống kế hoạch hoá lại được phân chia thành 3 loại kế hoạch chủ yếu là: Kế hoạch dài hạn; kế hoạch trung hạn và kế hoạch ngắn hạn.
1.1. Kế hoạch dài hạn.
Khi nói kế hoạch dài hạn ta có thể hiểu đó là những chiến lược phát triển kinh tế xã hội có khoảng thời gian từ 10 đến 20 năm. Và ngoài chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm, 20 năm chúng ta còn có thể có các chiến lược phát triển kinh tế xã hội có thời gian dài từ 20 đến 25 năm và chúng được gọi là “tầm nhìn”. Để tạo thuận lợi cho việc xây dựng và bố trí các chiến lược phát triển kinh tế xã hội cho10 năm, “tầm nhìn thường có nội dung tổng quát hơn, linh động hơn hay mềm hơn và có tính chất định tính hơn so với chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Điều quan trọng của việc phân định giữa chiến lược phát triển kinh tế xã hội và tầm nhìn là phải thống nhất về mục tiêu định hướng của chúng sao cho những bước đi trước “thuận” và tạo tiền đề cho bước đi sau đồng thời có khả năng hiệu chỉnh khi cần thiết.
Một kế hoạch dài hạn thường có nội dung để giải đáp những câu hỏi: Chúng ta đang đứng ở đâu? Muốn đi đến đâu? Đi bằng cách nào? Và làm thế nào để biết được chúng ta đã đi đến đó? Để trả lời mỗi một câu hỏi trên chúng ta phải tiến hành những công việc cụ thể như:
- Nhận dạng thực trạng của nền kinh tế : Quá trình nhận dạng thực trạng phải được đánh giá toàn diện và trong một khoảng thời gian dài tương đương với thời kỳ của chiến lược phát triển sẽ xây dựng. Nó là cơ sở để rút ra kết luận đúng đắn cho câu hỏi: Chúng ta đang đứng ở đâu?.
- Xây dựng các quan điểm phát triển, đó là những tư tưởng chủ đạo thể hiện tính định hướng của các kế hoạch dài hạn. Việc xác định các quan điểm chủ dạo có ý nghĩa quan trọng trong việc tìm ra các bước ngoặt của con đường phát triển , nó tạo động lực cơ bản xuyên xuốtquá trình phát triển của đất nước.
- Xây dựng hệ thống mục tiêu, các mục tiêu chủ yếu là mục tiêu tổng quát, chủ yếu tập trung vào các vấn đề nâng cao đời sống xã hội của các tầng lớp dân cư, thay đổi bộ mặt đất nước, tạo thế vững chắc cho đất nước, phản ánh những biến đổi quan trọng của nền kinh tế.
- Xây dựng hệ thống chính sách và biện pháp. Đây là thể hiện sự hướng dẫn về cách thức thực hiện các mục tiêu đề ra. Nó bao gồm các chính sách và biện pháp về cơ cấu và cơ chế vận hành hwj thống kinh tế –xã hội, các chính sách về bồi dưỡng , khai thác, huy động, phân bổ và sử dụng hợp lý cá nguồn lực phát triển.
1.2 Kế hoạch trung hạn.
Kế hoạch trung hạn là những kế hoạch có khoảng thời gian từ 3 đến 10 năm. ở một số nước trên thế giới như nước Pháp, khi phân chia theo thời gian thì hình thức duy nhất của kế hoạch là kế hoạch 5 năm, nước Đức thường xây dựng kế hoạch trung hạn 5 năm, ở Malaysia có kế hoạch trung hạn 5 năm, kế hoạch trung hạn 3 năm, ở Việt Nam kế hoạch trung hạn thường là kế hoạch 5 năm.
Kế hoạch trung hạn (kế hoạch 5 năm) là sự cụ thể hoá các chiến lược phát triển kinh tế xã hội và quy hoạch phát triển trong lộ trình phát triển dài hạn của đất nước. Kế hoạch trung hạn xác định các mục tiêu chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế, nâng cao phúc lợi xã hội trong thời kỳ kế hoạch và xác định các cân đối, các chính sách phân bổ nguồn lực, vốn cho các chương trình phát triển của khu vực kinh tế Nhà nước và khuyến khích sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân.
