Cùng với sự phát triển của quá trình toàn cầu hóa, nền kinh tế thế giới đã có bước chuyển biến mạnh mẽ, đời sống của người dân hầu khắp các quốc gia đã được nâng lên rõ rệt. Nhưng bên cạnh đó đói nghèo vẫn là vấn đề xã hội bức xúc của các quốc gia trên thế giới. Số liệu điều tra cho thấy mỗi ngày trên thế giới có đến 35000 trẻ em phải chết vì những căn bệnh có thể chữa khỏi bằng các phương pháp dinh dưỡng và sự chăm sóc y tế sơ đẳng nhất. Các quốc gia phát triển, giàu có cũng không tránh khỏi điều đó. Liên minh châu âu (EU) có 12% số hộ sống dưới mức nghèo. Tại Hợp chủng quốc Hoa Kỳ những năm 80 của thế kỷ 20 đã có thêm 4 triệu trẻ em rơi vào cảnh bần hàn. Nhưng nạn nghèo đói đặc biệt nghiêm trọng ở các quốc gia đang phát triển. Việt Nam cũng nằm trong bối cảnh như vậy. Trên thực tế, từ sau đại hội đại biểu lần thứ VI (T12/1986) toàn Đảng, toàn dân tiến hành công cuộc đổi mới và đã đạt được thành tựu đáng kể. Cũng chính sự thay đổi đó đã khiến nhiều người Việt Nam có thể cải thiện được cuộc sống của mình hay bắt đầu sự cải thiện đó. Các cá nhân, hộ gia đình và các tổ chức kinh tế, xã hội cũng như các công ty ngày càng kiểm soát được nguồn lực phát triển. Song song với điều đó là sự có mặt ngày càng tăng của các loại hàng hóa dịch vụ. Tuy vậy ở nước ta vẫn tồn tại những yếu kém nhất định về kinh tế xã hội: một số nhóm lại không ở vị thế tốt để có thể tận dụng được các thị trường và kiểm soát nguồn lực. Sự thay đổi của nền kinh tế đã gây nên sự chênh lệch ngày càng lớn giữa các giai tầng xã hội. Vì vậy trong xã hội xuất hiện sự chênh lệch giữa nhóm giàu và nhóm nghèo. Nhóm giàu tập chung chủ yếu ở đô thị. Nhóm nghèo tập chung chủ yếu ở nông thôn, trung du, miền núi. Hiện nay ở Việt Nam mức nghèo vẫn chiếm tỷ lệ cao. Theo báo cáo về tình hình phát triển quốc tế của ngân hàng thế giới (WB), Việt Nam vẫn đứng thứ 19 kể từ nước nghèo nhất (1999). Qua nguồn số liệu điều tra mức sống dân cư ở Việt Nam các năm 1993 và 1998, WB đã xác định ngưỡng nghèo chung theo mức chi tiêu tối thiểu 96.700đ (1993) và 149.156đ (1998) 1người/tháng. Theo cách tính này thì Việt Nam năm 1993 có58,1% và 1998 vẫn còn 37,4% dân cư nghèo đói. Tỷ lệ này cao hơn nhiều so với một số nước lân cận như Trung Quốc (10%), Inđônêxia (15%), Philipin (21%), Thái lan (16%). Ở Việt Nam, trong những năm gần đây Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong việc xóa đói giảm nghèo. Trong 10 năm qua, hầu như 1/3 tổng dân số đã thoát khỏi cảnh nghèo đói. Vậy thì để tiến tới xóa bỏ dần vấn đề này phải cần nhìn nhận thực trạng của nó đúng về bản chất và xem xét nó trong bối cảnh mới. Như Vivien Wee- Giám đốc chương trình Engender và Neoleen Heyer. Giám đốc Quỹ phát triển phụ nữ của Liên Hiệp Quốc đã viết: “Chúng ta không thể giải quyết nạn nghèo đói mà không hiểu các quá trình đã làm cho người nghèo thành nghèo và người giàu thành giàu”.
