Đề tài Tìm hiểu nhu cầu tôn giáo tín ngưỡng của các tầng lớp nhân dân

Đa số con người từ khi biết tổ chức thành xã hội đã có nhu cầu tôn giáo. Trong xã hội nguyên thuỷ, con người bất lực trước sức mạnh tự nhiên, sợ hãi trước bệnh tật và cái chết, bắt gặp quá nhiều hiện tượng không thể giải thích được như sấm chớp, mây mưa. Họ chỉ biết đặt niềm tin vào các hình thức tôn giáo như Totem giáo và ma thuật. Họ cầu cứu các vị thần linh trợ giúp để họ có thể vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống và đánh bại mọi kẻ thù. Sang xã hội có giai cấp, ngoài sự bất lực trước các hiện tượng tự nhiên, quần chúng lao động còn bất lực trước sự áp bức, bóc lột giai cấp. Con người không thể tìm được lối thoát trong xã hội thực tại mà phải tìm lối thoát trên thiên đường ở thế giới bên kia. Theo thống kê, hiện nay trên thế giới, số người có nhu cầu tôn giáo chiếm tới 5/6 số dân. Nhu cầu tôn giáo không phải ngẫu nhiên mà có, nó do những điều kiện tự nhiên và xã hội tạo nên, thay đổi theo diễn biến của xã hội. Nhu cầu đó vừa mang tính cộng đồng, vừa mang tính cá nhân. Nó xuất phát từ sự mong muốn dựa vào sức mạnh thần bí siêu nhiên để hỗ trợ cho bản thân vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Nhu cầu có sự khác nhau giữa các khu vực, các dân tộc. Trong một cộng đồng lại có những biểu hiện khác nhau giữa các giai tầng xã hội, các nhóm xã hội, nghề nghiệp, lứa tuổi, giới tính, trình độ học vấn. Trong các xã hội khác nhau, từng người có khi rơi vào những sự việc và quan hệ độc lập với ý muốn, nhiều khi vô thức. Chính trong mối quan hệ xã hội phức tạp đó nảy sinh những may rủi, số phận khác nhau, những bất lực, sợ hãi không giải thích được. Từ đó con người có những khao khát, hoài bão về cuộc sống sau khi chết. Nếu những cá nhân đã thế thì đối với mỗi tộc người, mỗi quốc gia cũng vậy, nhiều khi roơi vào những tình huống khác nhau tưởng như ngẫu nhiên, do số phận, do Chúa an bài. Vì vậy nhu cầu tôn giáo rất đa dạng đối với những cá nhân trong một cộng đồng, giữa những cộng đồng trong cùng một giai đoạn lịch sử. Ngày nay con người có một cuộc sống tốt hơn, được trang bị vốn kiến thức và hiểu biêt sâu rộng hơn, xã hội cũng có rất nhiều thay đổi, nhưng nhu cầu tôn giáo không vì thế mà mất đi. Trái lại, trong thời gian gần đây, nhiều hiện tượng tôn giáo mới đã xuất hiện, bên cạnh đó là sự phục hưng của các hiện tượng tôn giáo tín ngưỡng truyền thống. Với mong muốn hiểu rõ hơn hiện tượng này tôi đã chọn đề tài “Tìm hiểu nhu cầu tôn giáo tín ngưỡng của các tầng lớp nhân dân”. Các số liệu trình bày trong bài viết là do Viện nghiên cứu tôn giáo cung cấp.

doc21 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1800 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu nhu cầu tôn giáo tín ngưỡng của các tầng lớp nhân dân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tìm hiểu nhu cầu tôn giáo tín ngưỡng của các tầng lớp nhân dân LỜI MỞ ĐẦU Đa số con người từ khi biết tổ chức thành xã hội đã có nhu cầu tôn giáo. Trong xã hội nguyên thuỷ, con người bất lực trước sức mạnh tự nhiên, sợ hãi trước bệnh tật và cái chết, bắt gặp quá nhiều hiện tượng không thể giải thích được như sấm chớp, mây