1.3. Kế hoạch ngắn hạn (kế hoạch năm- kế hoạch tác nghiệp).
Trong hệ thống kế hoạch phát triển thì kế hoạch 5 năm là công cụ chính sách định hướng còn kế hoạch hàng năm là công cụ thực hiện. Đặc biệt nếu thực hiện kế hoạch 5 năm theo hình thức “cuốn chiếu” thì kế hoạch hàng năm thực chất sẽ là một phần định hướng của kế hoạch 5 năm. Vì vậy, vai trò hay chức năng đầu tiên của kế hoạch năm là cụ thể hoá kế hoạch 5 năm, phân đoạn kế hoạch 5 năm để từng bước thực hiện kế hoạch 5 năm. Quy mô và sự cấu thành của kế hoạch năm vì thế chủ yếu đươc quyết định bởi ngân sách, các chỉ tiêu kế hoạch 5 năm, các tiến trình trong nghiên cứu khả thi và những dự án triển khai trong thời kỳ trước. Bên cạnh đó kế hoạch năm còn là công cụ để điều chỉnh kế hoạch 5 năm có tính đến đặc điểm của từng năm. Ngoài ra, kế hoạch hàng năm còn đóng vai trò độc lập quan trọng, nó có thể bao hàm các nhiệm vụ, các chỉ tiêu chưa được dự kiến trong kế hoạch 5 năm, bảo đảm tính linh hoạt, nhạy bén của kế hoạch hoá nói chung.
2. Kế hoạch 5 năm trong hệ thông kế hoạch hoá phát triển kinh tế-xã hội.
2.1. Khái niệm và nội dung cơ bản của kế hoạch 5 năm.
Kế hoạch 5 năm là sự cụ thể hoá các chiến lược phát triển kinh tế xã hội và quy hoạch phát triển trong lộ trình phát triển dài hạn của đất nước. Kế hoạch 5 năm xác định các mục tiêu chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế, nâng cao phúc lợi xã hội trong thời kỳ kế hoạch và xác định các cân đối, các chính sách phân bổ nguồn lực, vốn cho các chương trình phát triển của khu vực kinh tế Nhà nước và khuyến khích sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Nội dung chủ yếu của việc lập kế hoạch 5 năm bao gồm:
Xác định nhiệm vụ tổng quát và các mục tiêu, chỉ tiêu chủ yếu phát triển kinh tế –xã hội của đất nước trong giai đoạn 5 năm như: Mục tiêu tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, huy động tiết kiệm, các chỉ tiêu về phúc lợi xã hội …
Xác định các chương trình và lĩnh vực phát triển . Các vấn đề được đưa vào chương trình và lĩnh vực phát triển có sự lựa chọn, nó thực sự phải là các vấn đề nổi cộm, trọng yếu cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Các chương trình phát triển chính là cơ sở hoàn thành các nhiệm vụ và mục tiêu phát triển của kỳ kế hoạch 5 năm.
Phần xây dựng các giải pháp lớn của kế hoạch 5 năm sẽ bao gồm 2 nội dung cơ bản: Một là xác định các cân đối vĩ mô chủ yếu: Cân đối vốn đầu tư, cân đỗi xuất nhập khẩu, cán cân thanh toán quốc tế, cân đối sức mua toàn xã hội; xác định các khả năng thu hút vốn cả trong và ngoài nước,đồng thời xác định những quan hệ lớn về phân bổ đầu tư giữa các vùng kinh tế, giữa công nghiệp, nông nghiệp và các lĩnh vực văn hoá, xã hội; xác định các quan hệ cung cầu một số hàng hoá vật tư chủ yếu. Hai là xây dựng, hoàn thiện những vấn đề cơ chế quản lý, các chính sách kinh tế, về hiệu lực bộ máy quản lý và các vấn đề tổ chức thực hiện.
