Hoa Đồng Tiền rất phong phú và đa dạng với nhiều màu sắc khác nhau như: đỏ, cam ,vàng, trắng, phấn hồng, tím, Trên một bông hoa có thể có một màu đơn hoặc nhiều màu xen kẽ. Hoa Đồng Tiền có giá trị kinh tế cao, mặc dù hoa Đồng Tiền chỉ chiếm tỉ lệ rất nhỏ (3-5%) trong tổng số các loài hoa cắt cành, song không thể vắng mặt trên thị trường hoa.
62 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 3014 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu quy trình nhân giống hoa Đồng Tiền in vitro, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Hoa Đồng Tiền có tên khoa học là Gerbera jamesonii (còn gọi là hoa mặt trời Phu Lăng).
Hoa Đồng Tiền rất phong phú và đa dạng với nhiều màu sắc khác nhau như: đỏ, cam ,vàng, trắng, phấn hồng, tím,… Trên một bông hoa có thể có một màu đơn hoặc nhiều màu xen kẽ. Hoa Đồng Tiền có giá trị kinh tế cao, mặc dù hoa Đồng Tiền chỉ chiếm tỉ lệ rất nhỏ (3-5%) trong tổng số các loài hoa cắt cành, song không thể vắng mặt trên thị trường hoa.
Ngày nay, phương pháp nhân giống cổ truyền bằng cách tách chồi từ cây mẹ đã không còn phù hợp. Do sau một thời gian tồn tại ngoài đồng ruộng khá lâu nên tất yếu sẽ nhiễm rất nhiều loại vi rút và vi khuẩn làm cho chất lượng cây giống không cao, thoái hóa ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm cành hoa.
Trong vài năm gần đây, tại Đà Lạt- Lâm Đồng, việc ứng dụng kỹ thuật nuôi cấy mô tế bào trong nhân giống được phát triển mạnh mẽ. Có nhiều cơ quan nhà nước, công ty, cơ sở tư nhân (Trung Tâm Nghiên Cứu Khoai Tây, Rau & Hoa, Trung tâm Ứng dụng Đà Lạt, công ty Hasfarm, Bonniefarm, Rừng Hoa và một số cơ sở tư nhân nhỏ) đã và đang nghiên cứu, ứng dụng lĩnh vực này trong nhân giống các loại rau, hoa và đã có nhiều thành công đáng kể. Nhân giống hoa Đồng Tiền bằng phương pháp này đang dần phổ biến và được nhiều người biết đến. Đề tài “Tìm hiểu quy trình nhân giống hoa Đồng Tiền in vitro” nhằm tìm hiểu quá trình nhân giống hoa Đồng Tiền như thế nào, tìm hiểu một số biện pháp kỹ thuật trong nhân giống hoa Đồng Tiền in vitro, nhằm khắc phục những nhược điểm và đáp ứng được những yêu cầu hiện nay.
Qui trình nhân giống hoa Đồng Tiền in vitro được ghi nhận tại Bộ môn Công Nghệ Sinh Học thuộc Trung Tâm Nghiên Cứu Khoai Tây, Rau & Hoa – Đà Lạt.
Tính cấp thiết của đề tài:
Hoa Đồng Tiền xuất hiện ở nước ta vào những năm 1940 và đến nay đã phát triển ra nhiều tỉnh thành trong cả nước. Tuy nhiên, diện tích trồng hoa Đồng Tiền trong cả nước còn thấp, chất lượng hoa của một số vùng còn yếu, hoa Đồng Tiền được trồng chủ yếu ở một số địa phương như: Đà Lạt, Hải Phòng, Hà Nội, Thành Phố Hồ Chí Minh,… Nguyên nhân của hạn chế về diện tích và chất lượng hoa Đồng Tiền là:
Thiếu giống tốt, không chủ động được giống cây, phải nhập giống. Do vậy, làm cho chi phí sản xuất cao, mà giá thành ngoài thị trường của hoa lại chưa cao.
Trong điều kiện trồng trọt ở vùng nhiệt đới ở nước ta, hoa Đồng Tiền thường nhiễm bệnh, nấm. Với nguồn nước ô nhiễm, vệ sinh đồng ruộng kém, cành hoa bị ngắt sát đất dễ mẩn cảm với bệnh nên các giống hoa Đồng Tiền dễ bị thoái giống.
