Thế giới chúng ta đang sống không đứng yên mà luôn luôn vận động theo một quy luật nhất định. Mọi sự vật trong thế giới đó cũng không ngừng hoạt động. Hoạt động có thể là bản năng có thể là được ý thức. Con người nhờ biết làm chủ và hiểu sâu sắc những hoạt động của mình mà đã bứt hẳn khỏi cuộc sống loài vật làm chủ thiên nhiên với sự hoàn thiện về ý thức. Con người hơn hẳn các loài vật khác là biết ý thức về những công việc mình đã, đang và sẽ làm
Lênin khi bàn về vấn đề ý thức đã nói, đại ý: Một con ong thợ khi xây tổ dù khéo léo đến đâu cũng không thể bằng một người thợ tồi nhất, bởi vì nó làm trong vô thức, không biết được hình thù cái tổ của mình sẽ như thế nào khi xây xong. Còn người thợ trước khi xây dựng một công trình nào đó đã hình dung được trong đầu các kế hoạch xây dựng, kiểu cấu trúc cần thiết, dự định sẽ thi công trong thời gian bao nhiêu, từ đó thiết kế mô hình rồi mới bắt tay vào làm việc.
Như vậy có thể thấy được tầm quan trọng của việc vạch ra kế hoạch, xây dựng các phương án cho hoạt động. Khi làm bất kỳ việc gì cũng cần phải có kế hoạch mới đạt được mong muốn. Kế hoạch là gì? “Kế hoạch là toàn bộ nói chung những điều vạch ra một cách có hệ thống những công việc dự định sẽ làm trong một thời gian nhất định, với cách thức, trình tự và thời hạn tiến hành” ( Từ điển tiếng việt).
Trong thực tế ngay chuyện chuẩn bị một bữa ăn gia đình cũng cần phải có kế hoạch sắp xếp các công việc từ khâu đi chợ cần mua những gì khi nấu cần làm những món gì trước, nếu không có sự sắp xếp đó thì công việc tưởng chừng như đơn giản sẽ làm ta lúng túng. Việc xắp xếp kế hoạch đó mặc dù không thành văn bản nhưng nhất thiết phải có. Vì vậy đối với nhà giáo dục nhất thiết phải lập kế hoạch trong công việc của mình, của tập thể thì mới có thể thực hiện tốt nhiệm vụ. Bác Hồ đã từng nói: “ Bất kỳ việc to, việc nhỏ phải có sáng kiến, phải có kế hoạch, phải cẩn thận, phải quyết tâm làm thì mới thành công”
38 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 3882 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu phương pháp soạn một giáo án dạy phần đọc - Hiểu văn bản trong chương trình Ngữ văn trung học cơ sở theo tinh thần đổi mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Lý luận
Thế giới chúng ta đang sống không đứng yên mà luôn luôn vận động theo một quy luật nhất định. Mọi sự vật trong thế giới đó cũng không ngừng hoạt động. Hoạt động có thể là bản năng có thể là được ý thức. Con người nhờ biết làm chủ và hiểu sâu sắc những hoạt động của mình mà đã bứt hẳn khỏi cuộc sống loài vật làm chủ thiên nhiên với sự hoàn thiện về ý thức. Con người hơn hẳn các loài vật khác là biết ý thức về những công việc mình đã, đang và sẽ làm
Lênin khi bàn về vấn đề ý thức đã nói, đại ý: Một con ong thợ khi xây tổ dù khéo léo đến đâu cũng không thể bằng một người thợ tồi nhất, bởi vì nó làm trong vô thức, không biết được hình thù cái tổ của mình sẽ như thế nào khi xây xong. Còn người thợ trước khi xây dựng một công trình nào đó đã hình dung được trong đầu các kế hoạch xây dựng, kiểu cấu trúc cần thiết, dự định sẽ thi công trong thời gian bao nhiêu, từ đó thiết kế mô hình rồi mới bắt tay vào làm việc.