Trong hệ thống kế hoạch hoá kế hoạch 5 năm vừa là sự cụ thể hoá các chiến lược phát triển kinh tế xã hội và quy hoạch phát triển vừa là công cụ định hướng cho các kế hoạch hàng năm. Dựa vào hệ thống chỉ tiêu mục tiêu và các cân đối lớn của kế hoạch 5 năm các kế hoạch hàng năm được xây dựng, từ đó đảm bảo sự thống nhất về mục tiêu của kế hoạch hàng năm với kế hoạch 5 năm và mục tiêu định hướng của quy hoạch phát triển và chiến lược phát triển. Từ đó ta có thể thấy được kế hoạch 5 năm là cầu nối giữa chiến lược phát triển, quy hoạch phát triển với các kế hoạch hàng năm hay là cầu nối biến các mục tiêu mang tính định tính cao thành các công việc cụ thể bằng việc theo đuổi mục tiêu hàng năm mang tính định lượng nhiều hơn.
2.2. Sự cần thiết lựa chọn kế hoạch 5 năm làm kế hoạch trọng tâm trong hệ thống kế hoạch hoá phát triển kinh tế –xã hội.
Nghị quyết Đại hội 9 của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã xác định “xây dựng kế hoạch 5 năm trở thành công cụ chủ yếu của hệ thống kế hoạch hoá phát triển”.
Trong hệ thống kế hoạch hoá phát triển kinh tế xã hội ta thấy kế hoạch 5 năm (kế hoạch trung hạn) là loại hình kế hoạch có khoảng thời gian nằm giữa kế hoạch dài hạn (chiến lược phát triển, quy hoạch phát triển ) và kế hoạch ngắn hạn(kế hoạch hàng năm). Do vậy khi xét về mặt thời gian thì điều đâu tiên ta thấy kế hoạch 5 năm đã đảm bảo mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Do khoảng thời gian 5 năm vừa đúng bằng một nhiệm kỳ làm việc của cơ quan chính phủ, là thời hạn mà theo đó lợi tức đầu tư bắt đầu có sau 1 năm hoặc một vài năm, do vậy tạo thuận lợi cho việc tập trung quan điểm lãnh đạo, thuận lợi cho việc đổi mới và hoàn thiện việc thực hiện các kế hoạch phát triển mới. Khi một nhiệm kỳ làm việc của chính phủ kết thúc cũng là lúc một kế hoạch 5 năm kết thúc, do vậy trong quá trình thực hiện kế hoạch phát triển nếu còn tồn tại những hạn chế hay không đạt được những mục tiêu đã đề ra, việc quy kết trách nhiệm sẽ dễ dàng hơn. Từ đó buộc mỗi cá nhân có trách nhiệm thực hiện mục tiêu chung một cách tốt nhất, không để xảy ra tình trạng thiếu tinh thần trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao rồi bắt người đi sau (nhiệm kỳ sau) phải giải quyết hậu quả do chính mình gây ra.
Kế hoạch 5 năm là khoảng thời gian đủ ngắn để đảm bảo tính chính xác của các mục tiêu đề ra. Do sự biến động không ngừng của nền kinh tế, sự phát triển mạnh mẽ không ngừng của nền sản xuất xã hội cũng như việc hiện đại hoá các công cụ dự báo…dẫn đển rủi ro cao đối với các chỉ tiêu của các kế hoạch dài hạn.
Đối với kế hoạch 1 năm thì khoảng thời gian 1 năm không đủ để đánh giá những phát sinh của chương trình dự án. Những chương trình dự án khi hoàn thành đôi khi chưa bộc lộ hiệu quả hay những phát sinh ngay mà phải trải qua một thời gian đi vào sử dụng do vậy trong vòng một năm không thể nhận biết được điều đó. Trong khi đó kế hoạch 5 năm đủ dài để đánh giá các chính sách giải pháp, chương trình dự án…và tiến hành sử lý những phát sinh.