Trước tình hình đó, việc tìm ra biện pháp nhân giống hoa Đồng Tiền sạch bệnh, có chất lượng là rất cần thiết.
Mục đích, yêu cầu và ý nghĩa:
Mục đích:
Tìm hiểu qui trình nhân giống hoa Đồng Tiền in vitro.
Khảo sát một số biện pháp kỹ thuật trong nhân giống hoa Đồng Tiền in vitro.
Yêu cầu:
Xác định nồng độ BAP tối ưu trong môi trường MS cho nhân nhanh chồi in vitro các giống hoa Đồng Tiền G04.6.
Xác định nồng độ NAA tối ưu trong quá trình tạo rễ của cây hoa Đồng Tiền in vitro G04.6.
Xác định loại giá thể phù hợp với hoa Đồng Tiền.
Ý nghĩa:
Sản xuất được cây con sinh trưởng phát triển tốt, đồng đều và sạch bệnh với khối lượng lớn, kịp thời phục vụ cho sản xuất. Thuận lợi cho việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật trong giai đoạn sản xuất hoa thương phẩm.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Tình hình sản xuất hoa:
Tình hình sản xuất hoa trên thế giới:
Ngày nay, hoa là một sản phẩm đặc biệt. Hoa làm tăng chất lượng cuộc sống của con người và hoa đem lại cho con người những cảm xúc tuyệt vời mà các quà tặng khác không có được.
Ngày nay, sản xuất hoa trên Thế Giới đang phát triển một cách mạnh mẽ và đã trở thành một ngành thương mại cao. Sản xuất hoa đã mang lại lợi ích to lớn cho nền kinh tế các nước trồng hoa trên Thế Giới.
Diện tích hoa của Thế Giới ngày càng mở rộng và không ngừng tăng lên. Các nước sản xuất hoa lớn trên Thế Giới là: Nhật với khoảng 3.731 tỷ đôla, Hà Lan khoảng 3.558 tỷ đôla, Mỹ khoảng 3.270 tỷ đôla.
Sản xuất hoa của Thế Giới sẽ tiếp tục phát triển và mạnh mẽ nhất ở các nước Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ La Tinh. Mục tiêu sản xuất hoa cần hướng tới là giống hoa đẹp, tươi, chất lượng cao và giá thành thấp.
Tình hình sản xuất hoa ở Châu Á:
Châu Á Thái Bình Dương có diện tích trồng hoa khoảng 134 000 ha, chiếm 60% diện tích hoa Thế Giới. Nhưng diện tích hoa thương mại của Châu Á nhỏ. Tỷ lệ thị trường hoa của các nước đang phát triển chỉ chiếm 20% thị trường hoa Thế Giới. Nguyên nhân là do các nước Châu Á có diện tích trồng hoa được bảo vệ thấp. Ở đây hoa được trồng trong điều kiện tự nhiên của đồng ruộng. Hoa được trồng chủ yếu phục vụ cho thị trường nội địa. Mấy năm gần đây thị trường hoa xuất hiện nhiều nước mới, trong đó có các nước ở khu vực Châu Á như: Thái Lan, Malaysia, Trung Quốc, Singapore, Ấn Độ.
Các nước ở Châu Á có diện tích trồng hoa lớn là: Trung Quốc (3 000 ha), Ấn Độ (65 000 ha), Malaysia (1 218ha), Srilanka (500 ha), Thái Lan (5 452 ha), Việt Nam, Inđônêsia, Philippin. Nghề trồng hoa ở Châu Á có từ lâu đời, nhưng trồng hoa thương mại phát triển từ những năm 80 của thế kỷ 20. Khi các nước Châu Á mở của, tăng cường đầu tư, đời sống của nhân dân được nâng cao, yêu cầu hoa cho khách sạn, du lịch lớn, các thị trường hoa phát triển.
Các loài hoa được trồng ở Châu Á chủ yếu gồm hai nhóm giống hoa, phân chia chủ yếu dựa vào yêu cầu nhiệt độ của chúng: nhóm các giống hoa có nguốn gốc nhiệt đới gồm các loài hoa như hoa Lan (Orchidacea), Anthurium, hoa Đồng Tiền (Gerbera), …và nhóm hoa có nguồn gốc ôn đới như: hoa Hồng (Rosa sp), Cúc (Chrysanthemum sp), Layơn (Gladiolus), Huệ…
Các điều kiện thuận lợi và hạn chế của sản xuất hoa Châu Á
Điều kiện thuận lợi của sản xuất hoa các nước Châu Á:
Có nguồn gen cây hoa phong phú, đa dạng.
