Trong số các cây thực phẩm thì dưa chuột bao tử là cây trồng ngắn ngày cung cấp nguyên liệu cho ngành chế biến rau quả xuất khẩu, được nhiều quốc gia ưa thích. Kết quả nghiên cứu cho thấy dưa chuột bao tử là cây có giá trị dinh dưỡng cao, trong quả chứa nhiều vitamin A, B, B6, E và đặc biệt có nhiều men tiêu hóa có lợi cho quá trình đồng hóa và hấp thụ thức ăn tốt hơn.
22 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2384 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu tình hình sản xuất, chế biến và tiêu thụ dưa chuột bao tử ở Lục Nam – Bắc Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Trong số các cây thực phẩm thì dưa chuột bao tử là cây trồng ngắn ngày cung cấp nguyên liệu cho ngành chế biến rau quả xuất khẩu, được nhiều quốc gia ưa thích. Kết quả nghiên cứu cho thấy dưa chuột bao tử là cây có giá trị dinh dưỡng cao, trong quả chứa nhiều vitamin A, B, B6, E…và đặc biệt có nhiều men tiêu hóa có lợi cho quá trình đồng hóa và hấp thụ thức ăn tốt hơn. Nhận thấy được vai trò của dưa chuột bao tử những năm gần đây đã có nhiều cơ quan, doanh nghiệp trong và ngoài nước khảo sát nghiên cứu và chọn Việt Nam là nơi sản xuất dưa chuột bao tử làm nguyên liệu để chế biến cho xuất khẩu sang các nước như Nhật, Mỹ, Nga và một số nước Đông Âu.
Xuất khẩu dưa chuột bao tử của Việt Nam trong những năm qua không ngừng tăng lên. Sản xuất và xuất khẩu dưa chuột bao tử của Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể. Nhu cầu tiêu dùng dưa chuột và các sản phẩm chế biến từ dưa chuột tăng mạnh từ cuối năm 2008 đến nay. Theo số liệu thống kê của tổng cục hải quan, kim ngạch xuất khẩu dưa chuột và các chế phẩm từ dưa chuột 5 tháng đầu năm 2009 đạt hơn 22,2 triệu USD tăng 155% so với cùng kỳ 2008, ước tính trong tháng 6 kim ngạch có thể đạt tới gần 1,9 triệu USD, nâng tổng kim ngạch lên 24,1 triệu USD. Có 33 thị trường nhập khẩu dưa chuột từ Việt Nam, trong đó Liên Bang Nga là nước có kim ngạch cao nhất với 12,3 triệu USD, đây cũng là thị trường có kim ngạch cao nhất trong nửa đầu năm 2008.
So với các cây trồng ngắn ngày khác, cây dưa chuột bao tử có nhiều ưu thế như chi phí cho sản xuất không cao, vòng quay thu hồi vốn nhanh, thời gian thu hoạch ngắn, bình quân 35 – 40 ngày có thể cho thu hoạch và thời gian thu hoạch kéo dài từ 60 – 80 ngày.
Bên cạnh những thuận lợi như đã trình bày ở trên, cây dưa chuột bao tử ở Lục Nam cũng còn gặp phải những vấn đề khó khăn. Trước hết là về trình độ khoa học kỹ thuật của người nông dân còn thấp như trong các công đoạn chọn đất và chuẩn bị đất trồng, cách trồng, khoảng cách làm bầu, xử lý hạt, thời điểm phát bệnh và phun thuốc hóa học.
Xuất phát từ những vấn đề trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “ Tìm hiểu tình hình sản xuất, chế biến và tiêu thụ dưa chuột bao tử ở Lục Nam – Bắc Giang”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu tổng quát
Tìm hiểu tình hình sản xuất, chế biến, tiêu thụ dưa chuột bao tử trên địa bàn huyện Lục Nam, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy việc sản xuất, chế biến, tiêu thụ dưa chuột bao tử.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
Tìm hiểu tình hình sản xuất, chế biến, tiêu thụ dưa chuột bao tử trên cả nước
Tìm hiểu tình hình sản xuất, chế biến, tiêu thụ dưa chuột bao tử trên địa bàn huyện Lục Nam tỉnh Bắc Giang
Tìm hiểu của việc liên kết 4 nhà trong trồng dưa chuột bao tử trên địa bàn huyện Lục Nam tỉnh Bắc Giang
Tìn hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến việc sản xuất, chế biến, tiêu thụ dưa chuột bao tử trên địa bàn huyện Lục Nam
Đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy việc sản xuất, chế biến, tiêu thụ dưa chuột bao tử trên địa bàn huyện Lục Nam.