Phú Thọ là tỉnh trung du miền núi, ở đây không có điều kiện phát triển du dịch, thông thương buôn bán. Do điều kiện địa hình điều kiện kinh tế chưa được phát triển. Diện tích đất trống đồi núi trọc nhiều, diện tích đất quảng canh không cao. Người dân sống bằng nông nghiệp chủ yếu với phương thức tự cung tự cấp. Do vậy ở tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo cao. Nhiều vùng xa xôi hẻo lánh, sống xa rời đô thị, có nhiều xã sống trong cảnh nghèo. Thái Ninh là một xã như vậy. Mặc dù trong những năm gần đây, chính quyền xã đã có nhiều biện pháp và phương thức trong việc xóa đói giảm nghèo nhưng tình trạng nghèo vẫn là vấn đề bức xúc.
Tất cả những vấn đề trên đã gợi nên trong tôi ý tưởng nghiên cứu đề tài: “Tìm hiểu thực trạng nghèo đói của người dân xã Thái Ninh huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ hiện nay”
48 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2043 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu thực trạng nghèo đói của người dân xã Thái Ninh huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cùng với sự phát triển của quá trình toàn cầu hóa, nền kinh tế thế giới đã có bước chuyển biến mạnh mẽ, đời sống của người dân hầu khắp các quốc gia đã được nâng lên rõ rệt. Nhưng bên cạnh đó đói nghèo vẫn là vấn đề xã hội bức xúc của các quốc gia trên thế giới. Số liệu điều tra cho thấy mỗi ngày trên thế giới có đến 35000 trẻ em phải chết vì những căn bệnh có thể chữa khỏi bằng các phương pháp dinh dưỡng và sự chăm sóc y tế sơ đẳng nhất. Các quốc gia phát triển, giàu có cũng không tránh khỏi điều đó. Liên minh châu âu (EU) có 12% số hộ sống dưới mức nghèo. Tại Hợp chủng quốc Hoa Kỳ những năm 80 của thế kỷ 20 đã có thêm 4 triệu trẻ em rơi vào cảnh bần hàn. Nhưng nạn nghèo đói đặc biệt nghiêm trọng ở các quốc gia đang phát triển. Việt Nam cũng nằm trong bối cảnh như vậy. Trên thực tế, từ sau đại hội đại biểu lần thứ VI (T12/1986) toàn Đảng, toàn dân tiến hành công cuộc đổi mới và đã đạt được thành tựu đáng kể. Cũng chính sự thay đổi đó đã khiến nhiều người Việt Nam có thể cải thiện được cuộc sống của mình hay bắt đầu sự cải thiện đó. Các cá nhân, hộ gia đình và các tổ chức kinh tế, xã hội cũng như các công ty ngày càng kiểm soát được nguồn lực phát triển. Song song với điều đó là sự có mặt ngày càng tăng của các loại hàng hóa dịch vụ. Tuy vậy ở nước ta vẫn tồn tại những yếu kém nhất định về kinh tế xã hội: một số nhóm lại không ở vị thế tốt để có thể tận dụng được các thị trường và kiểm soát nguồn lực. Sự thay đổi của nền kinh tế đã gây nên sự chênh lệch ngày càng lớn giữa các giai tầng xã hội. Vì vậy trong xã hội xuất hiện sự chênh lệch giữa nhóm giàu và nhóm nghèo. Nhóm giàu tập chung chủ yếu ở đô thị. Nhóm nghèo tập chung chủ yếu ở nông thôn, trung du, miền núi. Hiện nay ở Việt Nam mức nghèo