Như vậy có thể thấy được tầm quan trọng của việc vạch ra kế hoạch, xây dựng các phương án cho hoạt động. Khi làm bất kỳ việc gì cũng cần phải có kế hoạch mới đạt được mong muốn. Kế hoạch là gì? “Kế hoạch là toàn bộ nói chung những điều vạch ra một cách có hệ thống những công việc dự định sẽ làm trong một thời gian nhất định, với cách thức, trình tự và thời hạn tiến hành” ( Từ điển tiếng việt).
Trong thực tế ngay chuyện chuẩn bị một bữa ăn gia đình cũng cần phải có kế hoạch sắp xếp các công việc từ khâu đi chợ cần mua những gì khi nấu cần làm những món gì trước, nếu không có sự sắp xếp đó thì công việc tưởng chừng như đơn giản sẽ làm ta lúng túng. Việc xắp xếp kế hoạch đó mặc dù không thành văn bản nhưng nhất thiết phải có. Vì vậy đối với nhà giáo dục nhất thiết phải lập kế hoạch trong công việc của mình, của tập thể thì mới có thể thực hiện tốt nhiệm vụ. Bác Hồ đã từng nói: “ Bất kỳ việc to, việc nhỏ phải có sáng kiến, phải có kế hoạch, phải cẩn thận, phải quyết tâm làm thì mới thành công”
Như vậy Bác đã rất quan tâm đến việc cần phải có một kế hoạch trước khi làm một việc gì đó.Nếu không vạch ra được kế hoạch, phương án thì khi bước vào hoạt động ta cũng chỉ “ giống như những con kiến tha mồi, không biết chế biến, không hiểu gi cả” (Triết học Mac-Lenin, trang 37)
Đối với người giáo viên, một giờ lên lớp bao gồm rất nhiều hoạt động, thao tác đòi hỏi phải xây dựng một kế hoạch, phương án cụ thể tối ưu nhằm giúp cho giờ giảng đạt chất lượng, đó chính là việc thiết kế giáo án.
Trong giờ dạy kể từ khi bắt đầu cho đên khi kết thúc tiết học có rất nhiều các hoạt động nhằm tổ chức, hướng dẫn cho học sinh lĩnh hội tri thức. Người giáo viên cần phải biết sắp xếp các hoạt động sao cho phù hợp với trình độ, khả năng của học sinh giúp các em tự giác tích cực lĩnh hội các tri thức. Việc thiết kế giáo án chính là sự sắp xếp các hoạt động đó.
Ngày nay với sự phát triển của nền khoa học kỹ thuật, sự phát triển mạnh mẽ của các phương tiện thông tin đại chúng làm cho trình độ dân trí ngày càng nâng cao. Học sinh trung học cơ sở là đối tượng vừa bước qua tuổi trẻ con nhưng chưa thành người lớn, mọi cái xung quanh các em còn rất mới mẻ. Chính vì vậy các em luôn mong muốn tìm tòi khám phá những bí ẩn xung quanh mình. Nhờ quá trình tự học như vậy các em đã tích luỹ được rất nhiều kiến thức xã hội. Nắm được đặc điểm này người giáo viên rất cần trau dồi kiến thức chuyên môn nghiệp vụ cũng như các kiến thức xã hội để khi có thể thích hợp thì đưa vào thiết kế bài giảng nhằm giúp các em hiểu sâu hơn bài học.
Có thể thấy tầm quan trọng của việc soạn giáo án trước khi lên lớp. Nếu người giáo viên đã có một kế hoạch, một phương án tốt nghĩa là đã giành được 50% thắng lợi, sẽ vững vàng tự tin hơn khi tổ chức, hướng dẫn cho học sinh lĩnh hội tri thức, hình thành khái niệm.
2. Thực tế.
Trong giảng dạy nói chung ở các trường phổ thông giáo viên khi lên lớp đòi hỏi phải có giáo án. Đó là yêu cầu nhất thiết phải có, bởi vì giáo án giúp cho người giáo viên định hướng được những kiến thức mà cần tổ chức, hướng dẫn cho học sinh lĩnh hội, cần đưa ra những kiến thức nào trước, những kiến thức nào sau, hơn nữa việc soạn giáo án cũng thể hiện trách nhiệm lương tâm của người thầy giáo. Người giáo viên không có giáo án sẽ làm cho việc tiếp thu kiến thức của các em bị xáo trộn, thiếu sự gắn kết, lôgic giữa các khái niệm, nhất là khi ôn thi các em không có được một đề cương chuẩn làm tài liệu ôn.
