Trong những năm qua, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã đối mới một cách căn bản về mô hình tổ chức, cơ chế điều hành và nghiệp vụ Có thể nói hoạt động của hệ thống ngân hàng đã có những đóng góp đáng kể trong sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế đất nước. Bên cạnh những kết quả đạt được, hệ thống ngân hàng Việt Nam bộc lộ những yếu kém trong điều hành và hoạt động nghiệp vụ, đặc biệt là việc quản lý hoạt động của các ngân hàng Thương mại với các loại hình sở hữu khác nhau.
100 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1889 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu và đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ đối với Ngân hàng Thương mại do Công ty Vaco thực hiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Trong những năm qua, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã đối mới một cách căn bản về mô hình tổ chức, cơ chế điều hành và nghiệp vụ … Có thể nói hoạt động của hệ thống ngân hàng đã có những đóng góp đáng kể trong sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế đất nước. Bên cạnh những kết quả đạt được, hệ thống ngân hàng Việt Nam bộc lộ những yếu kém trong điều hành và hoạt động nghiệp vụ, đặc biệt là việc quản lý hoạt động của các ngân hàng Thương mại với các loại hình sở hữu khác nhau. Những yếu kém đó là khó tránh khỏi khi các lý thuyết cũng như kinh nghiệm về quản lý các ngân hàng thương mại trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta chưa được nghiên cứu đầy đủ.
Hoạt động kinh doanh ngân hàng là loại hình kinh doanh có rất nhiều rủi ro, dễ bị tổn thương khi có gian lận và sai sót, việc bảo đảm an toàn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thơng mại không những được các nhà kinh doanh ngân hàng quan tâm mà còn là mối quan tâm của người gửi tiền, của các cơ quan quản lý Nhà nước, của toàn xã hội về sự phá sản của một ngân hàng có thể gây nên đổ vỡ dây chuyền trong hệ thống tài chính – ngân hàng, ảnh hưởng rất lớn đối với toàn bộ nền kinh tế. Để ngăn ngừa những tổn thất và các rủi ro có thể xảy ra trong quá trình hoạt đông kinh doanh ngân hàng, ngoài các biện pháp thanh tra, kiểm tra, giám sát của các cơ quan quản lý Nhà nước, trước hết đòi hỏi ngân hàng thương mại phải có những biện pháp hữu hiệu. Mà biện pháp quan trọng nhất là ngân hàng thương mại phải thiết lập được hệ thống kiểm soát nội bộ một cách đầy đủ và có hiệu quả.Trong thời gian thực tập tại Công ty Kiểm toán Vaco, được nghiên cứu thực tế quy trình kiểm toán. đặc biệt là quy trình đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng Thương mại, kết hợp lý luận và thực tiễn đồng thời nhận thức được tầm quan trọng của việc đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ của các doanh nghiệp nói chung và đối với Ngân hàng thương mại nói riêng, em đã chọn đề tài: “ Tìm hiểu và đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ đối với Ngân hàng Thương mại do Công ty Vaco thực hiện”.
Chuyên đề bao gồm 3 phần :
Phần I: Cơ sở lý luận về quy trình đánh giá Hệ thống kiểm soát nội bộ.
Phần II: Thực trạng về quy trình đánh giá Hệ thống kiểm soát nội bộ đối với các Ngân hàng Thương mại do Công ty Vaco thực hiện.
Phần III: Nhận xét quy trình đánh giá Hệ thống kiểm soát nội bộ của Công ty Kiểm toán Vaco đối với Ngân hàng Thương mại.