vẫn chiếm tỷ lệ cao. Theo báo cáo về tình hình phát triển quốc tế của ngân hàng thế giới (WB), Việt Nam vẫn đứng thứ 19 kể từ nước nghèo nhất (1999). Qua nguồn số liệu điều tra mức sống dân cư ở Việt Nam các năm 1993 và 1998, WB đã xác định ngưỡng nghèo chung theo mức chi tiêu tối thiểu 96.700đ (1993) và 149.156đ (1998) 1người/tháng. Theo cách tính này thì Việt Nam năm 1993 có58,1% và 1998 vẫn còn 37,4% dân cư nghèo đói. Tỷ lệ này cao hơn nhiều so với một số nước lân cận như Trung Quốc (10%), Inđônêxia (15%), Philipin (21%), Thái lan (16%). Ở Việt Nam, trong những năm gần đây Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong việc xóa đói giảm nghèo. Trong 10 năm qua, hầu như 1/3 tổng dân số đã thoát khỏi cảnh nghèo đói. Vậy thì để tiến tới xóa bỏ dần vấn đề này phải cần nhìn nhận thực trạng của nó đúng về bản chất và xem xét nó trong bối cảnh mới. Như Vivien Wee- Giám đốc chương trình Engender và Neoleen Heyer. Giám đốc Quỹ phát triển phụ nữ của Liên Hiệp Quốc đã viết: “Chúng ta không thể giải quyết nạn nghèo đói mà không hiểu các quá trình đã làm cho người nghèo thành nghèo và người giàu thành giàu”.
Phú Thọ là tỉnh trung du miền núi, ở đây không có điều kiện phát triển du dịch, thông thương buôn bán. Do điều kiện địa hình điều kiện kinh tế chưa được phát triển. Diện tích đất trống đồi núi trọc nhiều, diện tích đất quảng canh không cao. Người dân sống bằng nông nghiệp chủ yếu với phương thức tự cung tự cấp. Do vậy ở tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo cao. Nhiều vùng xa xôi hẻo lánh, sống xa rời đô thị, có nhiều xã sống trong cảnh nghèo. Thái Ninh là một xã như vậy. Mặc dù trong những năm gần đây, chính quyền xã đã có nhiều biện pháp và phương thức trong việc xóa đói giảm nghèo nhưng tình trạng nghèo vẫn là vấn đề bức xúc.
Tất cả những vấn đề trên đã gợi nên trong tôi ý tưởng nghiên cứu đề tài: “Tìm hiểu thực trạng nghèo đói của người dân xã Thái Ninh huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ hiện nay”
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
2.1.Ý nghĩa khoa học:
Kết quả nghiên cứu làm sáng tỏ hệ thống lý thuyết của xã hội học đại cương như bất bình đẳng xã hội, cơ cấu xã hội, phân tầng xã hội, biến đổi xã hội và các chuyên ngành xã hội học: Xã hội học kinh tế như lý thuyết tăng trưởng kinh tế, lý thuyết về phân hóa giàu nghèo.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn:
Kết quả nghiên cứu của đề tài giúp ta hiểu rõ thực trạng nghèo của một xã trung du miền núi. Từ đó có cái nhìn toàn diện hơn về thực trạng nghèo chung của cả nước. Đề tài cũng góp phần nhỏ bé trong việc giúp nhà nước đưa ra những chính sách đưa đến những người dân ở vùng trung du miền núi. Từ đó chính quyền địa phương thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo của tốt hơn. Đề tài cũng giúp người dân hiểu rõ hơn về thực trạng của mình để họ có thể phát triển kinh tế gia đình, thoát khỏi cảnh nghèo