Cũng như các môn học khác, các môn thuộc khoa học xã hội có khối lượng kiến thức rất nhiều. Việc sắp xếp các kiến thức đó sao cho “vừa sức” với các em là rất cần thiết, cũng như việc tổ chức cho các em có bao nhiêu hoạt động cũng là điều quan trọng. Người giáo viên không thể tay không mà lên lớp được, điều đó thể hiện sự vô trách nhiệm của người thầy hoặc đó là sự quá tự tin vào bản thân mình, sự cẩu thả trong dạy học. Người giáo viên khi lên lớp cần phải có sự chuẩn bị và sự chuẩn bị đó được thể hiện trên giáo án.
Nhưng giờ dạy đạt chất lượng cao hay không cao còn phụ thuộc rất lớn vào việc chuẩn bị giáo án tốt hay không tốt. Chuẩn bị giáo án nhưng giáo án soạn sơ sài, các hoạt động tìm hiểu văn bản còn chưa được tổ chức tốt, không tính đến những tình huống có thể sảy ra cho nên sẽ làm cho giờ dạy tẻ nhạt, học sinh dễ nhàm chán, hiệu qủa giờ dạy giảm sút. Hơn thế nữa sau một tiết học nhìn vào vở học sinh chỉ có một vài đề mục và những gạch đầu dòng không cụ thể, không thấy được những ý cơ bản để học sinh có thể dựa vào đó để học bài cũ.
Trên thực tế có một bộ phận không nhỏ không chú trọng lắm đến việc soạn giáo án. Đối với họ việc soạn giáo án chỉ là cho có lệ khi có sự kiểm tra hoặc có những giáo viên soạn nhưng lại làm một cách sơ lược, đơn giản không chú ý đúng mức đến hoạt động của học sinh. Người ta viện dẫn vào đời sống khó khăn, vào kinh nghiệm để bào chữa cho việc dạy học trên lớp một cách tuỳ tiện không giáo án. Đó là một cách nghĩ sai lầm, thiển cận bởi mỗi năm đối tượng học sinh mỗi khác, trình độ cũng khác nhau theo chiều hướng phát triển đi lên. Bởi vậy phải có sự điều chỉnh, bổ sung cho thật hợp lý, nhất là hiện nay đã có sự thay đổi chương trình và sách giáo khoa bắt đầu từ lớp 6 với những nội dung kiến thức mới mẻ, buộc người giáo viên phải nhìn nhận lại vấn đề, đánh giá tình hình dạy và học để từ đó có sự chuẩn bị phù hợp và tích cực với chương trình.
Việc thay đổi chương trình và sách giáo khoa là do có sự thay đổi trong quan niệm giáo dục: Giáo dục ngày nay không còn bó hẹp trong khuôn khổ nhà trường nữa bởi vì nhà trường là một bộ phận của xã hội, các hoạt động trong nhà trường luôn gắn kết với các hoạt động xã hội, với tiến trình cải cách xã hội. Khi xã hội có sự đổi mới, phát triển bắt buộc nhà trường cũng phải có sự thay đổi cho phù hợp.
Giáo dục hiện đại lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tính tích cực hoạt động nhận thức của học sinh. Dạy học Ngữ văn mục đích là nhằm rèn luyện cho các em có được vốn kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết để các em có thể sử dụng ngôn ngữ như một công cụ hữu ích nhất trong cuộc sống, chứ không phải là dạy để các em trở thành nhà văn. Chính vì vậy sự thay đổi của sách giáo khoa là hoàn toàn phù hợp với xu hướng thời đại. Việc thay đổi chương trình, sách giáo khoa dẫn đến phải có sự thay đổi ở phương pháp dạy học, phương pháp soạn giáo án.
Qua việc tìm hiểu, phân tích lý luận vào thực tế ta có thể thấy được tầm quan trọng của việc soạn giáo án và việc soạn giáo án thực tế hiện nay của giáo viên trung học cơ sở là rất đáng lo ngại, đó là những nguyên nhân chính làm cho học sinh chán học Văn hoặc không có kiến thức văn chương. Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi đã chọn đề tài: “ Tìm hiểu phương pháp soạn một giáo án dạy phần đọc-hiểu văn bản trong chương trình Ngữ văn trung học cơ sở theo tinh thần đổi mới” làm đề tài nghiên cứu.