Khí hậu nhiệt đới, đủ mưa, nắng, ánh sáng, đất tốt, giá rẻ.
Lao động dồi dào, giá lao động thấp.
Chính phủ khuyến khích đầu tư phát triển hoa.
Các mặt hạn chế sản xuất hoa Châu Á:
Thiếu giống hoa đẹp, chất lượng cao. Giống hoa thường nhập từ bên ngoài.
Chưa đủ kỹ thuật sản xuất, chế biến hoa thương mại.
Vốn đầu tư ban đầu cao. Vốn vay lãi xuất cao.
Cơ sở hạ tầng cho sản xuất, chế biến, bảo quản, vận chuyển, xuất khẩu thiếu.
Thông tin về thị trường chưa đầy đủ.
Thiếu vốn đầu tư cho nghiên cứu, đào tạo cán bộ.
Thuế cao, sự kiểm dịch khắt khe của các nước nhập khẩu.
Tình hình sản xuất hoa ở Việt Nam:
Diện tích trồng hoa ở Việt Nam:
Việt Nam có diện tích tự nhiên trên 33 triệu ha. Diện tích trồng hoa ở Việt Nam còn nhỏ, chiếm khoảng 0,02% diện tích trồng trọt. Hoa được trồng từ lâu đời. Diện tích hoa tập trung ở các vùng trồng hoa truyền thống của thành phố, khu công nghiệp, khu du lịch, nghỉ mát như Ngọc Hà, Quảng An, Nhật Tân, Tây Tựu (Hà Nội), Đằng Hải, Đằng Lâm (Hải Phòng), Hoành Bồ, Hạ Long (Quảng Ninh), Triệu Sơn, thị xã Thanh Hóa ( Thanh Hóa), Gò Vấp, Hóc Môn (Thành Phố Hố Chí Minh), Đà Lạt. Đà Lạt là vùng sản xuất hoa lớn nhất cả nước với tổng diện tích trồng hoa khoảng 2 027 ha (năm 2005).
Theo điều tra ở các tỉnh trong các vùng sinh thái nông nghiệp Việt Nam, các loài hoa chính được trồng trong sản xuất là:
Bảng 1.1: Các loài hoa trồng phổ biến ở Việt Nam
Tên thường gọi
Tên khoa học
Hoa Hồng
Hoa Cúc
Hoa Cẩm Chướng
Hoa Lay Ơn
Hoa Huệ
Hoa Loa Kèn
Hoa Thược Dược
Hoa Đồng Tiền
Hoa Violet
Hoa Lan
Hoa Trà Mi
Rosa sp.
Chrysanthemum sp.
Dianthus caryofullus
Gladiolus communis
Polianthes tuberosa L.
Lilium longiflorum Thumb.
Dahlia pinnata Cav.
Gerbera jamesonii
Viola tricolor L.
Orchidaceae
Camellia japonica Nois.
Kỹ thuật sản xuất hoa ở Việt Nam:
Sản xuất hoa ở Việt Nam dựa vào kinh nghiệm truyền thống và áp dụng kỹ thuật nhân giống hoa cổ truyền. Cây giống hoa đem trồng hiện nay gồm các giống gieo hạt, mầm, củ, nhánh, từ cây nuôi cấy in vitro.
Các phương pháp nhân giống cổ truyền dễ làm, quen với tập quán, kinh nghiệm của nông dân, giá thành thấp. Do đó, hiện nay phương pháp này là phổ biến, chiếm ưu thế trong sản xuất. Nhược điểm của phương pháp này là chất lượng giống không cao. Cây hoa trồng lâu bị thoái hóa. Bệnh, vi rút có nhiều khả năng lan truyền và phát triển, từ đó làm giảm phẩm chất hoa.