3. Mục tiêu nghiên cứu
- Tìm hiểu thực trạng nghèo đói nghèo của xã Thái Ninh huyện thanh ba tỉnh Phú Thọ
- Phân tích những nguyên nhân ảnh hưởng đến tình hình nghèo đói của xã Thái Ninh huyện Thanh Ba tỉnh Phú Thọ
Xu hướng đề xuất và đề xuất những khuyến nghị mang tính khả thi
4. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu:
Thực trạng nghèo đói của người dân xã Thái Ninh huyện Thanh Ba tỉnh Phú Thọ
4.2. Khách thể nghiên cứu:
Hộ gia đình xã Thái Ninh huyện Thanh Ba tỉnh Phú Thọ
4.3. Phạm vi nghiên cứu:
Xã Thái Ninh huyện Thanh Ba tỉnh Phú Thọ
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi
Tổng số bảng hỏi được phát ra là 100 bản và thu về đủ 100 bản. Bảng hỏi đề cập đến vấn đề thu nhập, chi tiêu của các hộ gia đình, các ngành nghề, trình độ học vấn và các điều kiện sinh hoạt, các phương tiện sinh hoạt trong các hộ gia đình. Ngoài ra bảng hỏi còn đề cập đến nguyên nhân của thực trạng nghèo đói, đánh giá của người dân về mức sống và kinh tế của mỗi hộ gia đình. Quá trình điều tra bằng bảng hỏi được tiến hành như sau: Trước tiên việc chọn mẫu căn cứ vào cơ cấu nghề nghiệp chính trên địa bàn, người trả lời chủ yếu là những đối tượng có khả năng đánh giá về dời sống vật chất cũng như tinh thần của gia đình. Trong quá trình phỏng vấn hầu hết các câu hỏi và câu trả lời được đưa ra một cách khách quan rõ ràng, sau đó ghi chép chính xác phương án lựa chọn của người trả lời. Vì vậy, phần lớn kết quả thu được từ bảng hỏi là ý kiến đánh giá thực tế của người dân địa phương. Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu tại địa bàn, bên cạnh sự giúp đỡ của bà con nhân dân và chính quyền địa phương thì tôi vẫn gặp một số khó khăn sau: Một số người dân ngại trả lời các câu hỏi vì họ sợ liên lụy, ảnh hưởng đến lợi ích cá nhân. Đồng thời về một số mặt thì do tâm lý người dân ngại nêu điều kiện khó khăn, họ lại trả lời khiêm tốn ở một số câu hỏi về đời sống, mức thu nhập..Và một khó khăn khác là có một số câu hỏi không phù hợp với thực tế tại địa bàn.Qua thực tế điều tra và xử lý số liệu tôi thu được cơ cấu mẫu sau:
Thµnh phÇn mÉu
Sè lîng ngêi
Tû lÖ( %)
Tuæi cña ngêi tr¶ lêi
18 -25
1
1
25 -40
36
36
41 -60
31
31
>60
32
32
Tr×nh ®é häc vÊn cña ngêi tr¶ lêi
Mï ch÷
1
1
TiÓu häc
49
49
THCS
41
41
THPT
9
9
NghÒ nghiÖp
Trồng trọt
94
94
Chăn nuôi
2
2
Công chức
1
1
Thủ công nghiệp
1
1
Khác
2
2
5.1 Phương pháp phỏng vấn sâu:
Là phương pháp thu thập thông tin bằng tác động tâm lý xã hội trực tiếp giưa người đi hỏi và người trả lời. Phỏng vấn hoàn toàn tự do trong cách dẫn dắt nhằm thu thập được thông tin mong muốn nhằm để hiểu sâu, hiểu kỹ hơn vấn đề nghiên cứu. Từ đề tài này có thể tìm hiểu nguyên nhân thực trạng nghèo của người dân địa phương.
