Vào năm 1929 đến 1933, thế giới tư bản chủ nghĩa bị khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Đế quốc Pháp trút tất cả gánh nặng cuộc khủng hoảng ở Pháp lên vai các thuộc địa. Đông Dương bị kéo vào cuộc khủng hoảng đó nên đã chịu những hậu quả thảm khốc là: nông dân bị phá sản, bị chết đói; công nhân ngày càng bị bóc lột nặng nề, thất nghiệp; giai cấp tư sản vừa ra đời đã bị tư sản Pháp bóp nghẹt.
Hành động đàn áp, khủng bố của thực dân Pháp diễn ra khắp nơi gây không khí chính trị căng thẳng. Mâu thuẫn giữa nhân dân ta và thực dân Pháp ngày càng gay gắt, đẩy nhân dân ta vùng lên đấu tranh mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn với kẻ thù để giành lấy cuộc sống.
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đảm nhận sứ mệnh lãnh đạo cuộc đấu tranh chống đế quốc và phong kiến. Cơ sở Đảng tuy chưa nhiều, song đã trở thành hạt nhân của phong trào cách mạng. Những tổ chức quần chúng cách mạng được thành lập ở nhiều nơi. Đường lối của Đảng đã phản ánh đúng nguyện vọng của quần chúng, được tuyên truyền rộng rãi, làm cho ý thức giác ngộ của quần chúng ngày một nâng cao.
Phong trào đấu tranh của quần chúng đã bùng lên mạnh mẽ dẫn đến cao trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh.
17 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2903 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tìm hiểu về cao trào cách mạng 1930 - 1931, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Câu 1:
Tìm hiểu về cao trào cách mạng 1930 - 1931
1. Hoàn cảnh lịch sử của cao trào
Vào năm 1929 đến 1933, thế giới tư bản chủ nghĩa bị khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Đế quốc Pháp trút tất cả gánh nặng cuộc khủng hoảng ở Pháp lên vai các thuộc địa. Đông Dương bị kéo vào cuộc khủng hoảng đó nên đã chịu những hậu quả thảm khốc là: nông dân bị phá sản, bị chết đói; công nhân ngày càng bị bóc lột nặng nề, thất nghiệp; giai cấp tư sản vừa ra đời đã bị tư sản Pháp bóp nghẹt.
Hành động đàn áp, khủng bố của thực dân Pháp diễn ra khắp nơi gây không khí chính trị căng thẳng. Mâu thuẫn giữa nhân dân ta và thực dân Pháp ngày càng gay gắt, đẩy nhân dân ta vùng lên đấu tranh mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn với kẻ thù để giành lấy cuộc sống.
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đảm nhận sứ mệnh lãnh đạo cuộc đấu tranh chống đế quốc và phong kiến. Cơ sở Đảng tuy chưa nhiều, song đã trở thành hạt nhân của phong trào cách mạng. Những tổ chức quần chúng cách mạng được thành lập ở nhiều nơi. Đường lối của Đảng đã phản ánh đúng nguyện vọng của quần chúng, được tuyên truyền rộng rãi, làm cho ý thức giác ngộ của quần chúng ngày một nâng cao.
Phong trào đấu tranh của quần chúng đã bùng lên mạnh mẽ dẫn đến cao trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh.
2. Diễn biến của cao trào
Nhiệm vụ của Đảng là "phải lấy những sự nhu yếu hàng ngày làm bước đầu mà dắt vô sản giai cấp và dân cày ra chiến trường cách mạng... để dự bị họ về phía võ trang bạo động sau này". Hương hướng đấu tranh đó, phong trào công nông được dấy lên từ cuối nǎm 1929 đến nǎm 1930. Tiếp theo cuộc đấu tranh của công nhân đồn điền Phú Riềng (Nam Bộ) tháng 2-1930, cuộc bãi công của 4.000 công nhân nhà máy sợi Nam Định kéo dài ba tuần lễ, từ ngày 25 tháng 3 đến ngày 16 tháng 4 do Tỉnh uỷ Nam Định và Đảng uỷ nhà máy tổ chức. Ngay sau đó ngày 19 tháng 4, 400 công nhân nhà máy diêm Bến Thuỷ, thành phố Vinh đình công đòi tǎng lương và cải thiện điều kiện làm việc. Ngoài những cuộc đấu tranh của công nhân, còn có những cuộc đấu tranh của nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác như: cuộc biểu tình của nông dân Hà Nam, Thái Bình, đòi giảm sưu thuế nổ ra trong tháng 4-1930.