Để hoàn thành được Chuyên đề này em đã nhận được sự hướng dẫn rất nhiệt tình của thầy giáo Chu Thành, anh Nguyễn Thương- Kiểm toán viên Công ty Kiểm toán Vaco, sự giúp đỡ của các anh chị của Công ty cùng với sự cố gắng nỗ lực của bản thân. Tuy nhiên, do phạm vi đề tài rộng, thời gian nghiên cứu có hạn, cùng với sự thiếu kinh nghiệm thực tế của sinh viên đang học nên trong Chuyên để không tránh khỏi những sai sót hạn chế. Vì vậy em rất mong nhận được sự đóng góp, bổ sung ý kiến của các thầy cô giáo, phía Công ty và các bạn…
Phần I
cơ sở lý luận về quy trình đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ
I. Hệ thống kiểm soát nội bộ.
1.1. Khái niệm về kiểm soát nội bộ (KSNB):
Kiểm tra,kiểm soát luôn là một chức năng quan trọng của quản lý và được thực hiện bởi một công cụ chính yếu là hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị. Việc xác lập và duy trì một hệ thống kế toán thích hợp, kết hợp với quy chế kiểm soát nội bộ khác để mở rộng kinh doanh và mở rộng loại hình kinh doanh thuộc trách nhiệm quản lý của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp. Các nhà quản lý cần cung cấp cho các cổ đông( hoặc Chính phủ) một sự bảo đảm thích hợp về công việc kinh doanh được kiểm soát chính đáng. Đồng thời, bộ phận quản lý còn có trách nhiệm cung cấp cho các cổ đông, Chính phủ và những người đầu tư tiềm tàng(ngân hàng, chủ đầu tư, người liên doanh…) những thông tin tài chính trên cơ sở hợp thời. Một hệ thống bao gồm rất nhiều chế độ và thể thức đặc thù được thiết kế để cung cấp cho các nhà quản lý sự bảo đảm hợp lý là các mục tiêu và mục đích quan trọng đối với doanh nghiệp. Những chế độ và thể thức này được gọi là các quá trình kiểm soát, và kết hợp lại hình thành nên cơ cấu kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp.
Như vậy hệ thống kiểm soát nội bộ là toàn bộ các chính sách, các thủ tục kiểm soát do đơn vị thiết lập và duy trì nhằm điều hành toàn bộ các hoạt động của đơn vị đảm bảo các mục tiêu sau:
Bảo vệ tài sản và sổ sách kế toán.
Bảo đảm độ tin cậy của các thông tin.
Bảo đảm duy trì và kiểm tra việc tuân thủ các quy định pháp lý, các chính sách có liên quan đến hoạt động của đơn vị.
Bảo đảm hiệu quả hoạt động và hiệu năng quản lý.
Cụ thể là :
* Bảo vệ tài sản và sổ sách kế toán.
Tài sản của đơn vị hiểu theo nghĩa rộng bao gồm:
Các tài sản ghi trên bảng cân đối kế toán( tài sản cố định, hàng tồn kho, tiền mặt, tiền gửi, các khoản đầu tư ngắn hạn, dài hạn, các khoản công nợ phải thu..).
Các tài sản phi vật chất không có hình thái cụ thể nhưng có vai trò quan trọng, tích cực trong việc nâng cao chất lượng hoạt động của đơn vị như uy tín doanh nghiệp, số lượng và quan hệ khách hàng, lợi thế thương mại, bầu không khí làm việc, quan hệ công tác, quan hệ trong bộ máy lãnh đạo, giữa lãnh đạo với cán bộ công nhân viên, chính sách thống nhất trong công tác điều hành…
Tài sản vật chất của đơn vị có thể bị trộm cắp, lạm dụng hoặc bị hư hại tình cờ nếu không được bảo vệ bởi các hệ thống kiểm soát thích hợp. Điều này cũng đúng đối với tài sản phi vật chất như các khoản công nợ phải thu, các tài liệu quan trọng và sổ sách. Các thủ tục, quy trình, nghiệp vụ và nội quy bảo vệ phải dự kiến các phương tiện bảo vệ vật chất chống lại mất mát, hư hao, ăn cắp, lãng phí… Các phương tiện hoặc biện pháp này sẽ bảo vệ trực tiếp hoặc gián tiếp các tài sản vật chất như hàng tồn kho, thiết bị, tiền… Các tài sản vô hình cần được bảo vệ và giữ gìn bằng các biện pháp tổ chức, quy chế va những biện pháp kỹ thuật nghiệp vụ.