Các loại hoa trồng từ cây in vitro như: hoa cẩm chướng, hoa cúc, hoa hồng, hoa đồng tiền,… Cây in vitro đã dược đưa ra sản xuất nhưng ở diện tích nhỏ. Ưu điểm của cây giống hoa được nhân bằng phương pháp in vitro là cây khỏe, sạch bệnh, hệ số nhân giống cao, làm tăng chất lượng hoa. Nhưng cây nhân bằng in vitro đòi hỏi phải có thiết bị, giá thành cây giống cao. Hiện nay khi thị trường hoa bắt đầu phát triển, phương pháp nhân giống bằng in vitro bắt đầu được ứng dụng rộng rãi, điều mà ở các nước trồng hoa tiên tiến đã áp dụng từ lâu.
Vai trò của cây hoa trong nền kinh tế : Hoa có ý nghĩa to lớn trong nền kinh tế của các vùng và của các nước trồng hoa. Trồng hoa đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với trồng các cây trồng khác.
Những điều kiện thuận lợi và khó khăn của sản xuất hoa ở Việt Nam
Những điều kiện thuận lợi của sản xuất hoa cắt cành ở Việt Nam:
Việt Nam là một nước nông nghiệp. Diện tích tự nhiên lớn, 80% dân số sống bằng nghề nông. Nông dân cần cù, giàu kinh nghiệm sản xuất. Nghề trồng hoa có từ lâu đời.
Thị trường tiêu thụ hoa nội địa ngày càng mở rộng. Có tiềm năng xuất khẩu hoa ra các nước.
Một số họ, loài hoa nhiệt đới có nguồn gốc ở Việt Nam. Thích hợp với điều kiện tự nhiên của vùng.
Nhà nước đang khuyến khích phát triển hoa để phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Những hạn chế của sản xuất hoa ở Việt Nam:
Khí hậu miền Bắc nóng, ẩm về mùa hè. Đặc biệt trong các tháng 5 đến tháng 8. Số ngày nhiệt độ cao (>300C ), độ ẩm không khí cao (85-90%). Mùa đông có gió mùa đông bắc lạnh. Nhiều ngày nhiệt độ dưới 150C. Độ chiếu sáng ngắn, yếu. Miền Nam quanh năm nóng ấm, có một mùa nóng khô và một mùa nóng mưa, ẩm độ cao. Điều kiện khí hậu đó không thuận lợi cho các cây hoa có nguồn gốc ôn đới.
Chưa có các giống hoa chất lượng cao, thích ứng với điều kiện của vùng. Tuy vùng có một số giống đẹp, quý như hoa lan, trà, anthurium,… nhưng ở dạng hoa dại. Thị trường thế giới hiện giờ ưu thích các dạng hoa lai tạo đẹp và có màu sắc sặc sỡ hơn.
Sản xuất hoa tản mạn. Các tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất, bảo quản hoa chưa được áp dụng rộng rãi trong sản xuất hoa.
Thiếu các phương tiện, thiết bị để bảo vệ hoa trong điều kiện nắng, nóng, mưa bão,… như nhà kính, nhà lưới, nhà che,…
Thị trường hoa chưa phát triển cả ở trong nước và xuất khẩu.
Đội ngũ cán bộ khoa học về cây hoa chưa được đào tạo đầy đủ.
Nhà nước chưa có bản quyền về giống cây trồng nói chung và về cây hoa nói riêng. Từ đó hạn chế việc trao đổi, đầu tư giống hoa của các nước vào Việt Nam.
Phương hướng phát triển sản xuất hoa ở Việt Nam:
Nhà nước cần đầu tư cho công tác nghiên cứu phát triển hoa ở Việt Nam, để khai thác hợp lý, tận dụng tiềm năng, khắc phục, hạn chế khó khăn, đem lại hiệu quả cao cho sản xuất hoa ở nước ta.
Trước mắt nên tập trung nghiên cứu, cải tiến giống, đầu tư phát triển các loài hoa nhiệt đới quý, đẹp, được thị trường chấp nhận, có khả năng thích ứng với điều kiện tự nhiên của các vùng như hoa lan. Phát triển các giống hoa ôn đới theo mùa vụ ở các vùng thảo nguyên có khí hậu thích hợp.
Tăng cường đào tạo cán bộ về hoa. Áp dụng các tiến bộ kỹ thuật về sản xuất, bảo quản, chế biến hoa của thế giới vào điều kiện sản xuất hoa của vùng.