Những cuộc đấu tranh lớn nói trên của công nhân và nông dân là những "pháo hiệu" mở đầu cao trào cách mạng mới ở Việt Nam, chứng tỏ vai trò dẫn đầu cao trào là giai cấp công nhân và tiếp theo là giai cấp nông dân.
Trên cơ sở phong trào công nông bước đầu phát triển và thắng lợi, Đảng kêu gọi quần chúng tiếp tục đấu tranh đòi tǎng lương, giảm giờ làm cho công nhân, giảm sưu, hoãn thuế cho nông dân để thiết thực kỷ niệm ngày Quốc tế lao động 15-1930. Cuộc đấu tranh ngày 1-5-1930 là một bước ngoặt đánh dấu phong trào đấu tranh của quần chúng phát triển thành cao trào cách mạng. Ngày đó, từ thành thị đến nông thôn ở nhiều nơi trong cả nước treo cờ Đảng, rải truyền đơn, tổ chức mít tinh, biểu tình, tuần hành thị uy, khẩu hiệu đấu tranh đòi quyền lợi kinh tế đã kết hợp với khẩu hiệu chính trị. Nhiều cuộc bãi công, biểu tình đã liên tiếp nổ ra từ các xí nghiệp công nghiệp ở thành thị đến các vùng nông thôn ở nhiều tỉnh trong cả nước. Sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cuộc bãi công của công nhân các nhà máy với các cuộc biểu tình của nông dân ở làng xã, sự đoàn kết đấu tranh giữa công nhân và nông dân làm cho đế quốc Pháp lúng túng, bị động, lo sợ.
Tháng 9-1930, cao trào tiếp tục phát triển lên đỉnh cao. Những khẩu hiệu chính trị được kết hợp chặt chẽ với các yêu sách về kinh tế trong hàng loạt các cuộc đấu tranh ở khắp cả nước. Ở Nghệ An, Hà Tĩnh từ cuối tháng 8 đến đâu tháng 9-1930 là thời kỳ "đấu tranh kịch liệt", diễn ra nhiều cuộc đấu tranh quy mô huyện và liên huyện với hàng nghìn, hàng vạn dân chúng tham gia. Những cuộc đấu tranh tiêu biểu như cuộc biểu tình của 3.000 nông dân huyện Nam Đàn ngày 30-8, của 20.000 nông dân Thanh Chương ngày 1-9, của 3.000 nông dân huyện Can Lộc ngày 7-9, của 8.000 nông dân huyện Hưng Nguyên ngày 12-9-1930. Phần lớn những cuộc biểu tình này là những cuộc đấu tranh chính trị có vũ trang tự vệ. Quần chúng phá huyện đường, đốt giấy tờ, phá nhà giam, phá xiềng gông, giải phóng những người bị bắt. Trước khí thế đấu tranh mạnh mẽ của quần chúng, bọn thực dân, phong kiến hoảng sợ, nhiều tên tri huyện, lý trưởng nộp lại ấn tín hoặc chạy trốn, nhiều nơi chính quyền địch tan rã. Trong tình hình đó, Xô viết Nghệ Tĩnh, một hình thức chính quyền đâu tiên của công nông trong lịch sử cách mạng Việt Nam xuất hiện.
Xây dựng được đội quân chủ lực của cách mạng, thực hiện được liên minh công nông là một thành tích nổi bật của Đảng ta trong cao trào cách mạng 1930-1931 và Xô viết Nghệ Tĩnh.
Thực tế lịch sử cho thấy, trong cao trào cách mạng 1930-1931 và Xô viết Nghệ Tĩnh, công nông thể hiện một nghị lực cách mạng Phi thường và sức mạnh to lớn. Hàng triệu nông dân đã đứng lên cùng với giai cấp công nhân phối hợp đấu tranh chống đế quốc, phong kiến.
Đó là nhờ Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đúng, gắn nhiệm vụ chống đế quốc với nhiệm vụ chống phong kiến, thực hiện giải phóng dân tộc và ruộng đất cho dân cày, đáp ứng nguyện vọng thiết tha của công nông.