Trước vấn đề soạn giáo án cần phải có một nhận thức đúng đắn, đầy đủ là người giáo viên nói chung và người giáo viên giảng dạy Văn học nói riêng phải rèn luyện cho mình kỹ năng soạn giáo án cũng như ý thức được trách nhiệm soạn giáo án là cần thiết cho mình cũng như cho học sinh. Soạn giáo án đạt yêu cầu chính là nhằm giúp cho người giáo viên hoàn thành nhiệm vụ của mình trên lớp một cách tốt nhất.
II. ĐỐI TƯỢNG
“Xây dựng phương pháp soạn giáo án cho giờ đọc hiểu văn bản môn Ngữ văn trung học cơ sở theo tinh thần đổi mới, phát huy tính tích cực của học sinh”.
Việc soạn giáo án tuy đều dựa trên một nguyên tắc chung nhưng mỗi giáo viên lại có một phương pháp soạn giáo án riêng tuỳ thuộc vào trình độ, khả năng nhận thức của mỗi người.
Từ việc thay đổi chương trình và sách giáo khoa môn Ngữ văn bắt đầu từ lớp 6 dẫn đến cần có sự thay đổi phương pháp soạn sao cho phù hợp. Tuy nhiên do sự thay đổi vừa mới tiến hành được một thời gian ngắn nên yêu cầu có được một giáo án chuẩn là rất khó. Tìm hiểu phương pháp soạn một số giáo án cho giờ đọc-hiểu văn bản là quá trình nhằm tìm ra phương pháp tối ưu nhất giúp cho người giáo viên trung học cơ sở nhất là những giáo viên trẻ mới ra trường có sự định hướng trong việc soạn giáo án.
III NỘI DUNG NGHIÊN CỨU.
1.Yêu cầu của một giáo án theo tinh thần đổi mới:
a.Giáo án cần đảm bảo các nguyên tắc sau:
*Thể hiện được tính tích hợp của chương trình.
*Phải chú ý đến việc phát huy tính tích cực cao độ của chủ thể học sinh-nhân vật trung tâm trong quá trình dạy học.
b.Giáo án phải thể hiện được đề cương của nội dung bài giảng
c.Giáo án phải thể hiện được việc tổ chức hoạt động của học sinh trong giờ học.
d.Giáo án phải sử dụng dễ dàng khi lên lớp.
e. Giáo án phải mang tính chất mở
2. Các thao tác soạn giáo án phần đọc-hiểu văn bản.
a. Xác định nội dung bài
b. Lập đề cương nội dung
c. Thiết kế hoạt động của trò
e. Thể hiện trên giáo án
3. Xây dựng một số giáo án mẫu
a. Văn bản: “Thánh Gióng”
b. Văn bản: “Đêm nay Bác không ngủ”
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Nghiên cứu lý thuyết.
-Tham khảo các tài liệu
+Tập san Khoa học xã hội-nhân văn và nhà trường
+Đặc san Văn học & Tuổi trẻ
+Triết học Mac-Lenin
+Thiết kế bài giảng Ngữ văn 6
+Tạp chí Giáo dục & Thời đại
2. Thực nghiệm.
-Quá trình kiến tập sư phạm:
-Quá trình thực tập tốt nghiệp
+Dự giờ Ngữ văn của giáo viên Trung học cơ sở Lý Tự Trọng
+Tham khảo giáo án của các giáo viên bộ môn Ngữ văn
3. Xây dựng giáo án mẫu.
V. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
1. Xây dựng các thao tác soạn giáo án
2. Đưa ra cấu trúc giáo án hợp lý
B. NỘI DUNG ĐỀ TÀI
I. YÊU CẦU CỦA MỘT GIÁO ÁN THEO TINH THẦN ĐỔI MỚI.
Trước yêu cầu phát triển mới của sự nghiệp giáo dục và những hạn chế của nội dung chương trình cũng như phương pháp dạy học của cuộc cải cách giáo dục diễn ra vào những năm đầu của thập kỷ 80. Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Bộ giáo dục và đào tạo đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch, nhằm đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp dạy học.