Tạo cơ sở vật chất kỹ thuật cho sản xuất, chế biến, bảo quản hoa như nhà lưới, nhà kính, nhà che cây hoa, kho lạnh, bến bãi bảo quản, lưu giữ phục vụ xuất khẩu hoa.
Tìm kiếm thị trường tiêu thụ hoa.
Ra đời luật bản quyền về giống cây trồng.
Tích cực hợp tác, mời các chuyên gia hàng đầu về hoa của các nước tiên tiến sang truyền đạt kinh nghiệm, kỹ thuật trong sản xuất hoa.
Giới thiệu về hoa Đồng Tiền:
Nguồn gốc, phân loại và đặc điểm của hoa Đồng Tiền:
Nguồn gốc:
Hoa Đồng Tiền có tên khoa học là Gerbera jamesonii. Hoa Đồng Tiền gồm nhiều loài thuộc chi Gerbera. Chi này có khoảng 30-100 loài sống hoang dã, phân bố ở Nam Mỹ, Châu Phi đại lục, Madagascar và vùng nhiệt đới Châu Á. Chi Gerbera rất phổ biến và được trồng tại vườn chủ yếu là các giống lai giữa Gerbera jamesonii và một loài khác ở Nam Phi là Gerbera hybrida. Hiện nay tồn tại hàng trăm giống khác nhau.
Phân loại:
Giới : Plantae
Ngành : Magnoliophyta
Lớp : Magnoligopsida
Bộ : Asteraceae
Phân họ : Mutisioideae
Chi : Gerbera Hình 1.1: Cây hoa Đồng Tiền
Đặc điểm:
Hoa Đồng Tiền thuộc loại hoa lưu niên ra hoa quanh năm, độ bền hoa cắt cao, được coi là một loài hoa đẹp trong thế giới hoa. Dựa vào hình thái hoa, người ta chia thành 3 nhóm: hoa đơn, hoa kép và hoa đơn nhị kép.
Nhóm 1- hoa đơn: hoa chỉ có một hoặc hai tầng cánh, xếp xen kẽ nhau tạo vòng tròn. Hoa mỏng và yếu hơn hoa kép, màu sắc hoa ít hơn, điển hình là màu trắng, đỏ, tím, hồng.
Nhóm 2- hoa kép: cành hoa to, gồm hơn hai tầng cánh, bông to, đường kính hoa có thể đạt tới 12-15 cm, cánh hoa tụ lại thành bông nằm ở đầu trục chính, cuống dài 40-60 cm. Màu sắc đa dạng như màu trắng, đỏ, vàng, hồng, màu gạch cua.
Nhóm 3- hoa đơn nhị kép: bên ngoài cùng cánh đơn, bên trong cánh kép dày đặc, thường màu trắng trong lớp cánh kép màu cánh sen nhưng nhóm này không đẹp bằng hoa kép.
a b
C
Hình 1.2: Hình các nhóm hoa Đồng Tiền
Hình a: Hoa đơn.
Hình b: Hoa kép.
Hình c: Hoa đơn nhị kép.
Trong ba nhóm trên, Đồng Tiền kép là nhóm hoa có giá trị kinh tế cao, được ưu chuộng hơn cả và cũng là đối tượng lý tưởng của nuôi cấy mô tế bào thực vật.
Thân, lá: thân ngầm, không phân cành mà chỉ đẻ nhánh, lá và hoa phát triển từ thân. Lá mọc chếch so với mặt đất một góc 15-450, hình dáng lá thay đổi theo giống và sự sinh trưởng của cây, từ hình trứng thuôn đến hình thuôn dài. Lá dài từ 15-25 cm, rộng 5-8 cm, có hình lông chim, xẻ thùy nông hoặc sâu, mặt lưng lá có lớp lông nhung.
Rễ: rễ hoa Đồng Tiền thuộc dạng rễ chùm, phát triển khỏe, rễ hình ống, ăn ngang và nổi phía trên mặt luống, rễ thường vươn dài tương ứng với diện tích lá tỏa ra.
Hoa: hoa Đồng Tiền do hai loại hoa nhỏ hình lưỡi và hình ống tạo thành, là loại hoa tự đơn hình đầu. Hoa hình lưỡi tương đối lớn mọc ở phía ngoài xếp thành vòng hoặc vài vòng nhỏ, do sự thay đổi hình thái và màu sắc nên được gọi là mắt hoa hoặc tâm hoa, rất được chú trọng. Trong quá trình hoa nở, hoa hình lưỡi nở trước, hoa hình ống nở theo thứ tự từ ngoài vào theo từng vòng một.
