Quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điểu tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã giành được những thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - chính trị - xã hội. Bức tranh kinh tế - xã hội ngày càng sáng sủa lên, nó phản ánh diện mạo của nền kinh tế.
26 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1231 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu thương mại và các biện pháp phát triển thương mại trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điểu tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã giành được những thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - chính trị - xã hội. Bức tranh kinh tế - xã hội ngày càng sáng sủa lên, nó phản ánh diện mạo của nền kinh tế. Trên lĩnh vực kinh tế tốc độ tăng trưởng tương đối cao và ổn định, thu nhập bình quân đầu người không ngừng tăng lên, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện. Trên lĩnh vực chính trị - xã hội cũng có nhiều chuyển biến tích cực. Để đạt được điều đó, chúng ta không thể không kể đến vai trò của ngành kinh tế khác nói chung. Thương mại cùng với các ngành khác làm thay đổi cơ bản diện mạo của nền kinh tế. Với nỗ lực của mình thương mại ngày càng đóng góp đáng kể vào kết quả của nền kinh tế. Điều này được thể hiện ngay trong giai đoạn hiện nay.
Cùng với quá trình quốc tế hoá hiện nay, thương mại càng nổi lên như một ngành không thể thiếu được, đóng vai trò là ngành dẫn đầu tham gia vào quá trình hội nhập. Tuy nhiên, ngành thương mại nước ta còn tồn tại nhiều hạn chế, nhược điểm. Chưa thực sự giữ được vai trò dẫn dắt các ngành khác trong quá trình chuyển đổi. Vì vậy để khắc phục nhược điểm, phát huy những mặt tích cực, chúng ta phải không ngừng cải thiện để hoàn thiện chính sách thương mại để nó phát huy được vai trò của nó, một công cụ quan trọng để phát triển kinh tế.
Trên cơ sở nghiên cứu vấn đề này, cộng với vốn kiến thức đã được học đồng thời nhằm ngày càng hoàn thiện vấn đề này em đã mạnh dạn lựa chọn đề tài “ Thương mại và các biện pháp phát triển thương mại trong giai đoạn hiện nay". Bố cục của đề tài, ngoài lời nói đầu và kết luận, gồm hai phần chính như sau:
Phần I : Những vấn đề lý luận cơ bản về Thương mại.
Phần II : Các biện pháp phát triển thương mại nước ta trong thời gian tới.
Do phạm vi đề tài rộng, thời gian công nghiệp hạn chế nên trong bài viết của em không tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy, cô giáo và các bạn.
Phần I
Những vấn đề lý luận cơ bản về thương mại
I-/ Tổng quan về thương mại.
1-/ Khái niệm và bản chất của thương mại.
a, Khái niệm:
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung cũng như nền kinh tế thị trường, khái niệm về thương mại có nhiều cách hiểu, song có thể khái quát theo 2 cách chủ yếu sau:
- Theo nghĩa rộng: Thương mại được coi là qúa trình kinh doanh (thương mại đồng nghĩa với kinh doanh). Mọi hoạt động kinh tế nhằm tìm kiếm lợi nhuận dù ở bất kỳ lĩnh vực nào (sản xuất, lưu thông, dịch vụ, đầu tư...cũng đều là thương mại.
- Theo nghĩa hẹp: Thương mại là quá trình mua bán hàng hoá dịch vụ trên thị trường. Theo luật thương mại thì: hoạt động thương mại của thương nhân bao gồm việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm mục đích lợi nhuận hoặc nhằm thực hiện các chính sách kinh tế xã hội.
b, Bản chất kinh tế của thương mại.
Thương mại ra đời và phát triển là do sự phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất. Chuyên môn hoá sản xuất đã làm tăng thêm lực lượng sản xuất xã hội và là một trong những động lực chủ yếu của tăng trưởng kinh tế và tiến bộ khoa học kỹ thuật. Phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất đã đặt ra sự cần thiết phải trao đổi sản phẩm trong xã hội giữa các chủ thể với nhau.
Như vậy thương mại là quá trình trao đổi, mua bán hàng hoá dịch vụ trên thị trường.