Trong quá trình lập kế hoạch thì công việc thu thập, sử lý thông tin đòi hỏi một thời gian khá dài do vậy kế hoạch hàng năm sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong vấn đề đó bởi vì quá trình thu thập, sử lý thông tin sẽ làm ảnh hưởng tới tiến độ thực hiện các hoạt động của kế hoạch đề ra.
Khi nghiên cứu vai trò của kế hoạch 5 năm dưới góc độ nội dung ta thấy: Trước hết nội dung của kế hoạch 5 năm là sự cụ thể hoá các mục tiêu định hướng, các “ tầm nhìn” của các chiến lược phát triển kinh tế xã hội nội dung được đề cập trong kế hoạch 5 năm là các vấn đề được lựa chọn, nó thực sự là các vấn đề nổi cộm, trọng yếu cho sự phát triển bền vững cho sự phát triển của nền kinh tế. Trong hệ thống chỉ tiêu của mình kế hoạch 5 năm xác định rõ các cân đối vĩ mô chủ yếu: Cân đối vốn đầu tư, cân đỗi xuất nhập khẩu, cán cân thanh toán quốc tế, cân đối sức mua toàn xã hội; xác định các khả năng thu hút vốn cả trong và ngoài nước, đồng thời xác định những quan hệ lớn về phân bổ đầu tư giữa các vùng kinh tế, giữa công nghiệp, nông nghiệp và các lĩnh vực văn hoá, xã hội; xác định các quan hệ cung cầu một số hàng hoá vật tư chủ yếu. Ngoài ra kế hoạch 5 năm còn xây dựng, hoàn thiện những vấn đề cơ chế quản lý, các chính sách kinh tế, về hiệu lực bộ máy quản lý và các vấn đề tổ chức thực hiện.
Do vậy khi hệ thống chỉ tiêu và các giải pháp của kế hoạch 5 năm được đảm bảo thì việc xây dựng các kế hoạch hàng năm trở lên dễ dàng hơn và mục tiêu của các cấp kế hoạch sẽ luôn được thống nhất.
Tóm lại vai trò của kế hoạch 5 năm là rất quan trọng và việc đưa kế hoạch 5 năm trở thành trọng tâm chủ yếu trong hệ thống kế hoạch hoá phát triển là hoàn toàn đúng đúng đắn.
II. Những vấn đề về xây dựng và quản lý kế hoạch 5 năm
Nội dung các bộ phận cấu thành kế hoạch 5 năm.
Nội dung của một kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế xã hội bao gồm :
Đánh giá thực trạng.
Đánh giá thực trạng ở đây bao gồm: Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch 5 năm của thời kỳ trước, mức độ hoàn thành các chỉ tiêu đã đề ra của kế hoạch từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho kỳ kế hoạch 5 năm sắp tới; Đánh giá tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, cơ sở hạ tầng… trong nước và ngoài nước cùng các nhân tố ảnh hưởng khác; Đánh giá các nguồn lực làm cơ sở cho quá trình phát triển tiếp theo.
Đưa ra các đự báo phát triển.
Bằng các công cụ và phương pháp dự báo, các nhà dự báo đưa ra những dự báo phát triển kinh tế xã hội. Ví dụ như dự báo về khả năng vốn đầu tư; dự báo về khả năng ngân sách; khả năng nguồn lao động…
1.3 Xác định các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội.
Dựa vào các chiến lược phát triển kinh tế xã hội, các quy hoạch phát triển mà nó đang phục vụ hệ thống quan điểm mục tiêu của kế hoạch 5 năm được xây dựng.
Hệ thống quan điểm mục tiêu của kế hoạch 5 năm có chức năng cụ thể hoá các mục tiêu định hướng của chiến lược phát triển kinh tế xã hội, không được xa rời mục tiêu chính của chiến lược đã đề ra.
1.4 Xây dưng hệ thống chỉ tiêu kế hoạch 5 năm.
Hệ thống chi tiêu trong kế hoạch phát triển được hiểu là thước đo cụ thể nhiệm vụ cần đạt được trong thời kỳ kế hoạch. Các thước đo này thể hiện cả về số lượng và chất lượng. Nó cho phép xác định nội dung cơ bản của quá trình phát triển kinh tế, các bộ phận cấu thành cụ thể của nó và được Nhà nước sử dụng dể thực hiện quá trình điều tiết nền kinh tế.