II. NỘI DUNG
2.1 Tình hình sản xuất, chế biến, tiêu thụ dưa chuột bao tử trên cả nước
Trước kia cây lúa là cây trống chính, tuy nhiên khi điều kiện sống tăng lên thì nhu cầu về rau quả cũng tăng cao, các sản phẩm được chế biến từ dưa chuột bao tử cũng dần được ưa chuộng hơn cả trong và ngoài nước.
Hiện nay dưa chuột bao tử được trồng chủ yếu ở Bắc Giang, Hải Dương, Hưng Yên, Hải Phòng, Hà Nam, Bắc Ninh. Và một số thị trường xuất khẩu chủ yếu như Nhật Bản, Đài Loan, Singapore…
Diện tích trồng dưa chuột bao tử của Việt Nam đã tăng từ 148,42 nghìn ha năm 2005 lên 448,42 nghìn ha năm 2008. Khu vực sản xuất dưa chuột chủ yếu là vúng Đồng bằng Sông Hồng chiếm 23,28% về diện tích và 25,46% về sản lượng (năm 2007).
Việc nâng cao năng lực chế biến dưa chuột bao tử đã được chú trọng hơn. Năm 2000 cả nước chỉ có 12 nhà máy và 48 cơ sở chế biến rau quả có dây chuyền và thiết bị còn lạc hậu, sản phẩm sản xuất ra con chưa phù hợp với thị trường, công suất 150 nghìn tấn/năm. Nhưng sau 4 năm triển khai đề án phát triển rau quả và hoa cây cảnh giai đoạn 2000 – 2010 đã có thêm 12 nhà máy chế biến công suất cao 290 nghìn tấn/năm với thiết bị hiện đại, sản phẩm sản xuất đã có mặt ở 50 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, thâm nhập vòa được những thị trường có yêu cầu cao về chất lượng cũng như mẫu mã sản phẩm như thị trường Mỹ và EU.
Từ khi có quyết định số 80/2002/QĐ – TTg ngày 24/6/2002 về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hóa thông qua hợp đồng đến tháng 6/2006 Tổng công ty Rau quả Việt Nam đã ký 924 hợp đồng tiêu thụ sản phẩm dưa chuột bao tử.
Dưa chuột bao tử khi các hộ trồng ra không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn dùng cho xuất khẩu ra các nước trên thế giới. Năm 2007, tổng công ty rau quả Việt Nam đã xuất khẩu được 47.423 tấn dưa chuột hộp và 552 tấn dưa chuột đóng lọ thủy tinh.
Năm 2008, tổng diện tích trồng là 1.685,56 ha, sản lượng xuất khẩu là 70.478 tấn dưa chuột hộp và 1718 tấn dưa chuột đóng lọ thủy tinh. Tổng giá trị xuất khẩu là 7,98 triệu USD.
Thị trường xuất khẩu dưa chuột và các dạng chế phẩm từ dưa chuột đã được mở rộng thêm 10 nước trong đó chủ yếu là các nước trong khối EU như Hà Lan, Bồ Đào Nha và khối ASEAN là Campuchia, Singapo. Nhu cầu tiêu dung dưa chuột và các dạng chế phẩm, từ dưa chuột đang tăng mạnh kể từ cuối năm 2008 đến nay. Theo số liệu cục Hải Quan, kim ngạch xuất khẩu dưa chuột bao tử và các dạng chế phẩm 5 tháng đầu năm 2009 đạt hơn 22,2 triệu USD, tăng 155,6% so với năm cùng kỳ năm 2008. Tháng 6 năm 2009 kim ngạch xuất khẩu sản phẩm đạt gần 1,9 triệu USD nâng tổng kim ngạch xuất khẩu dưa chuột nửa đầu năm 2009 lên 24,1 triệu USD. Trong năm tháng đầu năm 2009, xuất khẩu mặt hàng dưa chuột đến các thị trường đều tăng. Trong đó xuất khẩu sang 3 thị trường Nga, Nhật Bản và Rumani chiếm ưu thế vượt trội chiếm 77,5% tổng kim ngạch.