mưa... Họ chỉ biết đặt niềm tin vào các hình thức tôn giáo như Totem giáo và ma thuật. Họ cầu cứu các vị thần linh trợ giúp để họ có thể vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống và đánh bại mọi kẻ thù. Sang xã hội có giai cấp, ngoài sự bất lực trước các hiện tượng tự nhiên, quần chúng lao động còn bất lực trước sự áp bức, bóc lột giai cấp. Con người không thể tìm được lối thoát trong xã hội thực tại mà phải tìm lối thoát trên thiên đường ở thế giới bên kia. Theo thống kê, hiện nay trên thế giới, số người có nhu cầu tôn giáo chiếm tới 5/6 số dân. Nhu cầu tôn giáo không phải ngẫu nhiên mà có, nó do những điều kiện tự nhiên và xã hội tạo nên, thay đổi theo diễn biến của xã hội. Nhu cầu đó vừa mang tính cộng đồng, vừa mang tính cá nhân. Nó xuất phát từ sự mong muốn dựa vào sức mạnh thần bí siêu nhiên để hỗ trợ cho bản thân vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Nhu cầu có sự khác nhau giữa các khu vực, các dân tộc. Trong một cộng đồng lại có những biểu hiện khác nhau giữa các giai tầng xã hội, các nhóm xã hội, nghề nghiệp, lứa tuổi, giới tính, trình độ học vấn... Trong các xã hội khác nhau, từng người có khi rơi vào những sự việc và quan hệ độc lập với ý muốn, nhiều khi vô thức. Chính trong mối quan hệ xã hội phức tạp đó nảy sinh những may rủi, số phận khác nhau, những bất lực, sợ hãi không giải thích được. Từ đó con người có những khao khát, hoài bão về cuộc sống sau khi chết. Nếu những cá nhân đã thế thì đối với mỗi tộc người, mỗi quốc gia cũng vậy, nhiều khi roơi vào những tình huống khác nhau tưởng như ngẫu nhiên, do số phận, do Chúa an bài. Vì vậy nhu cầu tôn giáo rất đa dạng đối với những cá nhân trong một cộng đồng, giữa những cộng đồng trong cùng một giai đoạn lịch sử. Ngày nay con người có một cuộc sống tốt hơn, được trang bị vốn kiến thức và hiểu biêt sâu rộng hơn, xã hội cũng có rất nhiều thay đổi, nhưng nhu cầu tôn giáo không vì thế mà mất đi. Trái lại, trong thời gian gần đây, nhiều hiện tượng tôn giáo mới đã xuất hiện, bên cạnh đó là sự phục hưng của các hiện tượng tôn giáo tín ngưỡng truyền thống. Với mong muốn hiểu rõ hơn hiện tượng này tôi đã chọn đề tài “Tìm hiểu nhu cầu tôn giáo tín ngưỡng của các tầng lớp nhân dân”. Các số liệu trình bày trong bài viết là do Viện nghiên cứu tôn giáo cung cấp. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 1. Thao tác hoá một số khái niệm Khái niệm nhu cầu: Theo từ điển Tiếng Việt, nhu cầu là cái cần dùng bắt buộc. Dưới góc độ xã hội học, nhu cầu là trạng thái tâm lý bên trong, mà tình trạng bên trong này làm cho những kết cục nào đó thể hiện là hấp dẫn. Nhu cầu chưa được thoả mãn tạo nên sự căng thẳng, áp lực cá nhân. Những áp lực này tạo ra việc tìm kiếm những hành vi để tìm đến mục tiêu cụ thể mà nếu đạt được các mục tiêu cụ thể này thì sẽ giảm bớt căng thẳng. Nhu cầu là cái bên trong, trạng thái tâm lý đòi hỏi và muốn được thoả mãn về một cái gì đó được biểu hiện ra bên ngoài bằng hành vi tìm đến mục tiêu cụ thể. Tuỳ từng hoàn cảnh lịch sử mà có nhu cầu khác nhau, từng tầng lớp cũng có nhu cầu khác nhau, nhưng nhìn chung cơ bản nhu cầu ở mỗi người đều có là: nhu cầu vật chất, nhu cầu tinh thần, nhu