Nghị quyết hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khoá VIII đã chỉ rõ nhiệm vụ quan trọng của ngành giáo dục và đào tạo là: “ Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục-đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thói quen, nền nếp tư duy sáng tạo của người học”.
Cùng với việc đổi mới phương pháp dạy học thì việc thay đổi phương pháp soạn giáo án là một điều cần thiết. Một giáo án theo tinh thần đổi mới là một giáo án đáp ứng được các yêu cầu, nguyên tắc sau:
1. Giáo án cần đảm bảo các nguyên tắc:
a. Thể hiện được tính tích hợp của chương trình
Dạy học theo hướng tích hợp là một xu thế phổ biến trong dạy học hiện đại của tất cả các nước phát triển nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa yêu cầu về học vấn phổ thông, khả năng tiếp thu và khối lượng tri thức khổng lồ của nhân loại đang ngày một tăng lên vùn vụt. Dạy học tích hợp khắc phục được lối giảng dạy tách rời các hiện tượng ngôn ngữ ra khỏi văn cảnh, ngữ cảnh của văn bản, đòi hỏi giảng dạy nội dung nào cũng phải dựa vào văn bản dữ liệu. Nhờ vào các kiến thức của Tiếng Việt và Tập làm văn mà việc khai thác văn bản tác phẩm sâu sắc và kỹ càng hơn…Việc tách ra 3 phân môn độc lập, dễ tạo ra cho giáo viên và học sinh thói quen dạy và học những phân môn trên một cách cứng nhắc, dung tục. Ví dụ trong việc phân tích, giảng giải tác phẩm văn chương, rất nhiều những kiến thức và kỹ năng của phân môn Tiếng Việt như: ngữ âm, nhịp điệu, từ ngữ, các loại câu, các biện pháp tu từ, các quy tắc hội thoại và những cách nói hàm ẩn, hàm ngôn…,là những cơ sở quan trọng để “giải mã” những nội dung tiềm ẩn sâu sắc trong các tác phẩm văn chương, nhưng lại ít được giáo viên và học sinh để ý khai thác. Đành rằng để hiểu tác phẩm văn chương không chỉ có mình tri thức ngôn ngữ, nhưng bỏ qua “yếu tố thứ nhất”này, tức là bỏ qua văn bản tác phẩm, cũng có nghĩa là khó tránh khỏi xu hướng rơi vào phân tích kiểu xã hội học dung tục. Tất nhiên cách dạy học các phân môn tách rời như hiện hành bảo đảm được tính độc lập của phân môn, đáp ứng và giải quyết được nhiều vấn đề do môn khoa học tương ứng đề ra. Ví dụ, với tư cách một phân môn độc lập, Tiếng Việt sẽ giải quyết được tương đối dễ dàng vấn đề hệ thống tri thức Việt ngữ và một số vấn đề lý thuyết ngôn ngữ học. Với phân môn Văn là các vấn đề như: lịch sử văn học, tác giả tác phẩm, lýluận văn học vv... Những vấn đề trên nếu dạy học theo nguyên tắc tích hợp sẽ ít nhiều bị phá vỡ, hay nói đúng hơn sẽ khó thực hiện được trọn vẹn như dạy học hiện hành. Tuy vậy chương trình của sách giáo khoa Ngữ văn đã dành các bài tổng kết và ôn tập cuối năm cho mỗi lớp ở mỗi cuốn sách để hệ thống hoá và đáp ứng các yêu cầu riêng của các phân môn. Ngoài ra nếu cần củng cố và nâng cao các vấn đề trên có thể đưa vào nội dung dạy học tự chọn đã được ghi trong chương trình dự thảo cho hai lớp cuối cấp trung học cơ sở.
Chính vì vậy người giáo viên cần soạn giáo án phù hợp với quan điểm tích hợp, bởi lẽ quan điểm này là nguyên tắc chỉ đạo việc tổ chức nội dung, chương trình, biên soạn sách giáo khoa và lựa chọn phương pháp giảng dạy.