Có 33 thị trường nhập khẩu dưa chuột từ Việt Nam trong đó Liên Bang Nga đạt kim ngạch cao nhất với 12,3 triệu USD, tăng 155,55% so với cùng kỳ. Đây cũng là thị trường đạt kim ngạch cao nhất kể từ năm 2008 đến nay. Sản phẩm dưa chuột và các dạng chế phẩm từ dưa chuột được tiêu dùng Nga rất ưa chuộng. Trong đó có mặt hàng dưa chuột dầm dấm là mặt hàng luôn đạt kim ngạch cao nhất và có mức tăng trưởng xuất khẩu ổn định. Số liệu thống kê cho thấy kim ngạch xuất khẩu dưa chuột bao tử dầm dấm trong tháng 12 năm 2008 chỉ đạt gần 900 nghìn USD, nhưng tháng 3 năm 2009 đã tăng lên 2 triệu USD, tháng 5 năm 2009 đạt 3,1 triệu USD. Tính chung 5 tháng đầu năm 2009 kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này đạt hơn 9 triệu USD tăng 95% so với cùng kỳ. Tiếp đến là mặt hàng dưa chuột trung tử dầm dấm với kim ngạch đạt gần 2 triệu USD. Dưa chuột muối và dưa chuột ngâm với hành, ớt, tỏi, cà chua đạt gần 1,2 triệu USD.
2.2 Tình hình sản xuất, chế biến, tiêu thụ dưa chuột bao tử trên địa bàn huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang
2.2.1 Tình hình sản xuất dưa chuột bao tử tại huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang
Cây dưa chuột được trồng tại tỉnh Bắc Giang từ rất lâu một số huyện trồng dưa chuột bao tử lớn như huyện Lạng Giang đã hình thành nên các vùng sản xuất với quy mô lớn đã đáp ứng nhu cầu xuất khẩu lớn, tuy nhiên huyện Lục Nam cây dưa chuột mới được đưa vào trồng từ năm 2007. Xã đầu tiên được đưa vào gieo trồng dưa chuột bao tử đầu tiên của huyện đó là xã Đông Phú, hiện nay đã có thêm một số xã nữa là xã Thanh Lam, Bắc Lũng, Chu Điện….Tuy nhiên xã Đông Phú vẫn là xã có diện tích trồng dưa chuột lướn nhất của huyện có thể do đây là xã có các điều kiện phù hợp cho cây dưa chuột phát triển tốt, bên cạnh đó người dân cũng chăm chỉ tích cực tiếp thu các tiến bộ mới.
Hiện nay diện tích trồng dưa chuột bao tử của cả huyện nói chung và diện tích trồng dưa trên địa bàn xã Đông Phú nói riêng đều có su hương tăng nên qua các năm.
Bảng 1: Quy mô diện tích trồng dưa chuột bao tử của xã Đông Phú
Thôn
2007
2008
2009
Gắn
1,2
3,15
4,35
Thanh sơn
1,1
2,46
3,56
Phong quang
2,3
3,35
5,65
Đoàn tùng
0,5
1,46
1,96
Cây đa
0,8
0,52
1,32
Tân tiến
2,5
2,03
4,53
Hưởng ban
2,8
1,98
4,78
Va
3,2
2,93
6,13
Trong
5,6
6,90
12,5
Yên bắc
8,5
7,97
16,47
Ngoài
1
1,48
2,98
Tổng
29,5
34,24
63,74
(Nguồn: báo cáo tốt nghiệp vai trò liên kết 4 nhà trong sản xuất dưa chuột bao tử tại xã đông phú huyện lục nam tỉnh bắc giang,năm 2009)
Qua bảng số liệu cho thấy nhìn chung thì các năm diện tích trồng dưa chuột bao tử của xã đều tăng nên qua các năm, xã có diện tích trồng dưa chuột bao tử cao nhất và tăng nhanh qua các năm trong xã là thôn Yên Bắc và thôn Trong.