cầu giải trí. Khái niệm nhân dân: Theo Đại từ điển tiếng Việt: Nhân dân là bộ phận đông đảo gồm những người thuộc nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, chủ yếu là những người lao động, phân biệt với bộ phận khác là giai cấp và tầng lớp thống trị xã hội. Khái niệm tôn giáo: Theo Đại từ điển tiếng Việt: Tôn giáo là hình thái ý thức xã hội hình thành nhờ vào lòng tin và sự sùng bái thượng đế, thần linh. Theo Đặng Nghiêm Vạn (Tình hình tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam): Tôn giáo là niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên, vô hình, mang tính thiêng liêng, được chấp nhận một cách trực giác và tác động qua lại một cách siêu thực (hay hư ảo), nhằm lý giải những vấn đề trên trần thế, cũng như ở thế giới bên kia. Niềm tin đó được biểu hiện rất đa dạng, tuỳ thuộc vào những thời kì lịch sử, hoàn cảnh địc lý, văn hoá khác nhau, phụ thuộc vào nội dung từng tôn giáo, được vận hành bằng những nghi lễ, những hành vi tôn giáo khác nhau của từng cộng đồng và xã hội tôn giáo khác nhau. Khái niệm tín ngưỡng: Theo Đại từ điển tiếng Việt: Tín ngưỡng là lòng tin và sự tôn thờ một tôn giáo. 2. Nội dung bài viết Theo số liệu được biết, hiện nay nước ta có khoảng 20 triệu tín đồ các tôn giáo chính. Nếu quan niệm tôn giáo như định nghĩa ở trên, bao gồm cả tôn giáo dân tộc như đạo thờ tổ tiên... thì gần như tất cả người dân đều theo chí ít một tôn giáo. Với câu hỏi: Ông bà (anh chị) có nhu cầu tôn giáo tín ngưỡng hay không chúng ta thu được kết quả như sau: Đối với người được hỏi theo đạo Kitô và Cao Đài:  Có  Không  Lưỡng lự    Nam  Nữ  Nam  Nữ  Nam  Nữ   Hà Nội  100  98,8  0  1,2  0  0   TP HCM  94,25  90,45  5,7  9,5  0  0   Huế  100  100  0  0  0  0   Tây Ninh  100  98  0  2  0  0   Đối với người được hỏi không theo đạo Kitô và Cao Đài  Có  Không  Lưỡng lự    Nam  Nữ  Nam  Nữ  Nam  Nữ   Hà Nội  42,3  51,5  20,9  15,4  36,8  33,1   TP HCM  58,5  64,5  41,5  35,5  0  0   Huế  83,6  83,2  16,4  16,8  0  0   Như vậy, chúng ta có thể thấy đại đa số người dân được hỏi ở ba thành phố lớn và tỉnh Tây Ninh đều có nhu cầu tôn giáo, nhưng mức độ khác nhau tuỳ thuộc vào các yếu tố như khu vực, giới tính, phụ thuộc vào việc họ có phải là người theo đạo hay không... Người dân cố đô có nhu cầu nhiều hơn cả. Ngay những người dân thường không theo đạo nhưng nhu cầu tôn giáo của họ vẫn lên tới hơn 83%, và sự chênh lệch về giới là không đáng kể. Lẽ dĩ nhiên những người theo đạo thì nhu cầu tôn giáo tín ngưỡng của họ rất lớn, chiếm gần 100%. Những bên cạnh đó ta thấy một số rất nhỏ trong số họ không có nhu này. Có thể lý giải rằng đó là những người sinh ra trong những gia đình theo đạo, và từ nhỏ, khi chưa có ý thức thì họ cũng đã quen thuộc với những sinh hoạt của người xứ đạo. Và như vậy họ cũng theo đạo như một lẽ tự nhiên, trong khi bản thân không có nhu cầu. Đối với người dân thường ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, nhu cầu tôn giáo tín ngưỡng lớn hơn khá rõ rệt ở phụ nữ. Người phụ nữ thường hay lo xa, cộng thêm tâm lý “có kiêng có lành”, do vậy họ thường tìm đến với các đấng siêu nhiên mong phù hộ độ trì cho mọi người trong gia đình tai qua nạn khỏi, có sức khoẻ, gặp nhiều may mắn... Ở Việt Nam nói riêng và các nước phương Đông nói chung, người dân thường tham gia nhiều hành vi tôn giáo tín ngưỡng và ma thuật khác nhau.  