* Việc xây dựng chương trình môn Ngữ văn theo quan điểm tích hợp được thể hiện ở 4 điểm sau:
- Môn học chương trình xây dựng được gọi là Ngữ văn
- Môn Ngữ văn đồng thời hình thành cho học sinh 4 kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết.
- Ba phân môn và 4 kỹ năng được dạy học từ một văn bản
- Đảm bảo tính thống nhất cao giữa ba phân môn.
*Việc soạn giáo án theo hướng tích hợp là một vấn đề mới và rất khó. Tuy nhiên nếu tập trung quan tâm đúng mức sẽ đem lại hiệu quả cao cho giờ giảng Văn. Có thể soạn giáo án theo hai cách tích hợp dọc và tích hợp ngang.
-Tích hợp dọc là tích hợp các vấn đề gần nhau trong chính từng phân môn,hoặc các phân môn khác nhau ở các bài đã, đang và sẽ học, ở các lớp dưới và lớp trên. Chẳng hạn phép so sánh trong phân môn Tiếng Việt, hay văn miêu tả và kể chuyện trong phân môn Tập làm văn không phải đến lớp 6 mới học mà học sinh đã đượclàm quen ở Tiểu học. Theo tinh thần này khi dạy sách Ngữ văn 6, giáo viên cần tận dụng tối đa những kiến thức mà học sinh đã học ở trước đó về so sánh, một mặt củng cố, ôn luyện và vận dụng; mặt khác từ những gì đã biết hướng dẫn học sinh tìm hiểu, khám phá mở rộng và nâng cao vấn đề so sánh mà lớp dưới chưa học. Những kiến thức so sánh đã học ở Tiểu học cũng được tích hợp, vận dụng khi học văn miêu tả ở lớp 6. Tương tự như thế những kiến thức và kỹ năng về đọc hiểu ở tiểu học sẽ được huy động và vận dụng vào việc đọc-hiểu phân môn văn học trung học cơ sở với một yêu cầu cao hơn. Như thế tích hợp dọc là sự tích hợp theo vấn đề đã học và sẽ học ở nhiều thời điểm khác nhau.
-Tích hợp ngang tức là dạy 3 phân môn trên cùng một văn bản. Văn bản chính là nguồn tài liệu mà cả 3 phân môn đều phải hướng tới, từ đó mà làm rõ cho nhau. Giờ đọc-hiểu phải bám sát vào văn bản, vào các yếu tố hình thức mà trước hết là thể loại và ngôn từ nghệ thuật…để làm sáng tỏ nội dung văn học. Không chỉ Tiếng Việt mà cả kiến thức Tập làm văn cũng giúp cho việc đọc - hiểu tốt hơn. Chẳng hạn những kiến thức về ngôi kể và lời kể, thứ tự kể… trong kiểu văn bản tự sự sẽ giúp giáo viên và học sinh khai thác tốt hơn các tác phẩm tự sự được đọc-hiểu ở giờ Văn
Ví dụ:
+Văn bản “Thánh Gióng” có thể tích hợp ngang: Trong truyền thuyết Thánh Gióng có các nhân vật, các chi tiết, sự kiện, vậy nó thuộc thể loại gì? Nếu thiếu các chi tiết sự kiện ấy truyền thuyết có còn ý nghĩa không?
Tích hợp ngang còn thể hiện ở văn bản phụ ở Tiếng Việt và Tập làm văn. Những văn bản phụ này cũng góp phần làm sáng tỏ cho văn bản chung. Và đặc biệt tích hợp ngang còn thể hiện trong hệ thống câu hỏi dẫn dắt và các đề kiểm tra đánh giá. Trong một bài học, mỗi phân môn đề có câu hỏi về các kiến thức liên quan đến các phân môn còn lại; các đề kiểm tra đánh giá nhất là bài kiểm tra cuối học kỳ hoặc cuối năm được kiểm tra một cách tổng hợp theo hướng tích hợp.
Ví dụ
+ Ở văn bản “Lượm” trong khổ thơ đầu, câu thơ “ Ngày Huế đổ máu” đã sử dụng phép hoán dụ, lấy dấu hiệu “đổ máu” để nói đến sự khốc liệt của chiến tranh. Hoán dụ là gì? chúng ta sẽ được học ở phần Tiếng việt trong bài sau.