* Bảo đảm độ tin cậy của các thông tin.
Thông tin kinh tế tài chính do kế toán tổng hợp xử lý và trình bày là căn cứ quan trọng cho việc hình thành và lựa chọn các quyết định kinh tế của các nhà quản lý. Nhà quản lý phải có các thông tin chính xác để điều hành các mặt của hoạt động kinh doanh. Một lượng lớn thông tin được sử dụng để đề ra các quyết định kinh doanh then chốt, do vậy thông tin phải bảo đảm không được lạm dụng và sử dụng sai mục đích. Các thông tin được cung cấp phải bảo đảm:
Độ tin cậy của các tài liệu tài chính, kế toán do bộ phận kế toán chuẩn bị, do Giám đốc ký duyệt hoặc báo cáo với Ban Giám đốc, với Hội đồng Quản trị.
Tính thích đáng, phù hợp của các thông tin tài chính, kế toán. Các thông tin này phải phản ánh đầy đủ, đúng và khách quan các nội dung chủ yếu của hoạt động kinh tế.
* Bảo đảm duy trì và kiểm tra việc tuân thủ các quy định pháp lý, các chính sách có liên quan đến hoạt động của đơn vị.
Nhà quản trị xây dựng các thể thức và nguyên tắc để thoả mãn các mục tiêu của Doanh nghiệp. Cơ cấu kiểm soát nội bộ được thiết kế để mang lại sự bảo đảm chắc chắn các quyết định và chế độ quản lý được thực hiện đúng thể thức, đồng thời giám sát mức hiệu quả của các chế độ và các thể thức đó. Nhân viên trong công ty phải tuân thủ các chính sách, quyết định nội bộ, cụ thể là:
Phát hiện kịp thời những rắc rối trong kinh doanh để hoạch định và thực hiện các biện pháp đối phó.
Ngăn chặn, phát hiện các sai phạm và các gian lận trong kinh doanh.
Ghi chép kế toán đầy đủ, chính xác và đúng thể thức về các nghiệp vụ của hoạt động kinh doanh.
Lập các báo cáo tài chính kịp thời, hợp lệ và tuân theo các yêu cầu pháp định có liên quan.
* Bảo đảm hiệu quả hoạt động và hiệu năng quản lý.
Các quá trình kiểm soát trong mọi tổ chức nhằm ngăn ngừa sự lặp lại không cần thiết các nỗ lực và sự lãng phí trong mọi lĩnh vực kinh doanh, nhằm ngăn cản việc sử dụng kém hiệu quả các nguồn tiềm năng. Định kỳ, nhà quản lý đánh giá kết quả hoạt động để nâng cao hiệu năng quản lý, đảm bảo cơ cấu bộ máy đơn vị có đủ năng lực điều khiển, chỉ huy đơn vị.
* Các mục tiêu chi tiết và nguyên tắc của hệ thống kiểm soát nội bộ.
Đối với bất kỳ loại hình nghiệp vụ kinh tế nào trong một doanh nghiệp đều có thể xảy ra một vài loại sai sót của quá trình ghi sổ. Có bảy mục tiêu mà một cấu trúc kiểm soát nội bộ phải thoả mãn để ngăn ngừa các sai sót như vậy.
Cụ thể là:
stt
Các mục tiêu chi tiết của hệ thống kiểm soát nội bộ
1
Các nghiệp vụ kinh tế phải có căn cứ hợp lý( tính có căn cứ hợp lý).
2
Các nghiệp vụ kinh tế phải được phê chuẩn đúng đắn( mục tiêu về sự phê chuẩn).