Bộ phận công giáo  Bộ phận không công giáo     Trí thức  Bình dân   Hà Nội  2,26  1,88  2,00   TP HCM  2,92  2,39  2,72   Huế  2,89  2,56  2,70   Các hành vi tôn giáo tín ngưỡng và ma thuật ở đây có thể là: Đi lễ nhà thờ, đền, chùa..., bói toán, xem tử vi, ngoại cảm, thờ cúng ông bà...Số lượng hành vi tôn giáo tín ngưỡng trung bình mỗi người tham gia là 2 cho đến gần 3. Người dân Hà Nội tham gia ít hành vi tôn giáo tín ngưỡng hơn, vì người Hà Nội không lưu truyền nhiều phong tục như người Huế, và cũng không tiếp thu nhiều loại tôn giáo như người miền Nam. Huế là đất cố đô nên các tôn giáo tín ngưỡng của dân tộc, ví dụ như đạo thờ cúng được thực hiện phức tạp hơn, qua nhiều bước hơn. Vẫn là đạo thờ tổ tiên đó, nhưng khi ra tới ngoài bắc hay vào trong nam thì nó đã được giản lược đi rất nhiều. Còn mảnh đất phía Nam, do không có bề dày lịch sử, truyền thống nên dễ dàng tiếp thu văn hoá cũng như tôn giáo mới. Đây là khu vực có nhiều loại hình tôn giáo tồn tại, theo đó mà người dân tham gia vào nhiều loại hình hành vi tôn giáo tín ngưỡng khác nhau. Tầng lớp trí thức không công giáo tham gia những hành vi tôn giáo tín ngưỡng ít nhất. Đó là điều dễ hiểu, vì thông thường, học vấn càng cao thì người ta càng ít gặp những điều bất ổn, rủi ro trong cuộc sống, và họ càng ít phải viện đến những đấng siêu nhiên, thần thánh. Tầng lớp bình dân do học thức kém, kéo theo đó là việc làm và thu nhập không ổn định, họ lúc nào cũng nơm nớp lo sợ rủi ro ập đến như mất việc, thiếu tiền, bệnh tật. Cuộc sống bấp bênh khiến họ chỉ còn biêt trông chờ vào sự may rủi của số phận. Họ đi cầu, khấn, xem bói toán... mong muốn sẽ có một cuộc sống suôn sẻ hơn và tránh được tai họa. Khi bản thân không thể làm gì hơn thì buộc họ phải trông chờ vào đấng cứu thế ở trên trời, mong rằng lòng thành của mình sẽ có ngày được đền đáp. Việc tham gia vào nhiều hành vi tôn giáo tín ngưỡng khác nhau đã bộc lộ tính phiếm thần của người dân Việt Nam. Đặc biệt, bộ phận Công giáo cũng tham gia các hành vi tôn giáo khác như thờ cúng tổ tiên. Xem xét nhu cầu tôn giáo tín ngưỡng trong 13 nhu cầu thiết thân của một con người ( công bằng xã hội, luật pháp, gia đình, đất nước, việc làm, học vấn tay nghề, dân chủ, bạn bè tin cậy, tình yêu, tiền bạc, kinh tế thị trường, văn nghệ thể thao ) thu được kết quả: Khu vực  Trí thức không Kitô giáo  Quần chúng không Kitô giáo  Không Kitô giáo nói chung    Số TT ưu tiên  %  Số TT ưu tiên  %  Số TT ưu tiên  %   Hà Nội  13  22,0  13  20,7  13  19,75   TPHCM  13  20,9  13  25,2  13  23,45   Huế  13  18,40  11  42,60  12  38,37   Như vậy, chỉ có một số lượng ít những người không theo đạo coi tôn giáo là nhu cầu thiết thân. Tôn giáo tín ngưỡng là một phần trong cuộc sống của họ, góp phần làm phong phú thêm đời sống văn hoá tinh thần, nhưng nếu xếp trong thứ thự ưu tiên thì nó chỉ được đứng thứ 13 (đối với người dân Hà Nội và TP Hồ Chí Minh) và cao hơn một chút, đứng thứ 12 (đối với người Huế). Họ tham gia vào các hành vi tôn giáo