Còn sản xuất thì còn trao đổi. Quá trình trao đổi hàng hoá diễn ra lâu dài trong lịch sử phát triển của xã hội loài người. Thoạt đầu trao đổi hàng hoá diễn ra trực tiếp hàng lấy hàng (trao đổi hiện vật). Hình thức này có nhiều hạn chế về không gian thời gian và về các chủ thể trao đổi. Thị trường và thương mại xuất hiện mở ra bước ngoặt xoá đi những hạn chế đó, đồng thời thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển. Đặc biệt khi tiền tệ tham gia và quá trình lưu thông hàng hoá thì trao đổi hiện vật không còn tồn tại nữa. Tiền tệ có mặt trong lưu thông làm cho quá trình trao đổi nhanh hơn, thúc đẩy quy mô sản xuất tăng lên và đời sống nhân dân được nâng cao.
2-/ Nguyên nhân hình thành thương mại.
Để tồn tại và phát triển, con người cần phải thoả mãn nhiều nhu cầu khác nhau. Mà muốn thoả mãn những nhu cầu đó thì không còn con đường nào khác là phải thông qua sản xuất, trao đổi mặt khác trong xã hội, do sự phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất cũng dẫn đến trao đổi hàng hoá giữa các cá thể với nhau. Thật vậy khi có sự phân công lao động và chuyên môn hoá sản xuất thì mỗi người chỉ sản xuất một, một vài sản phẩm, trong khi đó nhu cầu của họ lại cần nhiều hàng hoá. Vì vậy để đáp ứng nhu cầu của mình thì họ phải trao đổi hàng hoá với nhau. Như vậy trao đổi xuất hiện, lúc đầu cần đơn giản trao đổi hiện vật, đặc biệt là nền kinh tế thị trường hiện đại. Khi tiền tệ tham gia vào quá trình lưu thông. Như vậy phân công lao động xã hội, chuyên môn hoá sản xuất, tính chất sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sản phẩm đầu ra là nguồn gốc để hình thành thương mại.
3-/ Quan điểm về thương mại.
a, Chức năng, nhiệm vụ của thương mại.
- Chức năng của thương mại: Trong nền kinh tế thị trường, thương mại thực hiện 4 chức năng chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, thương mại thực hiện chức năng lưu chuyển hàng hoá dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân. Đây là chức năng xã hội của thương mại. Điều này được thể hiện ở:
+ Biểu hiện ở vốn và cơ cấu vốn: đối với vốn lưu động chiếm 80% trong tổng số vốn, trong đó vốn cho lưu chuyển hàng hoá là chủ yếu.
+ Thể hiện ở thu nhập và nguồn hình thành thu nhập, trong đó thu nhập từ hoạt động bán hàng là chủ yếu.
+ Thể hiện ở lao động và năng suất lao động.
+ Chi phí kinh doanh và biện pháp giảm phí.
+ Cơ chế trích, lập và sử dụng các quỹ doanh nghiệp, trong đó quỹ phát triển kinh doanh là chủ yếu, bao gồm quỹ để hiện đại hoá mạng lưới, trang thiết bị cho các hoạt động xếp dỡ hàng hoá, vận chuyển hàng hoá, bảo quản hàng hoá...
Thứ hai, thông qua lưu chuyển hàng hoá, thương mại thực hiện chức năng tiếp tục quá trình sản xuất trong khâu lưu thông. Để thực hiện chức năng này, thì thương mại phải làm các nghiệp vụ như chủ yếu như: vận chuyển hàng hoá, bảo quản hàng hoá, chuẩn bị hàng hoá để xuất bản. Số lượng lao động trong các nghiệp vụ này thường chiếm khoảng 80% lao động trong các doanh nghiệp thương mại và chính chức năng này nên thương mại được coi là ngành sản xuất vật chất đặc biệt.
Thứ ba, thương mại chức năng chuyển qua hình thái giá trị. Thông qua các hành vi của lưu thông hàng hoá mà hàng hoá được thay đổi giá trị của nó, từ hàng sang tiền. Để thực hiện được chức năng này, các doanh nghiệp thương mại phải thực hiện các công việc cụ thể sau: đưa ra kế hoạch kinh doanh, phải có hệ thống kế toán, thống kê, đội ngũ thanh tra kiểm tra...