3
Các nghiệp vụ kinh tế phải được ghi sổ một cách đầy đủ( mục tiêu về tính đầy đủ).
4
Các nghiệp vụ kinh tế phải được đánh giá đúng đắn( mục tiêu về sự đánh giá).
5
Các nghiệp vụ kinh tế phải được phân loại đúng đắn( mục tiêu về sự phân loại).
6
Các nghiệp vụ kinh tế phải được phản ánh đúng hạn( mục tiêu về tính đúng kỳ).
7
Các nghiệp vụ kinh tế phải được ghi đúng đắn vào sổ phụ và được tổng hợp chính xác( mục tiêu về tính chính xác cơ học).
Bảy mục tiêu trên được áp dụng cụ thể cho từng nghiệp vụ trọng yếu trong cuộc kiểm toán.
Cùng với mục tiêu trên, hệ thống kiểm soát nội bộ phải đảm bảo thực hiện các nguyên tắc sau:
stt
Các nguyên tắc trong kiểm tra, kiểm soát nội bộ
1
Nguyên tắc phân công phân nhiệm
2
Nguyên tắc bất kiêm nhiệm
3
Nguyên tắc uỷ quyền phê chuẩn
Tóm lại, kiểm tra- kiểm soát là những hệ thống có chức năng xác minh, đánh giá, nhận xét về đối tượng kiểm tra- kiểm soát. Hoạt động kiểm tra kiểm soát nảy sinh và phát triển từ chính nhu cầu của quản lý. Các yếu tố của hệ thống kiểm tra- kiểm soát bao gồm tất cả các yếu tố đối chiếu, xem xét, xác minh đối tượng của quản lý. Tổ chức kiểm tra- kiểm soát thể hiện cả tính khoa học và tính nghiệp vụ kỹ thuật về việc thực hiện các chiến lược và bước đi cụ thể trong hoạch định chính sách và tổ chức bộ máy kiểm tra- kiểm soát ở cả tầm vĩ mô và vi mô của nền kinh tế.
1.2. Các nội dung của hệ thống kiểm soát nội bộ.
Hệ thống kiểm soát nội bộ trong một doanh nghiệp thường được xem gồm 4 yếu tố cấu thành nên, đó là: (1)Môi trường kiểm soát (2)Hệ thống kế toán (3)Hoạt động kiểm soát (4)Giám sát độc lập hoạt động kiểm soát.
Môi trường kiểm soát (MTKS): Là thái độ, khả năng, sự nhận biết và các hoạt động của người quản lý, các chính sách, thủ tục kiểm soát, tính trung thực và giá trị đạo đức, cơ cấu tổ chức, sự phân công trách nhiệm, phân chia quyền lực, chính sách về nhân sự. MTKS là thành phần quan trọng nhất trong bốn thành phần của hệ thống KSNB, nếu thiếu MTKS hữu hiệu thì chắc chắn hệ thống KSNB sẽ không có hiệu quả, kể cả khi ba thành phần khác của hệ thống KSNB có chất lượng tốt. Hiệu quả của hệ thống KSNB luôn phụ thuộc vào quan điểm của người quản lý cao cấp. Nếu người quản lý cao nhất coi trọng công việc kiểm toán thì các nhân viên trong đơn vị sẽ tuân thủ nghiêm túc và thận trọng quy chế quản lý của đơn vị đã được xây dựng và ngược lại. Do vậy kết quả đánh gía về MTKS nói chung và quan điểm của người lãnh đạo nói riêng có ảnh hưởng lớn đến đánh gía toàn bộ hệ thống KSNB. KTV phải nhận biết được từng nội dung, yếu tố của MTKS được thiết lập và thực hiện theo các phương pháp sau:
Cập nhật và đánh giá đúng mức tài liệu ( báo cáo khảo sát, báo cáo kiểm toán ) và kinh nghiệm của các KTV đã thực hiện kiểm toán trước đó. Bởi vì hệ thống và công việc kiểm soát thường không thay đổi liên tục, thông tin này có thể được cập nhật và được áp dụng phù hợp cho công việc kiểm toán những năm tiếp theo.