tín ngưỡng gần như một thói quen, ít hiểu giáo lý, thấy nhu cầu tôn giáo là cần, nhưng lại ít coi trọng nó. Họ còn phải dành sự ưu tiên cho các nhu cầu khác quan trọng hơn, như học vấn tay nghề, công bằng xã hội, gia đình... Những yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của họ. Đây chỉ là những con người rất đời thường, họ không thể sống được nếu không có việc làm ổn định, không thể hạnh phúc nếu không có gia đình... nhưng họ có thể sống nếu không có tôn giáo tín ngưỡng. Chúng ta phải nhấn mạnh rằng, đối với những người đó, tôn giáo tín ngưỡng chỉ là một trong những yếu tố góp phần làm phong phú thêm đời sống tinh thần của họ mà thôi. Điều đó giống như tình hình ở châu Âu, nơi mà đạo Kitô dược coi là truyền thống nhưng nay đang trong tình trạng giải Kitô hoá, theo hai cuộc điều tra ở 6 nước châu Âu cách nhau 10 năm, kết quả dường như giống nhau. Số người tuyên bố theo đạo Kitô (Công giáo hay Tin Lành) đều từ 82% đến 97% trở lên, nhưng nếu coi là gắn bó, thiết thân thì cũng lại xếp nhu cầu tôn giáo tín ngưỡng xuống hàng thứ 14 tức hàng cuối cùng so với các nhu cầu khác (riêng ở Anh là thứ 12, ý và Tây Ban Nha là thứ 13). Nhưng ở Việt Nam thì có sự khác biệt rõ rệt giữa những người không theo đạo và những người theo đạo. Những người theo Kitô giáo và đạo Cao Đài thực sự coi tôn giáo là nhu cầu thiết thân. Họ dành cho nó vị trí số 1 (Huế và Tây Ninh) hoặc vị trí số 2 (Hà Nội và TP Hồ Chí Minh). Con số những người coi tôn giáo tín ngưỡng là nhu cầu thiết thân chiếm từ 70% đến hơn 90%. Hà Nội  TP HCM  Huế  Tây Ninh   Kitô giáo nói chung  Kitô giáo nói chung  Kitô giáo nói chung  Cao Đài   Số TT ưu tiên  %  Số TT ưu tiên  %  Số TT ưu tiên  %  Số TT ưu tiên  %   2  84,6  2  69,8  1  92,6  1  86,5   Qua hai bảng trên ta thấy một kết quả khá thống nhất là bộ phận Công giáo và đạo Cao Đài được hỏi coi trọng nhu cầu tôn giáo hơn bộ phận không công giáo bởi lẽ ở bộ phận thứ hai này tâm linh tôn giáo bàng bạc hơn. Đối với họ, tôn giáo là cần thiết nhưng vẫn kém hơn các nhu cầu khác. Để xem xét cụ thể nhu cầu tôn giáo, chúng ta cần đi sâu phân tích những hoạt động cũng như những quan niệm của tín đồ. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu 3 khía cạnh: Đức tin và hành vi cụ thể mang tính chất thuần tuý tôn giáo, đạo thờ cúng tổ tiên, những hành vi tôn giáo tín ngưỡng truyền thống và mới nảy sinh. Đức tin và hành vi cụ thể mang tính chất thuần tuý tôn giáo Qua câu hỏi có tin vào sự hiện diện của đức Phật, Chúa Giêsu và các thánh thần khác không, ta thu được kết quả: Bảng: Mức độ tin vào sự hiện diện của đức Phật, Chúa, Thánh thần   Tin  Ngờ vực  Không tin   Kitô giáo  Hà Nội  98,5%  1,5%  0    TP HCM  94,4%  0  5,6%    Huế  100%  0  0   Không Kitô giáo  Hà Nội  5,8%  32,7%  61,5%    TP HCM  28,7%  12,5%  58,5%    Huế  45,9%  12,9%  41,1%    Tây Ninh  78,7%  18,2%  2%   Đối với những người được hỏi theo đạo Công giáo thì đa số họ tin vào sự hiện diện của Chúa. Đặc biệt ở Huế, số người tin vào điều này chiếm tới 100%. Chỉ có 1,5% số người được hỏi ở Hà Nội còn ngờ vực và 5,6% ở thành phố Hồ Chí Minh là khẳng định không tin. Trái lại, những người không theo đạo ít tin vào điều