Để tiếp tục mở rộng, phát triển sản xuất cây dưa chuột bao tử thành vùng tập trung, sản phẩm dưa thành hàng hóa góp phần chuyển dịch cơ cấu cây trồng trong giai đoạn tới thì Ủy ban nhân dân huyện Lục Nam đã xây dựng đề án “ Phát triển vùng cây rau màu chế biến xuất khẩu trên địa bàn huyện Lục Nam giai đoạn 2009 – 2015”.
Bảng 2: Dự kiến diện tích trồng thêm cây rau màu chế biến của huyên Lục Nam
ĐVT: ha
Danh mục
2009
2010
2011
2012
2013
2014
2015
Ngô chế biến
5
10
15
25
30
45
50
Dưa bao tử
30
40
60
700
85
95
130
Dưa chuột nhật
20
30
40
60
75
85
120
Cà chua bi
10
15
20
30
40
50
60
Ớt ngọt
3
5
7
9
10
15
20
(Nguồn: báo cáo tốt nghiệp vai trò liên kết 4 nhà trong sản xuất dưa chuột bao tử tại xã đông phú huyện lục nam tỉnh bắc giang,năm 2009)
Qua bảng số liệu cho thấy thì xu hướng đến năm 2015 huyện quy hoạch trồng một số cây rau dùng để chế biến đều tăng nên qua các năm. Một trong những cây được phát triển mạnh nhất trong huyện đến năm 2015 đó là cây dưa bao tử và dưa chuột Nhật.
Diện tích trồng cây rau màu chế biến năm 2009 là 68ha, tập trung ở các xã đó là xã Đông Phú, Bảo Sơn, Thanh Lâm, Bảo Đài, Tam Dị, Đông Hưng, bằng cây trồng dưa chuột bao tử, ớt ngọt, cà chua bi….Diện tích cây màu chế biến năm 2015 đạt 380ha tập trung chủ yếu ở các xã Đông Phú, Thanh Lâm, Chu Điện, Thị Trấn Đồi Ngô, trong đó diện tích trồng dưa chuột bao tử lướn nhất đó là xã Đông Phú đây là xã có điều kiện thuận lợi cho phát triển cây dưa chuột bao tử.
Huyện Lục Nam nói chung, xã Đông Phú nói riêng có thế mạnh sản xuất cây dưa chuột, bên cạnh đó trên địa bàn tỉnh có 8 doanh nghiệp chế biến nông sản thục phẩm xuất khẩu. Trên thực tế sản lượng rau phục vụ chế biến của tỉnh mới chỉ đáp ứng được 50,55% nhu cầu công suất của nhà máy. Điển hình như công ty GOC công suất 14.000 tấn/năm, công ty TNHH phương đông và công ty TPBG công suất 3000 tấn/năm hàng năm các doanh nghiệp này đều phải đi thu mua các sản phẩm từ các tỉnh lân cận. Điều này cho thấy việc mở rộng quy mô diện tích của huyện Lục Nam cho đến năm 2015 là hoàn toàn hợp lý vì khi mở rộng quy mô sản xuất sẽ không phải lo nghĩ đến việc tìm đầu ra cho sản phẩm do các công ty sãn sàng thu mua các sản phẩm cho các hộ dân từ đó nâng cao thu nhập cho các hộ dân.
2.2.2 Tình hình chế biến dưa chuột bao tử tại huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang
Song song với việc không ngừng mở rộng diện tích trồng cây dưa chuột xuất khẩu trên địa bàn tỉnh, các doanh nghiệp tham gia hoạt động sản xuất chế biến dưa chuột xuất khẩu cũng gia tăng nhanh chóng, góp phần thúc đẩy sản xuất nông nghiệp và hoạt động chế biến nông sản trên địa bàn.