Thứ tư, thương mại thực hiện chức năng gắn sản xuất với thị trường và gắn nền kinh tế nước ta với nền kinh tế thế giới.
- Nhiệm vụ của thương mại: Huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn lực đầu tư và lĩnh vực thương mại; đáp ứng tốt nhất mọi nhu cầu của sản xuất và đời sống về các hàng hoá dịch vụ, góp phần giải quyết những vấn đề kinh tế xã hội quan trọng của đất nước; không ngừng hoàn thiện bộ máy quản lý kinh doanh.
b, Đặc trưng của thương mại trong nền kinh tế thị trường.
Trong cơ chế thị trường, mọi hoạt động của nền kinh tế đều vận động theo những quy luật nhất định nào đó. Thương mại cũng không nằm ngoài sự vận động chung đó. Trong thương mại mọi hoạt động đều diễn ra theo quy luật mua để bán rồi lại tiếp tục bán để mua. Cứ như thế mua - bán là vòng chu chuyển khép kín của thương mại. Vì vậy thương mại đã nổi lên với những đặc trưng cơ bản của nó, những đặc trưng này có thể được xem xét với những khía cạnh sau:
- Trong thương mại, mọi hoạt động đều diễn ra một cách tự do bình đẳng, tức là mọi người đều được tự do mua bán, tự do trao đổi hàng hoá trên cơ sở nguyên tắc ngang giá chung. Người ta có quyền mua cái gì người ta thích, bán cái gì mà người ta có.
Như vậy trong quá trình mua - bán diễn hai thái cực trái ngược nhau đó là người mua bao giờ cũng muốn mua hàng hoá tốt nhưng giá phải rẻ còn người bán thì luôn mong muốn bán với giá cao. Đây là xu hướng biến động cung - cầu trong mọi nền kinh tế là không loại trừ cả nền kinh tế thị trường. Quy luật tự do mua bán, tự do lưu thông đã tồn tại từ lâu nhưng nó càng khẳng định vai trò rõ rệt trong nền kinh tế thị trường. ở nước ta, trong giai đoạn kinh tế như hiện nay, với chủ trương phát triển một nền kinh tế thị trường có nhiều thành phần thì vấn để tự do kinh doanh, tự do mua bán lại càng được Đảng và Nhà nước ta khẳng định và tiếp tục thừa nhận. Nhưng tự do kinh doanh phải đi đôi với việc tuân thủ pháp luật. Và đây chính là đặc trưng thứ hai của thương mại.
- Hoạt động thương mại phải nằm trong khuôn khổ của pháp luật:
Theo điều 57 Hiến pháp năm 1992 của nước ta thì “ Mọi cá nhân, tổ chức đều được tự do thành lập doanh nghiệp nhưng phải nằm trong khuôn khổ của pháp luật”. Như vậy với đặc trưng này, thương mại càng có vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Trong cơ chế thị trường, Nhà nước chỉ can thiệp vào nền kinh tế thị trường bằng công cụ thuế và pháp luật. Đây là hai công cụ chủ yếu được Nhà nước ta sử dụng, song để thực hiện được nó thì còn rất nhiều khó khăn nan giải. Do đó để kiểm soát được nền kinh tế nói chung và ngành thương mại nói riêng thì Nhà nước cũng đã đưa ra nhiều chính sách, bộ luật để hướng dẫn điều tiết các hoạt động của nó đi cùng với xu hướng mục tiêu của nền kinh tế.
c, Nội dung của hoạt động thương mại.