này. Đặc biệt ở Hà Nội, có tới 61,5% số người được hỏi không tin rằng có sự hiện diện của Chúa, Đức Phật hay các Thánh thần. Những người theo đạo thì đại đa số tin vào sự xuất hiện của các thánh thần, Chúa, đức Phật... Còn đối với những người không theo đạo, niềm tin đó bị chi phối bởi nhiều yếu tố như tuổi tác, nghề nghiệp, giới tính...Thông thường, những người có học thức cao, những người thuộc tầng lớp trí thức ít tin vào điều này hơn. Ngoài ra, phụ nữ tin nhiều hơn nam giới, người cao tuổi tin nhiều hơn thanh niên. Bảng: Mức độ thường xuyên đi lễ nhà thờ, chùa, đền, miếu   Thường xuyên  Thỉnh thoảng  Không đi   Không Kitô giáo  Hà Nội  55,4  1,2  43,4    TP HCM  54,2%  0  45,8    Huế  60,4%  13,3%  26,3%   Kitô giáo  Hà Nội  99,5  0  0,5    TP HCM  93,8  0  6,2    Huế  100  0  0   Qua câu hỏi có đi lễ nhà thờ, chùa, đền, miếu... không, ta thấy cũng có sự khác biệt giữa các tầng lớp nhân dân.Những người dân không theo đạo lẽ dĩ nhiên họ không thường xuyên đi lễ, thông thường họ chỉ đi vào những dịp đặc biệt như ngày rằm mồng một, ngày hội, Giáng sinh... Nhưng họ đi cũng không hẳn vì lý do tôn giáo. Như chúng ta dã biết, đền chùa, miếu, nhà thờ thường là những nơi có phong cảnh đẹp, là những di tích lịch sử nổi tiếng, vì vậy nó còn là địa điểm tham quan du lịch, là niềm tự hào của các địa phương. Ví dụ như Huế là nơi có rất nhiều di tích lịch sử nổi tiếng, gắn với các vương triều xưa, trong dó có rất nhiều đền chùa. Vì vậy có thể hiểu được vì sao người Huế tỉ lệ trả lời có đi lễ cao hơn những khu vực khác (60,4% thường xuyên đi lễ và 13,3% thỉnh thoảng có đi), trong khi đó ở Hà nội và thành phố Hồ Chí Minh con số này chỉ có hơn 50%. Với câu hỏi có thường xuyên đi lễ nhà thờ không, chúng ta thấy tỉ lệ trả lời thường xuyên là rất cao đối với những người theo đạo Công giáo. 100% người Huế thường xuyên đi lễ nhà thờ. Tỉ lệ này thấp hơn một chút ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Đặc biệt ở thành phố Hồ Chí Minh có tới 6,2% người dân theo đạo công giáo nhưng lại không bao giờ đi lễ nhà thờ. Đây là một thành phố lớn phát triển bậc nhất của cả nước, có lẽ họ cũng bị cuốn theo nhịp điệu gấp gáp của thành phố mà không còn chút thời gian nào ngoài công việc nữa chăng? Nếu đi sâu thêm, chúng ta thử xét việc thực hành nghi lễ của giáo dân. Các nghi lễ cơ bản bao gồm: tham dự Thánh lễ, chịu phép Thánh lễ và xưng tội. Tham dự Thánh lễ tức là tham gia các buổi lễ ngày chủ nhật hay lễ trọng, đồng thời phải đọc Kinh sớm tối. Chịu phép Thánh thể là những người phải tham dự Thánh lễ nhưng phải sạch tội, không lỗi đạo, hay mắc tội trọng mà chưa được giải tội. Xưng tội là khi có lỗi lầm nhưng đã ăn năn, nói lên tội lỗi của mình để linh mục giải tội. Lễ xưng tội được coi là một trong những hành vi quan trọng nhất của tín đồ Kitô giáo. Nhưng ngày nay nó không còn phổ biến ở các nước châu Âu. Mặc dù vậy, ở Việt Nam, tỉ lệ những người theo đạo thường xuyên xưng tội trước Chúa vẫn chiếm tỉ lệ cao (86% - 95%). Mặt khác, về việc tham dự thánh lễ và chịu phép thánh lễ thì chỉ được hơn một nửa số giáo dân ở Hà Nội thực hiện thường xuyên, Trong khi đó, đại đa số giáo dân ở thành phố Hồ Chí Minh thực