Tiến hành trao đổi, phỏng vấn người quản lý cấp cao và các nhân viên quản lý của đơn vị được kiểm toán về các nội dung của KSNB. Nội dung trao đổi cần được chuẩn bị chu đáo, có thể dưới dạng các nội dung hoặc bằng câu hỏi trả lời “có”, “không”, “hoặc không sử dụng”. Cần đặc biệt chú ý đến các nội dung:
- Đối với thái độ của người quản lý: Thể hiện bởi quá trình đào tạo và việc nắm bắt các nội dung kiểm soát. nếu những người quản lý cao cấp được đào tạo chính quy, đúng chuyên ngành, kết quả phỏng vấn cho thấy họ hiều biết công việc kiểm soát cùng với hệ thống chính sách thủ tục kiểm soát được ban hành đầy đủ, đó là biểu hiện của người quản lý có năng lực, quan tâm và coi trọng công tác kiểm soát thì hệ thống KSNB hoạt động có hiệu quả.
- Tính trung thực và giá trị đạo đức: Thông qua việc đối chiếu kết quả trao đổi với người quản lý cấp cao và kết quả trao đổi với các nhân viên kết hợp những xem xét, quan sát khác để đánh giá tính trung thực và đạo đức của người lãnh đạo đơn vi. Đây là yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng đến hành vi ứng xử, tính trung thực của nhân viên trong công việc và độ tin cậy của các thông tin thu thập được cũng như độ tin cậy của hệ thống KSNB và báo cáo tài chính.
- Chính sách về nhân sự: Một chính sách đối đãi, thăng chức và đào tạo tốt sẽ đảm bảo cho các hoạt động kiểm soát được thực hiện nghiêm túc và có hiệu lực.
- Thu thập, nghiên cứu các tài liệu, ghi chép có liên quan đến MTKS : gồm các chính sách, quy chế, thủ tục về KSNB được thiết lập: như quy định về quy trình, thủ tục, quan hệ giữa các bộ phận trong quản lý thu chi, sử dụng và bảo quản tài sản... Một hệ thống các chính sách, quy chế, thủ tục về KSNB đầy đủ là biều hiện của một MTKS có hiệu lực.
Quan sát: KTV có thể lựa chọn một số công việc kiểm soát xuyên suốt mọi hoạt động của đơn vụ để quan sát thực tế, ví dụ: nghiệp vụ mua vật tư, từ khi lập kế hoạch, phê duyệt, thực hiện, thủ tục kiểm tra chất lượng hàng nhập kho, bảo quản và xuất dùng.
Tổng hợp kết quả của bốn phương pháp trên sẽ cho phép KTV sự hiều biết đầy đủ về MTKS nội bộ của đơn vị được kiểm toán.
Hệ thống kế toán: Thực hiện nghiêm túc công tác kế toán đó chính là một trong những điều kiện phát huy được tác dụng tự kiểm tra của kế toán. Nghiên cứu hệ thống kế toán cần xem xét việc chấp hành quy định của Nhà nước ở các nội dung: chứng từ kế toán, tài khoản kế toán, sổ kế toán, báo cáo kế toán và quá trình kiểm tra kế toán. Tương tự như phương pháp để nhận biết môi trường kiểm soát. Tuỳ điều kiện cụ thể KTV có thể sử dụng một số hoặc tất cả phương pháp đã nêu ở trên để xem xết, xác định:(1)các nghiệp vụ kinh tế chủ yếu của đơn vị; (2)các nghiệp vụ về kinh tế này được bắt đầu như thế nào;(3)hiện được ghi vào những sổ sách kế toán nào và bản chất của chúng là gì; (4)các nghiệp vụ kinh tế được xử lý như thế nào từ khi bắt đầu cho đến khi hoàn thành; (5) quá trình lập các báo cáo của kế toán. Thông thường việc nghiên cứu này được thực hiện bằng cách theo dõi một số nghiệp vụ kinh tế chủ yếu xuyên suốt hoạt động của đơn vị. Bằng chứng thu thập được từ việc tìm hiểu nghiên cứu tài liệu sẽ có độ tin cậy cao.