Thương mại là một ngành, một lĩnh vực phức tạp và khó kiểm soát đặc biệt là trong giai đoạn như hiện nay khi mà chủ trương phát triển kinh tế của Nhà nước ta là phát triển nền kinh tế thị trường, đồng thời là mở cửa giao lưu buôn bán với nước ngoài. Do đó để điều tiết hướng dẫn thương mại đi đúng hướng của nó thì trên cơ sở chúng ta phải nghiên cứu kỹ các nội dung cơ bản của hoạt động này. Một trong những nội dung có thể được kể đến là:
Thứ nhất là nghiên cứu, xác định nhu cầu và cầu của thị trường về các loại hàng hoá, dịch vụ. Đây là công việc đầu tiên trong quá trinh hoạt động kinh doanh thương mại. Đối với các nhà kinh doanh thương mại, điều quan trọng là phải nắm cho được các loại nhu cầu hàng hoá, dịch vụ, đặc biệt là nhu cầu cho tiêu dùng sản xuất và nhu cầu đặt mua của xã hội và dân cư.
Thứ hai là xác định và khai thác các nguồn hàng để thoả mãn các nhu cầu của xã hội. Trong điều kiện vẫn còn tồn tại nhu cầu về hàng hoá kinh tế, việc tạo nguồn hàng để đáp ứng các nhu cầu là công việc rất quan trọng.
Thứ ba là thực hiện cân đối giữa nhu cầu và nguồn hàng tím các biện pháp bảo đảm cân đối như tăng cường sản xuất trong nước, tìm các nguồn hàng thay thế...
Thứ tư là tổ chức các mối quan hệ giao dịch thương mại. ở khâu công tác này phải giải quyết các vấn đề về kinh tế, tổ chức và luật pháp phát sinh giữa các doanh nghiệp trong quá trình mua bán hàng hoá.
Thứ năm là tổ chức hợp lý các kênh phân phối hàng hoá. Đây là qúa trình liên quan tới việc điều hành và vận chuyển hàng hoá, dịch vụ từ sản xuất đến tiêu dùng nhằm đạt hiệu quả tối đa. Quá trình này giải quyết các vấn đề: thay đổi quyền sở hữu tài sản, di chuyển hàng dự trữ, bảo quản đóng gói, bốc dỡ và cung cấp thông tin thị trường cho nhà sản xuất, tránh rủi ro trong kinh doanh.
d, Vị trí và vai trò của thương mại trong nền kinh tế thị trường.
- Vị trí: thương mại có một vị trí quan trọng trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Trước hết thương mại là một bộ phận hợp thành của tái sản xuất. Thương mại nối liền giữa sản xuất với tiêu dùng. Dòng vận động của sản phẩm hàng hoá từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng phải thông qua khâu phân phối và trao đổi. Thì chính thương mại đã bao gồm cả hai khâu này. ở vị trí cấu thành của tái sản xuất, thương mại được coi như là hệ thống dẫn lưu, tạo ra sự liên tục của quá trình tái sản xuất. Khâu này bị ách tắc sẽ dẫn tới sự khủng hoảng của sản xuất và tiêu dùng. Sản xuất hàng hoá với mục đích là để thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng để trao đổi, mua bán hàng hoá và để thực hiện được mục đích này khi và chỉ khi phải thông qua thương mại. Thứ ba là thương mại là lĩnh vực kinh doanh, thu hút trí lực và tiền vốn của các nhà đầu tư để thu lợi nhuận. Bởi vậy kinh doanh thương mại đã trở thành ngành sản xuất vật chất thứ hai theo như nhận xét của một số nhà kinh tế thì thương mại là một ngành sản xuất đặc biệt.
- Vai trò của thương mại: Thương mại đã được coi là công cụ quan trọng, một mũi nhọn đột kích phá vỡ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp để chuyển sang cơ chế thị trường.
Thứ nhất, thương mại thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, chấn hưng các quan hệ hàng hoá tiền tệ. Hoạt động mua bán tạo ra động lực kích thích người sản xuất không ngừng gia tăng khối lượng sản phẩm của mình, thúc đẩy phân công lao động xã hội, tổ chức lại sản xuất, hình thành nên các vùng chuyên môn hoá lớn. Phát triển thương mại cũng có nghĩa là phát triển các quan hệ hàng hoá tiền tệ. Đó là con đường ngắn nhất để chuyển từ sản xuất tự nhiên thành sản xuất hàng hoá.
Thứ hai, thương mại kích thích sự phát triển của lực lượng sản xuất, kích thích nhu cầu và gợi mở nhu cầu.