5.2. Phương pháp phân tích bảng hỏi:
Dựa trên số liệu đã xử lý, tiến hành phân tích số liệu để từ đó thấy được số liệu định lượng cho đề tài nghiên cứu. Đồng thời đọc qua sách báo, internet nhằm làm phong phú vấn đề nghiên cứu
5.3. Phương pháp quan sát
Phương pháp quan sát là tất cả cách thức, quy tắc để tiếp cận và thu nhận được các thông tin thực nghiệm từ thực tế xã hội. Trong đề tài là quan sát hình thức nhà ở, các phương tiện, đồ dùng sinh hoạt trong gia đình.. có trong gia đình được phỏng vấn, quan sát toàn xã nghiên cứu
6. Giả thuyết
- Mức thu nhập, chi tiêu của các gia đình còn ít
- Gia đình nghèo đói thường đông con
- Đói nghèo ở xã Thái Ninh có xu hướng giảm dần
7. Khung lý thuyết
NỘI DUNG CHÍNH
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Phương pháp luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -Lê nin mà cốt lõi là học thuyết về sự phát triển xã hội, là lý luận chung nhất để nhận thức thế giới khách quan dựa trên chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng
Với đề tài này người viết lấy chủ nghĩa duy vật lịch sử làm phương pháp luận nhận thức vấn đề nghiên cứu. Như vậy theo phương pháp này khi tiếp cận đề tài nghiên cứu cần tuân thủ những yêu cầu sau:
+ Nhận thức không chỉ bên ngoài sự vật hiện tượng mà phải nhận thức được bản chất bên trong cũng như vận động và kết quả của nó.
+ Khi xem xét các hiện tượng cần đặt chúng trong mối liên hệ biện chứng với nhau. Bởi vì mọi sự vật hiện tượng nảy sinh không do một nguyên nhân xảy ra.
+ Cần phải nhìn nhận xem xét đối tượng nghiên cứu trong điều kiện lịch sử riêng biệt của nó chứ không nhìn nhận một cách siêu hình.
Các lý luận và phương pháp này đòi hỏi khi nghiên cứu các sự kiện, các quá trình xã hội phải đặt trong hoàn cảnh, điều kiện lịch sự cụ thể hay các sự kiện, hiện tượng, quá trình đó phải đặt trong một phạm vi không gian nhất định, khoảng thời gian cụ thể và trong một mạng lưới các quan hệ xã hội xác định. Lý luận và phương pháp luận Mác xít ngoài yêu cầu nghiên cứu các sự vật hiện tượng trong mối liên hệ biện chứng, còn đòi hỏi xem xét chúng trong sự vận động biến đổi. Có nghĩa là chúng ta phải nghiên cứu vấn đề từ trong mối liên hệ qua lại đến những biểu hiện đang diễn ra và xu thế vận động biến đổi của chúng trong tương lai.
Áp dụng vào đề tài ta thấy để hiểu rõ được thực trạng nghèo đói thì không thể xem xét bên ngoài thực trạng mà phải xem xét được bản chất bên trong của hành động đó, tức là tìm hiểu nguyên nhân. Đó là quy luật của cuộc sống. Và khi xem xét thực trạng đó ta phải đặt chúng trong mối liên hệ biện chứng bởi vì tìm hiểu một vấn đề nhất là thực trạng nghèo đói không chỉ do một nguyên nhân. Xem xét vấn đề nghèo đói trong quá trình thay đổi của thời kỳ mới và trong xu thế vận động biến đổi của nó ở tương lai Và phải đặt chúng trong bối cảnh lịch sử riêng biệt của Phú Thọ
Nhìn nhận quan điểm lịch sử khi tìm hiểu vấn đề nghèo đói ở nông thôn xã Thái Ninh ta sẽ có được các chỉ báo kinh tế xã hội, phong tục tập quán và đặc trưng văn hóa rất cụ thể của nó. Trong bối cảnh Việt Nam thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, toàn cầu hóa thì thực trạng nghèo được đặt ra là hết sức bức thiết không chỉ một quốc gia nào. Nhất là Việt Nam- Nước có nền kinh tế kém phát triển. Thực trạng nghèo cần được quan tâm hơn nữa.
1.1.2. Lý thuyết áp dụng
Xuất phát từ lý luận chung đó, người viết sử dụng một số lý thuyết xã hội học để tiếp cận vấn đề nghiên cứu: Tăng trưởng kinh tế, lý thuyết cơ cấu xã hội, bất bình đẳng xã hội, phân tầng xã hội.