hiện thường xuyên cả 3 nghi lễ trên. Bảng: Mức độ thường xuyên thực hiện các nghi lễ Mức độ Nội dung  Thường xuyên  Không thường xuyên  Không tham gia    Hà Nội  TP HCM  Hà Nội  TP HCM  Hà Nội  TP HCM   Tham dự Thánh lễ  56,4%  96,32%  37,4%  2,2%  6,2%  1,5%   Chịu phép Thánh lễ  56,4%  90,4%  32,5%  6%  11.1%  3,6%   Xưng tội  85,8%  94,9  3,8%  0  10,6%  5,1%   Đối với câu hỏi có tin vào cuộc sống sau khi chết không, tỉ lệ trả lời như sau: Bảng: Mức độ tin vào cuộc sống sau khi chết   Tin  Ngờ vực  Không tin   Không Kitô giáo  Hà Nội  8,1%  32,2%  59,7%    TP HCM  24,7%  40%  35,3%    Huế  47%  27,6%  25,4%   Kitô giáo Cao Đài  Hà Nội  96,3%  1,6%  2,1%    TP HCM  81,1%  8.9%  10,1%    Huế  98,5%  1,5%  0    Tây Ninh  81,7%  14%  4,3%   Câu hỏi này bình thường phản ánh tâm linh của nhiều tôn giáo tín ngưỡng. Theo lý thuyết Kitô giáo thì con người sau khi chết cả xác lẫn hồn đều về bên cạnh Chúa, tương tự như vậy, theo giáo lý của đạo Cao Đài, mỗi người có một chân linh, sau khi chết sẽ về cùng Đấng Chí Tôn. Qua câu hỏi này ta thấy sự cạn hiểu về giáo lý vẫn chiếm một phần nhỏ trong các tín đồ. Đặc biêt ở Tây Ninh, có gần 1/5 số lượng tín đồ không chắc chắn về một cuộc sống sau khi chết, tức là đi ngược lại với giáo lý của đạo. Ngoài ra, ta còn nhận thấy tỉ lệ này bị chi phố bởi tuổi tác. ở Tây Ninh, thế hệ trên 55 tuổi có tỉ lệ tin là 91,5%, thế hệ trung niên 78,2%, và thế hệ thanh niên chỉ có70,5% (số liệu điều tra XXH 1993). Chứng tỏ lòng sùng đạo tăng lên theo tuổi tác. Đó là điều dễ hiểu, vì thế hệ trẻ ngày nay học cao hiểu rộng, họ sớm tiếp xúc với cái mới, khoa học kĩ thuật và thông tin, vì vậy họ cũng thận trọng hơn trong mọi điều phán xét. Người dân thường ít tin vào điều này hơn hẳn. Đặc biệt là người Hà Nội, chỉ có 8,1% tin rằng có cuộc sống sau khi chết. Nhưng chúng ta thấy có tới 30% - 40% dân chúng còn ngờ vực. Ngày nay khoa học kĩ thuật đã có những phát triển vượt bậc, dân trí cũng được nâng lên rất nhiều. Nhưng cuộc sống quanh ta vẫn có những hiện tượng không gì lý giải được. Đâu đó vẫn có những chuyện gọi hồn người đã khuất, tìm mộ, hay có những em bé kể lại vanh vách cuộc sống của mình từ kiếp trước. Đây là một trò lừa bịp hay là sự thật, khoa học chưa lý giải được còn người dân thường thì vẫn bán tín bán nghi. Đối với câu hỏi có tin vào sự tồn tại thần thánh, ma quỷ không, chúng ta thu được kết quả trả lời: Bảng: Mức độ tin vào sự tồn tại của thần thánh, ma quỷ   Tin  Ngờ vực  Không tin   Không Kitô giáo  Hà Nội  12%  35,2%  52,8%    TP HCM  30%  17.2%  52,6%    Huế  28%  24,2%  47,8%   Kitô giáo, Cao Đài  Hà Nội  96,8%  2,1%  1,5%    TP HCM  80,3%  0  19,7%    Huế  88,05%  1,7%  10,05%    Tây Ninh  89,2%  5,4%  5,4%   Một điều dễ nhận thấy là những người không theo đạo khó tin vào điều này. Có tới 50% trong số họ khẳng định không tin sự tồn tại của thần thánh ma quỷ. Rõ ràng ma quỷ thì không bao giờ thấy xuất hiện, còn những hiện tượng trước kia hay đổ do ma quỷ gây ra thì ngày nay phần nhiều đã tìm được nguyên nhân. Ví dụ như ngày trước mỗi khi ốm đau người ta thường cúng để xua đuổi ma quỷ, cầu xin thần thánh phù hộ. Nhưng ngày nay, nhất là ở n
Tài liệu liên quan