Hoạt động kiểm soát: Hoạt động kiểm soát là những chính sách và thủ tục để đảm bảo những hoạt động cần thiết sẽ được thiết lập và thực hiện nhằm đạt đựơc các kế hoạch, mục tiêu đã đề ra. Có ba loại hoạt động kiểm soát cơ bản sau:(1)Sự cách ly thích hợp về trách nhiệm, (2)sự phân chia quyền lực đúng dắn trong quản lý và hoạt động, (3)bảo quản tài sản tài liệu, sổ sách và giữ bí mật các thông tin.
Sự cách ly thích hợp về trách nhiệm (trước đây ta thường gọi là bất năng kiêm nhiệm) là việc phân chia nhiệm vụ đảm bảo tách rời việc thực hiện những công việc mà nếu cùng một người làm dễ xảy ra những sai sót và gian lận vì mưu lợi cá nhân.
+ Cách ly việc bảo quản tài sản với kế toán, như thủ quỹ phải tách rời kế toán thanh toán.
+ Cách ly quyền phê chuẩn các nghiệp vụ với việc bảo quản tài sản có liên quan. Ví dụ kế toán trưởng phải tách rời việc giữ kho hàng hoá.
+ Cách ly trách nhiệm điều hành với trách nhiệm ghi sổ như: quá trình ghi sổ tại các phân xưởng thường giao cho một bộ phận riêng biệt thuộc quyền kế toán trưởng.
- Sự phân chia quyền lực đúng đắn trong quản lý và hoạt động: Hoạt động kiểm soát chỉ có nề nếp khi quyền phê chuẩn các nghiệp cụ kinh tế phải được quy định rõ ràng. Ví dụ: việc bán hàng phải có bảng giá cố định được niêm yết, quy định giới hạn đối với nợ của khách hàng...
- Bảo quản tài sản, tài liệu sổ sách và giữ bí mật các thông tin.
Bảo vệ và quản lý tài sản, tài liệu sổ sách sẽ giữ bí mật các thông tin là những nội dung quan trọng của công việc kiểm soát. Một hệ thống kiểm soát tốt phải có các nội dung, biện pháp cụ thể để bảo vệ an toàn, quản lý khoa học tài sản và những ghi chép, như nơi cất trữ an toàn, quy chế về sử dụng...
Giám sát độc lập hoạt động kiểm soát: Là sự xem xét lại cẩn thận và liên tục hoặc theo giai đoạn ba nội dung trên của hệ thống KSNB . Để hoạt động này có hiệu quả đòi hỏi nó phải độc lập với các hoạt động kiểm soát. Nhu cầu giám sát này phát sinh do cơ cấu kiểm soát nội bộ có khuynh hướng thay đổi qua thời gian, nhân viên có khả năng quên hoặc vô ý không tuân theo các thủ tục kiểm soát, hoặc trở nên cẩu thả và gian lận trừ khi có người giám sát đánh giá việc thực hiện của họ. Việc giám sát độc lâp hoạt động đảm bảo công việc kiểm soát đang được tiến hành theo đúng quy định và có mục đích; có thể hạn chế được rủi ro và thay đổi bổ sung kịp thời những khiếm khuyết của hệ thống KSNB thích hợp với sự thay đổi họat động của đơn vị theo điều kiện cụ thể. Đối với những công ty lớn hoạt động giám sát do phòng kiểm toán nội bộ thực hiện. Việc nhận biết hoạt động kiểm soát và giám sát độc lập hoạt động kiểm soát có thể sử dụng các phương pháp nhận biết MTKS đã trình bày ở trên.