Thứ ba, thương mại góp phần mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế làm cho quan hệ thương mại giữa nước ta với các nước khác không ngừng phát triển.
Trong tầm vĩ mô, thương mại có vai trò quan trọng, định hướng cho sự sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp:
Thứ nhất, thương mại bảo đảm cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra bình thường và liên tục. Quá trình tái sản xuất ở đây được khởi đầu bằng việc đầu tư vốn cho mua sắm các yếu tố sản xuất, tiếp theo là quá trình sản xuất ra hàng hoá, rồi khâu cuối cùng là tiến hành tiêu thụ sản phẩm. Trong chu kỳ của quá trình tái sản xuất đó, thương mại có mặt ở hai khâu là phân phối và trao đổi. Thương mại bảo đảm các yếu tố đầu vào cho sản xuất và thực hiện khâu tiêu thụ sản phẩm.
Thứ hai, thương mại đảm bảo thực hiện được mục tiêu lợi nhuận. Doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì phải có lợi nhuận, lợi nhuận là mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp, để đạt được mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp thì doanh nghiệp phải thực hiện được mục tiêu trung gian là tiêu thụ sản phẩm.
Thứ ba, thương mại có vai trò điều tiết, hướng dẫn sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Qua hoạt động thương mại sẽ có những thông tin từ phía người mua, từ thị trường. Trên cơ sở đó, nó sẽ hướng dẫn sản xuất phù hợp với nhu cầu thường xuyên thay đổi của thị trường.
Thứ tư, thương mại tác động đến vị thế của doanh nghiệp trên thị trường.
II-/ Thực trạng thương mại nước ta trong thời gian qua.
1-/ Trong thời gian qua, cùng với quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng XHCN, thương mại đã cùng các ngành, các địa phương khác nỗ lực phấn đấu đạt được những thành tựu quan trọng, tạo đà, bước để cho những năm tiếp theo. Trên lĩnh vực thương mại, có những chuyển biến rõ nét, góp phần quan trọng vào mục tiêu chung của nền kinh tế. Điều này thể hiện ở trên những khía cạnh sau:
Thứ nhất, trên lĩnh vực mua bán hàng hoá, chúng ta đã chuyển việc mua bán hàng hoá từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang mua bán theo cơ chế thị trường, giá cả được hình thành trên cơ sở giá trị và quan hệ cung cầu. Trong thương mại nói chung là không còn tình trạng ép giá đầu ra, nâng giá đầu vào, Nhà nước không chi phối hoàn toàn giá cả trên thị trường mà chỉ tác động vào thị trường bằng những công cụ điều tiết của mình để cho thị trường tự điều tiết lấy, tự bình ổn lấy. Thêm vào đó, do đời sống của người dân có nhiều cải thiện, được nâng cao nên sức mua trên thị trường tăng lên đáng kể. Tính đến năm 1999, tổng mức luân chuyển hàng hoá bán lẻ xã hội ước đạt 195 ngàn tỷ đồng, tăng khoảng 6% so với năm 1998 (184 ngàn tỷ đồng), nếu loại trừ yếu tố giá thì chỉ tăng khoảng 1,5%, đây là năm có tốc độ tăng thấp nhất trong giai đoạn 1991-1999. Thông thường, ở nước ta tốc độ tăng trưởng GDP năm 1999 là 4,8% thì lưu chuyển hàng hoá bán lẻ phải tăng ở mức thấp nhất là 10% mới tương xứng. Vậy mà nếu tốc độ lưu chuyển hàng hoá là 6% thì vấn đề đặt ra cho tổng cung, tổng cầu là một vấn đề đáng lưu ý.