Lý thuyết kinh tế của Marx: Lý thuyết kinh tế của Marx không tách biệt ra khỏi xã hội. Trong lý luận của mình, Marx coi kinh tế là nền tảng, là huyết mạch chi phối và làm biến đổi toàn bộ toàn bộ xã hội. Marx chỉ ra vai trò quyết định của yếu tố vật chất, của lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất đối với hành động và ý thức của cá nhân, nhóm xã hộ. Điều này được phản ánh rõ trong luận điểm của Marx: Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội
Khái niệm phân tầng được xã hội học sử dụng thuật ngữ này để nói tới trạng thái phân chia xã hội ra thành các tầng lớp. Tuy nhiên xét vào bản chất thì khái niệm này nhấn mạnh yếu tố “tĩnh” trong khi xã hội luôn luôn biến đổi. Hơn nữa, trong xã hội không có sự phân biệt rạch ròi giữa các tầng lớp mà thường xuyên có sự chuyển hóa lẫn nhau do tính cơ động tạo nên. Mặc dù vậy, thuật ngữ phân tầng cũng mô tả được trạng thái nhiều tầng lớp của xã hội trong điều kiện thời gian và không gian nhất định. Đề tài nghiên cứu thực trạng nghèo cũng thể hiện rõ sự phân tầng. Trong xã hội, có thể tạm chia tầng lớp giàu và tầng lớp nghèo. Tuy nhiên khi xem xét tầng lớp nghèo thì không thể xét chúng trong trật tự “tĩnh”, tức là không có sự biến đổi. Khi xã hội phát triển đến một mức độ nào đó, tầng lớp nghèo có thể sẽ thay đổi. Họ sẽ không còn ở vị trí nghèo nữa mà có thể di chuyển đến tầng lớp giàu. Đó là sự thay đổi về thời gian. Sự biến đổi giàu nghèo cũng thể hiện ngay trong chính không gian vùng địa lý nào đó, vùng này với vùng khác. Hay sự biến đổi đó diễn ra ngay trong lòng vùng nghèo. Có thể nói phân tầng xã hội dựa vào sự biến đổi, sự vận động của xã hội.
- Nhìn chung nói đến phân tầng xã hội, một số tác giả đề cập đến bất bình đẳng xã hội. Bất bình đẳng là sự không bình đẳng (không bằng nhau) về cơ hội hoặc lợi ích đối với những cá nhân khác nhau nằm trong một nhóm hoặc nhiều nhóm xã hội. Phân hóa giàu nghèo gắn liền với sự phân hóa xã hội, phân tầng xã hội và bất bình đẳng xã hội. Tất cả các hiện tượng này với các nguyên nhân, hình thức biểu hiện, hậu quả và xu hướng biến đổi của chúng đều là những chủ đề trọng tâm của nghiên cứu xã hội nói chung và xã hội học kinh tế nói riêng. Học thuyết Marx nhấn mạnh các nguyên nhân kinh tế của sự phân chia giai cấp và sự phân tầng xã hội. Lý thuyết của Weber vạch ra các nhân tố kinh tế, phi kinh tế và tình huống thị trường của sự phân tầng xã hội. Thuyết chức năng của Davis và Moore và thuyết hệ thống xã hội của Parsons nhấn mạnh các yếu tố chức năng của sự phân tầng xã hội và bất bình đẳng xã hội. Thuyết mâu thuẫn của Dahrendorf và Collins tập trung làm rõ vai trò của mầu thuẫn quyền lực đối với bất bình đẳng xã hội.
Bất bình đẳng xã hội là sự phân hóa xã hội đến mức làm tăng lợi ích của tầng lớp xã hội này với cái giá của sự phương hại lợi ích của nhóm xã hội khác trong cấu trúc phân tầng xã hội nhất định. Sự phân hóa xã hội luôn dẫn đến sự khác nhau thậm chí sự phân tầng xã hội nhưng không phải là phân tầng xã hội nào cũng là bất bình đẳng xã hội. Ví dụ sự khác nhau về năng lực và trình độ học vấn và tay nghề có thể dẫn đến sự khác nhau về thu nhập giữa các nhóm người. Nhưng ở đây chưa chắc đã là sự bất bình đẳng xã hội bởi vấn đề còn nằm ở chỗ xã hội học tập và cơ hội việc làm cũng như nhiều yếu tố khác.