3. Ý nghĩa và bài học kinh nghiệm của cao trào
a. Ý nghĩa
Cao trào 1930-1931 và Xô viết Nghệ Tĩnh phản ánh đường lối chống đế quốc và phong kiến trong cương lĩnh của Đảng là đúng đắn. Khối liên minh giữa 2 giai cấp công nhân và nông dân đã được thiết lập trong thực tế đấu tranh.
Đảng đã xác lập được quyền lãnh đạo, kiểm nghiệm được đường lối, rèn luyện được đội ngũ cán bộ, đảng viên của mình. Bản thân quần chúng qua cao trào đã tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng- lực lượng duy nhất có thể đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi, đồng thời cũng tin tưởng vào khả năng cách mạng của bản thân mình. Cao trào cách mạng 1930-1931 là một cuộc tổng diễn tập giành chính quyền của nhân dân ta và Đảng ta.
b. Bài học kinh nghiệm
Cao trào 1930-1931 đã để lại cho Đảng ta kinh nghiệm bước đầu về kết hợp 2 nhiệm vụ chiến lược: chống đế quốc và chống phong kiến, kết hợp phong trào đấu tranh của công nhân và nông dân, thực hiện liên minh công nông dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân; kết hợp phong trào cách mạng ở đô thị; kết hợp các hình thức tổ chức và đấu tranh giành cách mạng của quần chúng.
Tuy nhiên do nhấn mạnh vào một chiều đến vấn đề giai cấp mà chưa quan tâm thích đáng đến vấn đề dân tộc trong cao trào 1930-1931, vấn đề sách lược và phương pháp cách mạng chừng nào đó còn thiếu linh hoạt, mềm dẻo. Do đó, mặt trận phản đế chưa được phát triển rộng rãi.
Câu 2:
Tìm hiểu cao trào cách mạng 1936 - 1939
1. Hoàn cảnh lịch sử của cao trào
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới của chủ nghĩa tư bản đẩy những mâu thuẫn vốn có của chúng ngày càng trở nên sâu sắc. Chủ nghĩa phát xít đã ra đời. Đây là nền chuyên chính độc tài nhất, tàn bạo nhất, sô vanh nhất, hiếu chiến nhất của bọn tư bản tài chính phản động. Chuyên chính phát xít đã được thiết lập, tiêu biểu ở Đức- Ý- Nhật và một số nước khác. Phong trào chống phát xít nhanh chóng lan rộng ở nhiều nước đã thu hút các lực lượng có xu hướng chính trị khác nhau. Kẻ thù nguy hiểm nhất của nhân dân thế giới lúc này không phải là chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa đế quốc nói chung mà là chủ nghĩa phát xít, nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân quốc tế là đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít giành dân chủ và hòa bình. Giai cấp công nhân quốc tế phải thống nhất hàng ngũ của mình, lập mặt trận nhân dân rộng rãi.
Đối với các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, “vấn đề mặt trận thống nhất chống đế quốc có tầm quan trọng đặc biệt”.
Ở nước ta, cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 đã tác động sâu sắc đến đời sống các giai cấp, các tầng lớp nhân dân lao động, đến cả các nhà tư sản, địa chủ hạng vừa và nhỏ. Bọn cầm quyền phản động ở Đông Dương vẫn thi hành chính sách bóc lột, vơ vét và khủng bố, đàn áp dã man phong trào cách mạng của nhân dân ta.
Tháng 7 năm 1936, Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng họp tại Thượng Hải (Trung Quốc) do đồng chí Lê Hồng Phong chủ trì đã nhận định: Nhiệm vụ cách mạng tư sản dân quyền là đánh đổ đế quốc Pháp, giành độc lập dân tộc, xóa bỏ giai cấp địa chỉ, thực hiện người cày có ruộng không hề thay đổi, nhưng chưa phải là nhiệm vụ cách mạng trực tiếp trong lúc này. Yêu cầu cấp thiết trước mắt của nhân dân Đông Dương là tự do, dân chủ, cải thiện đời sống. Phải thành lập mặt trận nhân dân phản đế rộng rãi “bao gồm các giai cấp, các đảng phái, các đoàn thể chính trị và tín ngưỡng tôn giáo khác nhau đấu tranh đòi những điều dân chủ đơn sơ....”.
Hội nghị đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa mục tiêu chiến lược với mục tiêu cụ thể trước mặt của cách mạng nước ta. Do đó đã nhanh chóng đưa phong trào cách mạng của quần chúng lên một giai đoạn mới.