Quả: quả Đồng Tiền thuộc dạng quả bế có lông, không có nội nhũ, hạt nhõ, một gram hạt có khoảng 280-300 hạt.
Tình hình sản xuất, tiêu thụ hoa Đồng Tiền ở Việt Nam:
Tình hình sản xuất:
Hoa Đồng Tiền là 1 trong 10 loại hoa quan trọng nhất trên thế giới, sau hoa Hồng, Cúc, Lan, Cẩm Chướng, Lay Ơn,…
Ở Việt Nam giống hoa Đồng Tiền đơn được nhập về trồng đầu tiên khoảng từ những năm 1940. Đặc điểm của giống hoa đơn này là cây sinh trưởng khỏe, thích nghi tốt với điều kiện tự nhiên, nhưng nhược điểm là hoa nhỏ, cánh đơn, màu sắc đơn điệu, vì vậy hiện nay người ta ít trồng. Từ những năm 1990, một vài công ty và những nhà trồng hoa Việt Nam bắt đầu nhập các giống Đồng Tiền lai (hoa kép) từ Đài Loan, Hà Lan, Trung Quốc về trồng. Các giống này tỏ ra có nhiều ưu điểm: hoa to, cánh dày, gồm nhiều tầng xếp lại với nhau, màu sắc phong phú, hình dáng hoa cân đối, rất đẹp, năng suất cao. Vì vậy, những giống này đã được tiếp nhận và phát triển mạnh mẽ ở khắp mọi vùng, mọi tỉnh thành trên cả nước.
Trong các loại hoa Đồng Tiền đã và đang trồng tại Việt Nam thì hoa Đồng Tiền kép nhập nội là một trong những cây cho hiệu quả kinh tế cao nhất. Từ một sào hoa Đồng Tiền giống mới chăm sóc đúng kỹ thuật có thể cho thu nhập gần 50 triệu/sào/năm.
Tình hình tiêu thụ:
Hiện nay, hoa Đồng Tiền là loài hoa rất được ưu chuộng với giá cả phải chăng. Nhưng tình trạng sản xuất hoa Đồng Tiền của Việt Nam (cũng như các sản phẩm cây cảnh khác) khó xâm nhập vào thị trường thế giới. Vì chất lượng, chủng loại, kích cỡ không đồng đều, chưa đáp ứng được thị hiếu của khách hàng quốc tế.
Sự chênh lệch về giá cả giữa thị trường hoa Việt Nam và thị trường hoa thế giới cũng thể hiện rõ. Ở hoa Đồng Tiền, khi bán tại ruộng giá dao động từ 500-1.500 đồng/ bông, bán trên thị trường giá trong khoảng từ 1.500-2.500 đồng/bông (tùy theo mùa, dịp lễ mà giá bông khác nhau). Trong khi đó, giá bán hoa Đồng Tiền tại Mỹ là 20.000-25.000 đồng/bông.
Tình hình nghiên cứu và ứng dụng nuôi cấy mô nhân giống hoa Đồng Tiền:
Tình hình nghiên cứu và ứng dụng nuôi cấy mô nhân giống hoa Đồng Tiền trên thế giới:
Theo điều tra nghiên cứu về công nghệ sinh học thực vật trên thế giới ở hoa Đồng Tiền, người ta có thể sử dụng đỉnh sinh trưởng, đế hoa, lá, cuống lá, bầu nhụy, noãn,… làm mẫu cấy. Việc tái sinh mẫu từ lá non là thành công nhất, khi sử dụng mẫu cấy là đỉnh sinh trưởng trải qua nhiều công đoạn để tạo ra một khối lượng sinh khối lớn.