Bất bình đẳng xã hội diễn ra trên cấp độ cá nhân, hộ gia đình, nhóm xã hội, trong phạm vi một cộng đồng, một vùng, một quốc gia. Đồng thời giữa các quốc gia, giữa các khu vực trên thế giới cũng xảy ra sự phân tầng xã hội, trong đó một số nước lâm vào cảnh đói nghèo, lạc hậu và một số nước trở nên phồn vinh.
Nhìn chung quan điểm của các nhà khoa học quanh vấn đề kinh tế, bất bình đẳng và phân tầng xã hội là khác nhau, thậm chí độc lập nhau. Chẳng hạn như Kuznets với giả thuyết cho rằng: Trong lịch sử phát triển nhiều nước, sự bất bình đẳng thường tăng dần ở giai đoạn đầu, đến giai đoạn phát triển kinh tế phát triển đạt trình độ nhất định thì sự bất bình đẳng sẽ giảm đi. Những phân tích gần đây của Adelman và Moris (1987) ở một số nước đang phát triển lại cho thấy giả thuyết trên không hoàn toàn đúng. Các ông cho rằng phát triển kinh tế và công bằng xã hội là 2 mục tiêu không hoàn toàn mâu thuẫn và có thể giải quyết được bình đẳng xã hội ngay trong giai đoạn đầu của sự phát triển.
- Cách tiếp cận chu trình cuộc sống: Theo quan niệm này, hành vi cá nhân bị tác động bởi nhiều yếu tố mà cá nhân đó sống trong xã hội. Khi xã hội biến đổi thì nhu cầu của mỗi người sẽ biến đổi theo từng thời điểm lịch sử cụ thể. Theo cách tiếp cận này thì thực trạng nghèo ở mỗi vùng, mỗi nơi sẽ không giống nhau. Khi kinh tế của tỉnh nói chung và xã nói riêng thay đổi sẽ làm cho thực trạng nghèo thay đổi: Số lượng nghèo sẽ ít đi, đời sống của đại bộ phận dân cư xã Thái Ninh sẽ khá lên.
1.2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Vấn đề nghèo đói trước khi đổi mới không được quan tâm nhiều. Theo cơ chế tập chung bao cấp, mọi người cùng làm cùng hưởng theo cách “ Bình quân chủ nghĩa” hầu như các hộ gia đình có điều kiện kinh tế đều như nhau hay nói cách khác là “ Chia đều sự nghèo đói”.Từ ngày đổi mới, kinh tế đất nước phát triển nhưng kéo theo đó là hàng loạt vấn đề xã hội nảy sinh, trong đó sự phân hóa giàu nghèo. Trên thực tế, chỉ đầu thập niên 90 của thế kỷ 20 vấn đề nghèo đói mới được nghiên cứu 1 cách khoa học. Hiện nay vấn đề xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam đang được quan tâm chú ý.
Chúng ta có thể kể ra rất nhiều chương trình tiêu biểu được thực hiện bởi các nhà khoa học thuộc các cơ quan, đơn vị có uy tín như: Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Bộ lao động, thương binh xã hội, tổng cục thống kê… Đó là “khảo sát Xã Hội Học về phân tầng xã hội” đề tài KX 04-02 do PGS Tương lai làm chủ nhiệm; “ Về phân tầng xã hội ở nước ta giai đoạn hiện nay” đề tài KX 07-05 do PGS. PTS Đỗ Nguyên Phương làm chủ nhiệm; “Khảo sát XHH về nhà ở của người nghèo ở Hà Nội” Viện Xã Hội Học, tháng 12 -1994; “Chương trình xóa đói giảm nghèo ở Hà Nội” Viện Xã Hội Học, tháng 12 -1994; “ Chương trình xóa đói giảm nghèo” của Bộ lao động thương binh xã hội (1992); Điều tra tình trạng nghèo ở Việt Nam, tổng cục thống kê, 1993; Ngân hàng thế giới (WB). 1998, “Việt Nam: Proverty Assessment” an Stategye”; Save the children UK ( 1999); Chương trình phát triển nông thôn miền núi Lào Cai (MRDP): “ Báo cáo đánh giá về nghèo khổ với sự tham gia của cộng đồng ( 1999); Nhóm nghiên cứu Trịnh Duy Luân, Vũ Tuấn Anh, Nguyễn Xuân Mai: “ Nghèo khổ và các vấn đề xã hội ở Hải Phòng”.