Khi đã có được sự hiểu biết về hệ thống KSNB của đơn vị từ các bằng chứng thu thập được.KTV tiến hành đánh giá những mặt mạnh, yếu kém, hiệu quả hoạt động và độ tin cậy của hệ thống KSNB . Những yếu kém được nhận ra chính là sự thiếu hụt hoạt động kiểm soát phù hợp mà có thể dẫn tới sai lệch thông tin có liên quan trọng báo cáo tài chính. Có bốn bước tiếp cận có thể sử dụng để nhận thức được những yếu kém quan trọng.(1)KTV trước tiên cần phải biết những hình thức kiểm soát nào đang tồn tại; (2) những hoạt động kiểm soát mấu chốt thiếu hụt; (3)hậu quả có thể đem lại do thiếu hoạt động kiểm soát quan trọng, mức độ quan trọng của yếu kém;(4) xem xét liệu có các biện pháp bổ sung để bù lại sự yếu kém. Khi nhận ra được yếu kém của kiểm soát có thể đánh giá rủi ro kiểm tra ở các mức độ thấp, trung bình, hoặc cao cho từng nội dung kiểm toán. Từ đó có thể xác định trọng yếu kiểm toán, là nơi rủi ro kiểm soát được đánh gía là cao và các sai sót, gian lận có nhiều khả năng xảy ra.
Việc nghiên cứu hệ thống KSNB thực hiện tuỳ thuộc vào quy mô của đơn vị được kiểm toán. Đối với những đơn vị nhỏ, việc thiêt lập một hệ thống KSNB đầy đủ là tốn kém và không hiệu quả. Do vậy KTV chỉ nên nhận biết một số nội dung của hệ thống KSNB đủ để xác định báo cáo tài chính có thể kiểm toán được hay không. Việc thực hiện kiểm toán trên phải dựa cơ sở đánh giá đầy đủ mức độ rủi ro kiểm soát. Mặt khác, tuỳ vào nội dung và loại hình kiểm toán mà nghiên cứu hệ thống KSNB ở một mức độ và phương pháp phù hợp. Không nhất thiết phải dùng cả bốn phương pháp cho mọi trường hợp. Tuy nhiên, đánh giá hệ thống KSNB phải được thực hiện cả trong giai đoạn khảo sát và tiến hành kiểm toán.
Nghiên cứu đầy đủ hệ thống KSNB của đơn vị được kiểm toán để phục vụ cho việc xây dựng kế hoạch kiểm toán phù hợp là vấn đề rất khó; song để có một báo cáo khảo sát và kết quả kiểm toán đảm bảo chất lượng nhất thiết phải thực hiện tốt công việc này, qua đó mới có thể giúp đơn vị được kiểm toán hoàn thiện công tác quản lý và nâng cao hiệu quả trong các hoạt động kinh tế.
1.3. Hệ thống kiểm soát nội bộ trong NHTM ở Việt Nam.
1.3.1.Khái quát về NHTM.
Ngân hàng là một trong những ngân hàng tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng là người cho vay chủ yếu đối với hàng triệu hộ tiêu dùng ( cá nhân, hộ gia đình) và vói hầu hết các cơ quan chính quyền điạ phương ( thành phố, tỉnh...).Hơn nữa, đối với các doanh nghiệp nhỏ ở địa phương, từ người bán rau quả cho tới người kinh doanh ô tô, ngân hàng là tổ chức cung cấp tín dụng cơ bản phục vụ cho việc mua hàng hoá dự trữ hoặc mua ô tô trưng bày. Khi doanh nghiệp và người tiêu dùng phải thanh toán cho các khoản mua hàng hoá và dịch vụ họ thường dùng phải thanh toán cho các kh