2. Diễn biến của cao trào
Thành phần tham gia Mặt trận dân chủ rộng hơn Mật trận phản đế. Mặt trận dân chủ không chỉ có các lực lượng tiên tiến, kiên quyết chống đế quốc mà gồm cả những thành phần chỉ có yêu cầu cải cách, không chỉ có quần chúng cơ bản là công nhân, nông dân mà còn có cả những tầng lớp tư sản, địa chủ, các đảng phái cải lương ít nhiều tiến bộ, các thủ lĩnh dân tộc, tôn giáo đấu tranh cho dân chủ, tự do cơm áo, hoà bình.
Mặt trận không chỉ bao gồm những người tán thành dân chủ thuộc ba nước Đông Dương, mà còn thu hút cả những ngoại kiều như Hoa kiều, Pháp kiều tán thành mục tiêu này. Để tập hợp đồng đảo quần chúng, trong chính sách mặt trận, Đảng coi trọng liên minh các tầng lớp, giai cấp cơ bản, vừa thực hiện liên minh các tầng lớp, giai cấp cơ bản, vừa thực hiện liên minh với các tầng lớp trên, lấy liên minh công nông làm nền tảng.
Các nghị quyết của Đảng thời kỳ này vạch rõ tình hình mới đòi hỏi Đảng phải có đường lối chính trị mới và có phương pháp hoạt động mới. Phương pháp phải rất linh hoạt nhằm đoàn kết đồng đảo quần chúng trong một mặt trận thống nhất chống phản động thuộc địa, chống phátxít và chiến tranh, đòi tự do, dân chủ.
Đảng chủ trương chuyển hình thức hoạt động bí mật, không hợp pháp sang các hình thức công khai, hợp pháp và nửa công khai, hợp pháp, nhằm tập hợp và hướng dẫn đông đảo quần chúng đấu tranh từ thấp đến cao, qua đó giáo dục, phát triển lực lượng cách mạng.
Các cuộc đấu tranh công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp đã diễn ra sôi nổi ở cả ba nước Đông Dương nhất là ba xứ Nam, Trung, Bắc thuộc Việt Nam. Đó là phong trào Đông Dương đại hội, phong trào đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ, phong trào báo chí, truyền bá quốc ngữ, đấu tranh nghị trường, những cuộc mít tinh nhân ngày quốc tế lao động 1-5, những cuộc đón tiếp Gôđa và Brêviê, các "vị quan to của nhà nước bảo hộ Pháp". Nhứng cuộc đấu tranh đó đã thu hút được hàng nghìn, hàng vạn quần chúng. Đảng và quần chúng trưởng thành nhanh chóng qua thực tiễn đấu tranh, đồng thời càng thấy rõ sức mạnh to lớn của nhân dân cùng những kinh nghiệm giác ngộ, tổ chức quần chúng thành những lực lượng cách mạng tự giác.
Thực tiễn thời kỳ 1936-1939, Đảng nhận thức rõ hơn mối quan hệ giữa mục tiêu với các hình thức tổ chức đấu tranh.
2. Ý nghĩa và bài học kinh nghiệm của cao trào
a. Ý nghĩa
Uy tín của Đảng lan rộng, thấm sâu vào những tầng lớp quần chúng rộng rãi; đã động viên, giáo dục chính trị, xây dựng tổ chức, đoàn kết đấu tranh cho hàng triệu quần chúng thông qua những cuộc đấu tranh chính trị, tư tưởng rộng khắp từ thành thị đến nông thôn, từ nhà máy đến đồn điền, hầm mỏ đến các làng mạc, thôn xóm. Thắng lợi to lớn đó tạo nên những tiền đề để Đảng đưa quần chúng vào những trận chiến đấu kiên quyết sau này.
b. Bài học kinh nghiệm
Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa mục tiêu chiến lược và mục tiêu trước mắt, xác định đúng kẻ thù, nhiệm vụ cụ thể và khẩu hiệu sát hợp để động viên quần chúng lên trận tuyến cách mạng.
Kết hợp hoạt động bất hợp pháp và hoạt động công khai, hợp pháp, sử dụng mọi hình thức tổ chức và đấu tranh, chống khuynh hướng bảo thủ, rụt rè, đồng thời chống chủ nghĩa công khai, hợp pháp, không coi trọng xây dựng đảng bí mật và hoạt động bất hợp pháp của Đảng, sẵn sàng về tư tưởng và tổ chức để chuyển hướng hoạt động khi tình hình thay đổi đột ngột.