Đến nay, số doanh nghiệp và cơ sở sản xuất chế biến trong lĩnh vực này không ngừng phát triển về số lượng và ngày càng chú trọng về chất lượng. Các đơn vị thu mua, công ty chế biến nông sản được thành lập và hoạt động hiệu quả đã dần hình thành mối liên kết chặt chẽ, tạo nên vòng khép kín giữa vùng nguyên liệu và cơ sở chế biến. Hiện nay trên toàn huyện Lục Nam tỉnh Bắc Giang có 3 doanh nghiệp lớn chế biến dưa chuột bao tử đó là công ty CPCBTPXK Bắc Giang, GOC, công ty rau quả Xuất Khẩu Hải Dương
. Để có đủ dưa nguyên liệu sản xuất chế biến, ngoài sản lượng dưa đầu tư trồng, thu mua trong tỉnh, một số doanh nghiệp còn đầu tư trồng và thu mua dưa nguyên liệu ngoài tỉnh như Hà Nam, Thái Bình, Bắc Giang, Hải Dương… Với các sản phẩm chế biến từ dưa chuột bao tử là: dưa chuột bao tử dầm dấm, dưa chuột bao tử muối.
Tuy nhiên sản xuất chế biến dưa chuột xuất khẩu nói riêng và rau quả nói chung trên địa bàn tỉnh nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu về chế biến nông sản xuất khẩu trong giai đoạn hiện nay.
Thực tế là doanh nghiệp, cơ sở chế biến dưa chuột xuất khẩu của tỉnh nhiều nhưng nhìn chung quy mô sản xuất nhỏ, đầu tư trung bình từ vài trăm triệu đến vài tỷ đồng, trình độ khoa học công nghệ thấp, sản xuất chưa ổn định, dây chuyền không đồng bộ. Chỉ có một vài doanh nghiệp có công nghệ chế biến hiện đại hoặc bán tự động, có quy trình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm một cách bài bản, còn lại là chế biến thủ công, nhất là các cơ sở chế biến. Hầu hết các doanh nghiệp đều phát triển từ mô hình kinh tế hộ gia đình, vốn hạn chế nên thường tận dụng mặt bằng sẵn có và ít có điều kiện đầu tư mở rộng nhà xưởng, lắp đặt công nghệ sản xuất hiện đại. Thậm chí ở các cơ sở sản xuất nhỏ, lẻ mà quy trình sản xuất từ khâu thu gom, sơ chế, đóng lọ, dán nhãn… đều làm bằng phương pháp thủ công.
Khảo sát tại một số cơ sở, doanh nghiệp chuyên chế biến dưa chuột xuất khẩu tại huyện lục Nam cho thấy, hầu hết các doanh nghiệp, cơ sở đều tận dụng mặt bằng của gia đình hoặc thuê nhà xưởng để sản xuất. Các sở sản xuất trung bình mỗi năm xuất khẩu hàng chục tấn nông sản song mặt bằng nhà xưởng chỉ vỏn vẹn vài chục mét vuông; một số doanh nghiệp do nhà xưởng chật hẹp nên thực hiện nguyên liệu ở đâu thuê nhà xưởng sơ chế ở đó. Phương pháp chế biến này có ưu thế là rau quả tươi, mẫu mã đẹp, ít hao nguyên liệu nhưng khó kiểm soát chất lượng sản phẩm.
Bên cạnh đó chủ doanh nghiệp, cơ sở sản xuất phần lớn không có trình độ chuyên môn, trình độ tay nghề mà chủ yếu lao động phổ thông. Hầu hết các doanh nghiệp chưa có thị trường ổn định, sản xuất mang tính tự phát, không có chiến lược lâu dài trong kinh doanh, nhất là chưa có chiến lược đầu tư cho vùng nguyên liệu và chiến lược thị trường trong và ngoài nước. Thông tin dự báo về thị trường nói chung là ít ỏi và thiếu chính xác, khi thị trường có biến động về nhu cầu tiêu thụ, về giá làm cho các doanh nghiệp và người dân chịu nhiều thiệt hại. Chính vì vậy sản phẩm làm ra của doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh thấp, không thâm nhập vào được các thị trường lớn, tiềm năng nhưng có những quy định, đòi hỏi khắt khe, nghiêm ngặt về chất lượng sản phẩm.