Theo kết quả của viện nghiên cứu nông nghiệp Ấn Độ, sự phát sinh cơ quan và sự hình thành của chồi từ mô sẹo ở hoa Đồng Tiền có hệ số nhân cao. Các mô sẹo này được hình thành từ lá ex vitro, các mô sẹo phát triển trong môi trường MS bổ sung 0,4 mg/l BAP, 4 mg/l NAA và 3% succrose. Có 2 loại mô sẹo được hình thành: một loại riêng rẽ và không chứa chất diệp lục tố được hình thành chủ yếu trên bề mặt vết cắt của mô nuôi cấy, và một tập hợp mô sẹo chứa chất diệp lục tố. Tỉ lệ chồi tái sinh hình thành được khẳng định là có liên quan đến nồng độ chất dinh dưỡng trong môi trường nuôi cấy. Khi cấy mô sẹo vào môi trường chứa 2 mg/l NAA và 1 mg/l BAP, mô tái sinh được hình thành với tỉ lệ cao (83,3%).
Theo Skoog và Miller (1958), quá trình phát triển của mô sẹo hoa Đồng Tiền cần có cả cytokinin và auxin. Mô sẹo không hình thành khi môi trường nuôi cấy chỉ chứa BAP hay chỉ chứa NAA. Mô sẹo hình thành tốt nhất ở nồng độ NAA cao và BAP thấp.
Theo Pierik và Segers (1973), sự hình thành mô sẹo bởi cytokinin sẽ tăng lên khi có mặt auxin trong môi trường, đặc biệt là IBA. Cytokinin hiệu quả nhất là BAP. Thêm vào đó là kết quả nghiên cứu của Huang (2001) dùng môi trường MS bổ sung 1 mg/l BA và 0,05 mg/l IBA thích hợp cho sự hình thành mô sẹo từ đỉnh chồi và từ cuống lá.
Kết quả nghên cứu của Jerzy và Lubonskg (1991) cho thấy số chồi hình thành cao nhất (8-11 chồi) trong môi trường có 10 mg/l BAP, nhưng có vài chồi yếu và xuất hiện hiện tượng thủy tinh thể. Trong môi trường BA chứa 1-2 mg/l BA chỉ hình thành 1-3 chồi.
Viện nghiên cứu nông nghiệp Ấn Độ đã kết luận rằng khi chỉ sử dụng BAP trong môi trường nuôi cấy mà không kết hợp NAA thì hệ số nhân của chồi thấp, còn khi dùng riêng NAA thì không có một chồi nào xuất hiện. Viện cũng đưa ra môi trường giúp cây ra rễ tốt nhất là MS + NAA và IBA. Theo Barbosa (1992) hệ thống rễ phát triển tốt hơn trong môi trường MS + IAA (nồng độ từ 0,5; 1,0; 2,0 và 4,0 mg/l).
Theo viện nghiên cứu nông nghiệp Banglaclech, trong nhân giống hoa Đồng Tiền in vitro, những nồng độ khác nhau của các chất điều hòa sinh trưởng khác nhau (IAA; NAA; 2,4-D và kinetin) có thể sử dụng riêng lẻ hoặc kết hợp với nhau trong sự tái sinh chồi cũng như trong quá trình hình thành mô sẹo trên những mô cấy khác nhau của cây hoa Đồng Tiền trong điều kiện in vitro. Trong quá trình tái sinh chồi và nhân lên của chồi thì những mẫu cấy ban đầu là đỉnh chồi hoặc rễ cây in vitro tỏ ra có hiệu quả hơn so với các mẫu từ các mô khác của cây. Cũng theo nghiên cứu này, môi trường MS bổ sung 2 mg/l NAA cho bộ rễ của cây hoa Đồng Tiền in vitro hình thành sớm và nhiều nhất. Ngoài ra, những mô sẹo phân chia, phát sinh phôi khi nuôi cấy lá và cuống lá in vitro trên môi trường MS bổ sung thêm 0,4 mg/l 2,4-D.
Tình hình nghiên cứu và ứng dụng nuôi cấy mô nhân giống hoa Đồng Tiền trong nước:
Theo phương pháp truyền thống, người nông dân thường nhân giống bằng cách tách cây con từ cây mẹ để làm giống cho thế hệ sau. Phương pháp này vẫn được sử dụng đến ngày nay. Cho đến khi phương pháp nhân giống bằng kỹ thuật in vitro ra đời, người nông dân đã nhanh chóng tiếp thu kỹ thuật công nghệ sinh học mới này và đã áp dụng trên diện rộng cho nhiều loại cây trồng có giá trị kinh tế cao và hiệu quả năng suất cao hơn nhiều so với phương pháp nhân giống truyền thống.
Ở