Hệ thống chỉ tiêu của kế hoạch 5 năm chủ yếu mang tính định hướng phát triển như: tốc độ tăng trưởng kỳ kế hoạch, tỉ trong công nghiệp nông nghiệp và dịch vụ trong GDP; tỷ trọng lao động xã hội làm việc trong các ngành nói trên; thu nhập bình quân đầu người; tốc độ tăng trưởng năng suất lao động; kim ngạch xuất khẩu v..v..
1.5 Xây dựng các cân đối vĩ mô chủ yếu trong nền kinh tế.
Đây cũng là một nội dung quan trọng của công tác kế hoạch hoá. Kế hoạch 5 năm xây dưng và bảo đảm một số cân đối lớn:
Cân đối vốn đầu tư phát triển.
Cân đối thanh toán quốc tế.
Cân đối ngân sách Nhà nước.
Cân đối lao động-việc làm.
Cân đối tích luỹ-tiêu dùng.
Cân đối cung- cầu một số vật tư hàng hoá chủ yếu.
1.6 Xác định các chương trình phát triển kinh tế xã hội chủ yếu.
Các kế hoạch 5 năm có thể được triển khai bằng các kế hoạch hàng năm, các chương trình phát triển kinh tế. Do vậy trong nội dung của kế hoạch 5 năm cần xác định những bộ phận triển khai chủ yếu.
1.7. Xác định các chính sách, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch.
Đây là một phần rất quan trọng của bản kế hoạch, nếu không đề ra các chính sách, giải pháp thì tất cả các công đoạn ở trên không có tác dụng. Các giải pháp chỉ ra cách thức hoạt động nhằm thực hiện các mục tiêu đã đề ra.
Hệ thống chỉ tiêu kế hoạch 5 năm.
Một nội dung quan trọng không thể thiếu của kế hoạch nói chung và kế hoạch 5 năm nói riêng đó là xây dựng hệ thống chỉ tiêu. Hệ thống chi tiêu trong kế hoạch phát triển được hiểu là thước đo cụ thể nhiệm vụ cần đạt được trong thời kỳ kế hoạch. Các thước đo này thể hiện cả về số lượng và chất lượng. Nó cho phép xác định nội dung cơ bản của quá trình phát triển kinh tế, các bộ phận cấu thành cụ thể của nó và được Nhà nước sử dụng dể thực hiện quá trình điều tiết nền kinh tế. Có nhiều cách phân loại hệ thống chỉ tiêu kế hoạch:
- Đứng trên góc độ phạm vi tính toán, hệ thống chỉ tiêu bao gồm các chỉ tiêu kế hoạch quốc gia như: Chỉ tiêu phản ánh chương trình phát triển kinh tế đất nước, các dự báo kinh tế-xã hội, các chỉ tiêu của hệ thốngài khoản quốc gia, nguồn ngân sách Chính phủ và tài chính Nhà nước. Các chỉ tiêu kế hoạch của tỉnh, thành phố bao gồm các chỉ tiêu phản ánh chương trình phát triển của các vùng và ngân sách địa phương. Hệ thống các chỉ tiêu phát triển của từng ngành, nội bộ ngành như công nghiệp, nông nghiệp và phát triển nông thôn, giao thông, bưu chính viễn thông…
- Đứng trên góc độ nội dung, hệ thống chỉ tiêu được chia thành các chỉ tiêu phát triển kinh tế và các chỉ tiêu phát triển xã hội. Các chỉ tiêu phát triển kinh tế đặt ra nhiệm vụ về tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và những cân đối nguồn lực chủ yếu. Ví đụ trong kế hoạch 5 năm 2001-2005 của nước ta chỉ tiêu kinh tế bao gồm một số chỉ tiêu như: Đưa GDP năm 2005 bằng 2 lần GDP năm 2001.