Việc mở rộng sản xuất cây vụ đông nói chung và cây dưa chuột nói riêng phục vụ chế biến, xuất khẩu gặp không ít khó khăn. Hợp đồng ký kết giữa một số doanh nghiệp với nông dân chưa chặt chẽ dẫn đến tình trạng phá vỡ hợp đồng. Khi giá thị trường lên cao, nông dân bán sản phẩm ra ngoài, ngược lại khi giá xuống thấp lại “ép” doanh nghiệp phải thu mua. Phần lớn sản phẩm tiêu thụ qua nhiều khâu trung gian nên giá thu mua thấp. Trong khi đó chất lượng vệ sinh an toàn chưa bảo đảm. Nhiều hộ nông dân sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, phân bón, thuốc kích thích sinh trưởng tùy tiện nên sản phẩm không đạt tiêu chuẩn xuất khẩu, chế biến.
Một khó khăn khác là cây trồng chưa được quy hoạch thành vùng nguyên liệu tập trung, áp dụng tiến bộ kỹ thuật còn hạn chế nên năng suất, chất lượng chưa đáp ứng được yêu cầu. Hầu hết các nhà máy, cơ sở chế biến trên địa bàn tỉnh chưa phát huy tối đa công suất. Cũng vì các doanh nghiệp chế biến nông sản của tỉnh sản xuất không ổn định, mặt hàng dưa chuột dầm dấm là chủ lực, lại sản xuất theo mùa vụ, phụ thuộc phần lớn vào đơn hàng gia công nên bình quân các doanh nghiệp chỉ hoạt động từ 40-45% công suất, vào vụ đông là thời điểm nhiều nguyên liệu chế biến nhất, công suất cũng chỉ đạt 60-65%.
Kể từ vụ dưa đông 2009( tháng 11-tháng 1) và vụ dưa xuân năm 2010( tháng 4 đến tháng 6), do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới và nhu cầu tiêu thụ sản phẩm của thị trường, nhất là thị trường Nga giảm mạnh, sản lượng dưa chuột xuất khẩu trên địa bàn tỉnh sụt giảm nghiêm trọng, lượng hàng tiêu thụ đạt 50% so với các vụ trước và vụ xuân 2010 chỉ đạt khoảng 30% . Tính đến tháng 8 năm 2010, lượng sản phẩm tồn kho của các doanh nghiệp là khá lớn, chủ yếu sản xuất vụ đông 2009, ảnh hưởng phần nào đến chất lượng sản phẩm và hoạt động của doanh nghiệp. Có doanh nghiệp còn nợ tiền dưa nguyên liệu của nông dân và tiền công lao động, nhiều doanh nghiệp thiếu vốn để đầu tư tái sản xuất. Trong thời gian tới tình hình trên không được sớm cải thiện và có những giải pháp khắc phục kịp thời sẽ dẫn đến không ít cơ sở sản xuất chế biến mặt hàng này phải đối diện với nguy cơ phá sản… Do tình hình dưa chuột xuất khẩu hiện rất khó khăn về đầu ra nên diện tích trồng cây dưa chuột xuất khẩu cũng bị thu hẹp đáng kể, giá dưa nguyên liệu giảm mạnh (dưa bao tử 4-6 cm vụ xuân 2010 có lúc giá chỉ còn 2.200 đồng/ kg, dưa trung tử 6-8 cm giá 1.000 đồng/ kg ) dẫn đến việc trồng không có lãi nên một số hộ dân đã từ bỏ hoặc thay thế cây dưa chuột xuất khẩu bằng cây trồng khác đem lại giá trị cao hơn
2.2.3 Tình hình tiêu thụ dưa chuột bao tử tại huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang
Hiện nay dưa chuột bao tử được sản xuất, chế biến ra thì chủ yếu nhằm mục đích cho việc xuất khẩu dưa chuột bao tử ra các nước ngoài, việc tiêu thụ trong nước là không nhiều do vậy chúng tôi tiến hành việc xem xét việc tiêu thụ dưa chuột bao tử nhằm cho mục đích xuất khẩu là chủ yếu.