Những công trình tiêu biểu kể trên đã đặt nền móng , là cơ sở cho các nghiên cứu tiếp theo. Trên tinh thần đó đề tài này chỉ là một nghiên cứu bổ xung với hy vọng góp phần bé nhỏ làm cho việc nghiên cứu vấn đề nghèo đói được nhìn nhận hoàn chỉnh hơn, mới mẻ hơn.
1.3. Một số khái niệm liên quan
1.3.1. Nghèo đói
Một số học giả người nước ngoài cho rằng: nghèo đói là tình cảnh mà trong đó sự tăng lên chậm chạp của thu nhập đẩy các cá nhân hoặc gia đình tới chỗ tồi tệ hơn bao giờ hết, như là hậu quả của sự mất những quyền lợi và lợi ích khác nhau. Chẳng hạn những người có thu nhập thấp ở Anh, họ không chỉ được chọn cho trợ cấp an toàn xã hội mà còn được giảm tiền đóng thuế thu nhập và bảo hiểm quốc gia. Thu nhập tăng lên không đáng kể có thể dẫn đến mất an toàn xã hội và đặt họ vào chỗ phải trả tiền thuế thu nhập và bảo hiểm quốc gia cao. Sự tăng lên chậm chạp của thu nhập có thể xem là ít hơn khoản phụ trội mà họ phải trả cho thuế thu nhập, bảo hiểm xã hội và sự mất an toàn xã hội của họ.
Sự tồn tại nghèo đói dường như là không thể tránh khỏi ở những nơi mà có một hệ thống phương tiện kiểm soát các lợi ích cộng đồng xã hội.
Tương tự như vậy, đối với các bà mẹ cô đơn có thể coi là nghèo đói khi họ phải làm việc liều lĩnh để có thêm thu nhập chỉ vì một lý do chính đáng là chi trả cho chăm sóc con cái bằng cách kiếm thêm việc ngoài giờ hoặc từ bỏ mọi việc làm .Bà ta có thể chăm sóc con cái nhưng chắc chắn sẽ mất đi những lợi ích nghề nghiệp, gồm cả lương hưu (trợ cấp) cũng như tiền đồ sự nghiệp.
Hội nghị quốc tế về xóa đói giảm nghèo tổ chức tại Băng Cốc (Thái Lan), tháng 9/1993 đã đưa ra định nghĩa “Nghèo” như sau: nghèo là tình trạng của một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người, mà nhu cầu này được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán địa phương.
Từ đó ta có định nghĩa về nghèo đói:
* Nghèo đói là khái niệm chỉ nấc thang đầu tiên (dưới cùng) trong hệ thống thang bậc của mức sống. Những người có mức sống nằm trong giới hạn của nấc thang này được coi là nghèo đói.
* Hiện nay những người dễ phải nghèo đói là người già, người ốm, người tàn tật, gia đình lớn, gia đình một cha một mẹ, người thất nghiệp và lương thấp với nghề không đảm bảo.
1.3.2. Nghèo tương đối, nghèo tuyệt đối
* Nghèo tương đối:
Giáo sư Tương Lai: “ Nói chung những người được coi là nghèo tương đối là những người trong số 40% dân số xã hội có mức thu nhập thấp nhất”
Ngân hàn