Giá cả nói chung trong những năm qua không có nhiều biến động, phù hợp với thu nhập của người dân, ngày càng đáp ứng được nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng. Nếu như trước kia, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, giá cả nói riêng và toàn bộ các hoạt động mua bán trao đổi đều do Nhà nước chi phối quyết định dẫn đến tình trạng cung không đáp ứng nổi cầu, sản xuất cầm chừng, lãi giả lỗ thật, việc hạch toán sản xuất kinh doanh thực hiện theo chế độ hạch toán kinh tế. Thì bây giờ trong cơ chế thị trường, Nhà nước cho phép các thành phần kinh tế tự do sản xuất kinh doanh, do vậy vấn đề đặt ra là phải làm thế nào để giảm mức tối đa chi phí đầu vào thì từ đó mới có được lợi nhuận. Do đó, các doanh nghiệp phải chuyển sang hạch toán theo chế độ hạch toán kinh doanh, giá cả được hình thành trên cơ sở giá trị, phần lớn là các doanh nghiệp phải chấp nhận giá thị trường. Chính điều này đã trở thành động lực cho kinh tế phát triển, tạo bước chuyển lớn về mặt kinh tế xã hội ở nước ta trong những năm qua.
Thứ hai, một khía cạnh quan trọng của thương mại góp phần làm thay đổi diện mạo của nền kinh tế trong những năm qua và ngày càng có triển vọng trong những năm tới phải kể đến là lĩnh vực xuất nhập khẩu. Nhờ chính sách đổi mới đa dạng hoá đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại và thực hiện chủ trương khuyến khích xuất khẩu của Đảng và Nhà nước ta trong hơn 10 năm qua, đặc biệt từ năm 1991 đến nay, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng. Đến nay, sản phẩm hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam đã có mặt trên thị trường của 140 nước trên hầu khắp các châu lục trên thế giới. Chất lượng, số lượng và chủng loại mặt hàng có những cải thiện đáng kể. Cơ cấu hàng xuất khẩu đã dần được thay đổi theo hướng phát huy lợi thế so sánh trong quan hệ kinh tế quốc tế. Tổng kim ngạch xuất khẩu trong 9 năm (1991-1999) đạt 43 tỷ USD, tăng trung bình hàng năm là 22%, đáp ứng được 3/4 nhu cầu nhập khẩu. Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người tăng từ 36,3USD năm 1991 lên 118USD năm 1998 và dự kiến tăng lên 136USD năm 2000. Những kết quả trên đây có ý nghĩa rất quan trọng, góp phần không nhỏ vào sự tăng trưởng liên tục của nền kinh tế trọng thời gian qua.
Trong lịch sử ngoại thương của nước nhà - một nước nghèo, chiến tranh liên miên, thiên tai chồng chất, lần đầu tiên kim ngạch xuất khẩu vượt qua ngưỡng cửa 10 tỷ USD, theo số liệu của Bộ Thương mại, tổng kim ngạch xuất khẩu của năm 1999 đã lên 11,523 tỷ USD, tăng 23% so với mức thực hiện của năm 1998, vượt 15% kế hoạch đặt ra. Trong đó, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước đạt 8,946 tỷ USD, chiếm 77,6% và tăng 21,2%, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 2,577 tỷ USD, chiếm 22,4% và tăng 30%. Tuy nhiên, những con số đấy còn cho thấy nhiều điều khác:
Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của nước ta hồi phục rất nhanh. Sự tăng nhanh tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trong năm 1999 có phần do sức mua của thị trường khu vực đã bước vào giai đoạn hồi phục. Theo đánh giá của Bộ Thương mại, sức mua của nhiều thị trường khu vực châu á đang dần trở lại bình thường như trước khi khủng hoảng tài chính - tiền tệ.
Thứ hai, giá một số mặt hàng chủ lực của nước ta trên thị trường thế giới tăng nhanh. Cơ cấu hàng xuất khẩu ngày càng phong phú, nhiều mặt hàng xuất khẩu của ta đã có mặt trên nhiều thị trường khu vực và thế giới và ngày càng khẳng định được chỗ đứng của mình. Những mặt hàng chủ lực có thể kể đến là gạo, cà phê, dầu thô, hàng dệt may, giày dép, thuỷ sản... Đây là những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam. Trong những năm tới, để tăng nhanh tốc độ xuất khẩu thì Nhà nước phải chú trọng quan tâm nhiều đến cơ cấu của những mặt hàng này, có như thế mới đạt được những mục tiêu đã đề ra cho những năm sau này.
Cơ cấu xuất nhập khẩu được mô tả thông qua bảng số liệu sau:
Bảng 1 - Chỉ số