2.2.3.1 Tình hình thu gom mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu trên địa bàn huyện Lục Nam tỉnh Bắc Giang
Trước kia do sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, thiếu tập trung nên thu gom ở nhiều địa bàn cách xa nhau không chỉ trên địa bàn huyện mà còn sang cả các tỉnh khác như Hưng Yên hay Hải Dương nên các doanh nghiệp phải chịu chi phí lớn về vận chuyển trong khi đó đội ngũ nhân viên còn chưa có kinh nghiệm trong thu gom bảo quản nhấp là đối với dưa chuột bao tử, vì đây là sản phẩm tươi dễ bị dập nát.
Từ khi có quyết định 80/2002/QĐ – TTg về việc sản xuất hàng hóa gắn với ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm hàng năm đã được người dân và các doanh nghiệp đón nhận và triển khai. Từ đó diện tích canh tác, sản lượng rau quả phục vụ chế biến ngày càng tăng lên và làm cho đa dạng hóa các sản phẩm rau quả hàng hóa, phù hợp với thực tế nhu cầu của thị trường.
Hiện nay trên địa bàn huyện các công ty chế biến trên địa bàn huyện có hai hình thức thu gom dưa chuột bao tử đó là hình thức thu gom trực tiếp từ các hộ nông dân và hình thưucs thứ hai đó là thu gom từ các đại lý
+ Đối với việc thu gom từ các hộ nông dân: Thì các công ty thu gom thông qua một cơ quan ở địa phương để thu gom đó là Hợp Tác Xã, các hợp tác xã ngay từ đầu vụ đã tổ chức bàn bạc và thống nhất với các doanh nghiệp tiêu thụ dưa chuột bao tử cho các hộ dân, thống nhất giá, chất lượng, thời gian giao hàng và phương thức thanh toán. Các công ty sẽ làm hợp đồng với các hộ nông dân để có nguồn cung hàng ổn định, các công ty sẽ thông qua các hợp tác xã để thu mua sản phẩm cho mình. Một số tiêu chuẩn khi thu mua sản phẩm của các hộ nông dân như:
Ví dụ:
Dưa loại 1: đường kính không quá 1,5cm, dài 3,5 – 5cm , giá 6000 đ/kg.
Dưa loại 2: đường kính không quá 2cm, dài 5 – 6cm, giá 3000 đ/kg.
Sơ đồ:
Hộ nông dân Hợp tác xã thu gom Công ty thu mua, chế biến
Đầu tư
Trên đây là sơ đồ về hình thức thu muẩn phẩm trực tiếp từ các hộ nông dân, ở hình thức thu mua này có ưu điểm là các các công ty sẽ gắn kết hơn với các hộ nông dân, họ hiểu được tâm tư nguyện vọng của người nông dân, các công ty thu mua sẽ quay lại đầu tư lại cho các hộ nông dân như giống và phân bón. Tuy nhiên hình thức này có hạn chế là hình thức thu mua qua các hợp tác xã nhiều khi chất lượng quả không đều nhau do các hợp tác xã không có các dụng cụ để tiến hành. Hiện nay với hình thức thu mua trực tiếp từ các hộ nông dân thông qua các hợp đồng đảm bảo đầu ra ổn định nên số hộ tham gia vào liên kết với các công ty đã tăng nên rất nhiều. Điển hình như ở xã Đông Phú công ty cổ phần thực phẩm Bắc Giang đã tăng diện tích làm hợp đồng với công ty.
Bảng 3: kết quả vùng nguyên liệu của công ty CPTPXKBG tại xã Đông Phú
Mục
ĐVT
2007
2008
2009
Diện tích
Ha
29,5
34,24
63,74
Sản lượng
Tấn
542
647
1232
Số hộ trồng
Hộ
432
580
786
(Nguồn: báo cáo tốt nghiệp vai trò liê