Nếu soạn giáo án theo hướng tích hợp thì trong giờ dạy sẽ giúp cho các em hiểu được vấn đề một cách sâu rộng khắc ghi được kiến thức lâu hơn, hiểu bài một cách dễ dàng hơn có thêm nhiều kiến thức trong các lĩnh vực khác cũng như làm phong phú thêm đời sống tinh thần của các em.
b. Giáo án cần chú ý đến việc phát huy tính tích cực cao độ của chủ thể học sinh-nhân vật trung tâm trong quá trình học Ngữ văn.
* Phát huy tính tích cực hoạt động nhận thức của người học là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của người thầy trong qua trình dạy học. Vì vậy nó luôn là trung tâm chú ý của lý luận và thực tiễn dạy học. Đến nay đây vẫn là một vấn đề quan trọng nhất của dạy học-giáo dục.
Khi nghiên cứu về vấn đề này cần coi trọng người thầy trong việc tổng kết những kinh nghiệm của quá khứ và phát triển chúng trong điều kiện hiện tại, khi mà khoa học kỹ thuật đã phát triển ở mức độ cao và bản chất con người đã có những thay đổi về tính chất, năng lực, nhu cầu và nguyện vọng.
Tính tích cực nhận thức biểu thị sự nỗ lực của chủ thể khi tương tác với đối tượng trong quá trình học tập, nghiên cứu, thể hiện ở sự nỗ lực hoạt động trí tuệ, sự huy động ở mức độ cao các chức năng tâm lý như hứng thú, chú ý, ý chí…nhằm đạt được mục đích đặt ra với chất lượng cao.
* Để biết được học sinh có tính tích cực học tập hay không cần dựa vào những dấu hiệu sau đây:
- Có chú ý học tập hay không?
- Có hăng hái tham gia vào mọi hình thức của hoạt động học tập không?(thể hiện ở việc phát biểu ý kiến, ghi chép…)
- Có hoàn thành những nhiệm vụ được giao không?
- Có ghi nhớ tốt những điều đã học không?
-Có hiểu bài học không?
-Có thể trình bày lại nội dung bài học theo ngôn ngữ riêng không?...
Về mức độ tích cực của học sinh trong quá trình học tập có thể không giống nhau, chúng ta có thể phát hiện được điều đó dựa vào một số dấu hiệu sau:
+ Tự giác học tập hay bị bắt buộc bởi những tác động bên ngoài( Gia đình, bạn bè, xã hội…)
+ Thực hiện nhiệm vụ của thầy giáo theo yêu cầu tối thiểu và tối đa?
+ Tích cực nhất thời hay thường xuyên, liên tục?
+ Tích cực tăng lên hay giảm dần?
+ Có kiên trì vượt khó hay không?
*Tính tích cực của học sinh có mặt tự phát và mặt tự giác
- Mặt tự phát của tính tích cực là những yếu tố tiềm ẩn bẩm sinh thể hiện ở tính tò mò, hiếu kỳ, hiếu động, linh hoạt và sôi nổi trong hành vi mà đứa trẻ đều có ở những mức độ khác nhau.
-Tính tích cực tự giác thể hiện ở óc quan sát, tính phê phán trong tư duy, trí tò mò khoa học…
Tính tích cực nhận thức phát sinh không chỉ từ nhu cầu nhận thức mà cả từ nhu cầu sinh học, nhu cầu đạo đức, thẩm mỹ, nhu cầu giao lưu văn hoá…Hạt nhân cơ bản của tính tích cực nhận thức là hoạt động tư duy và nhận được tạo nên do sự thúc đẩy của hệ thống nhu cầu đa dạng.
Ngày nay dạy học tích cực có thể xem là một trong những đặc điểm quan trọng nhất của nhà trường hiện đại và có thể lấy đó phân biệt với nhà trường truyền thống.
Phát huy tính tích cực của học sinh và “ dạy học lấy học sinh làm trung tâm” đều nhấn mạnh vai trò chủ thể của người học, còn người giáo viên “ lùi vào hậu trường” chỉ l