Phải giữ vững sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Đảng, giữ nghiêm kỷ luật trong Đảng, nâng cao tinh thần trách nhiệm, năng lực tự động công tác, phát huy sáng kiến của từng đảng viên, từng chi bộ đảng.
Phấn đấu xây dựng một mặt trận thống nhất dân chủ rộng rãi, vững mạnh do Đảng lãnh đạo. Có đường lối, sách lược liên minh đúng đắn với các bạn đồng minh, đập tan mọi âm mưu và thủ đoạn xuyên tạc, phá hoại của bọn phản động.
Câu 3:
Ý nghĩa và bài học kinh nghiệm của cách mạng tháng tám năm 1945
1. Ý nghĩa
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, Cách mạng Tháng Tám là một trong những trang sử vẻ vang nhất, chói lọi nhất, một trong những bước ngoặt vĩ đại nhất. Cách mạng tháng Tám đưa dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập tự do. Lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình.
Cách mạng Tháng Tám đã sáng tạo ra những kinh nghiệm quý báu về chỉ đạo chiến lược, sách lược và phương pháp cách mạng, đóng góp vào kho tàng lý luận cách mạng dân tộc, dân chủ, ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến, tạo ra thế và lực mới cho hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ sau này.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám chứng tỏ rằng trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở một nước thuộc địa, do toàn dân nổi dậy, dưới sự lãnh đạo của một Đảng được soi sáng bởi chủ nghĩa Mác-Lênin có thể giành thắng lợi.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là kết quả tổng hợp của những nhân tố bên trong (lực lượng toàn dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo) và nhân tố bên ngoài (thắng lợi của Liên Xô và đồng minh); là kết quả của ba cao trào cách mạng: 1930-1931; 1936-1939; 1939-1945
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hao, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công và nắm chính quyền toàn quốc”.
Thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa tháng tám năm 1945 với sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là kết quả của 15 năm trực tiếp lãnh đạo chính trị của Đảng, là thắng lợi của chủ nghĩa Mác- Lênin được vận dụng ngày càng sát đúng với hoàn cảnh Việt Nam, là thắng lợi của đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng, là thắng lợi của tư tưởng cách mạng độc lập tự do tiến lên CNXH của Hồ Chí Minh.
2. Bài học kinh nghiệm
Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 là đỉnh cao của 15 đấu tranh cách mạng của toàn dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, trải qua 3 cao trào cách mạng lớn- 3 cuộc tổng diễn tập cách mạng. Trải qua đấu tranh gian khổ, hi sinh to lớn, Đảng đã từng bước xây dựng được một lực lượng chính trị quần chúng hùng hậu. Đây là một cuộc vận động, giáo dục và tổ chức quần chúng rộng lớn của Đảng.
Bài học có ý nghĩa khoa học và thực tiễn chính trị sâu sắc của cách mạng tháng Tám là Đảng ta đã không ngừng phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo trong việc phát triển đường lối và tổ chức thực tiễn, mạnh dạn điều chỉnh chiến lược, thay đổi chủ trương cho hợp tình thế, kịp thời nắm bắt được sự biến đổi của thời cuộc để tổ chức lãnh đạo quần chúng tiến hành cuộc tổng khởi nghĩa.
Thắng lợi của cách mạng tháng Tám còn để lại cho Đảng và nhân dân ta nhiều bài học kinh nghiệm về chỉ đạo chiến lược, sách lược và phương pháp cách mạng, làm phong phú kho tàng lý luận cách mạng. Cụ thể:
Đảng đã xác định nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là chống đế quốc và chống phong kiến. Hai nhiệm vụ này kết hợp khăng khít với nhau, làm tiền đề cho nhau, song nhiệm vụ chống đế quốc là chủ yếu nhất, là nhiệm vụ hàng đầu còn nhiệm vụ chống phong kiến phải phục tùng nhiệm vụ chống đế quốc và được thực hiện rải ra từng bước. Nhờ vậy, Đảng ta đã tổ chức được lực lượng chính trị và rộng lớn mà nòng cốt là khối liên minh công nông để thực hiện yêu cầu cấp bách của cách mạng là giải phóng dân tộc, giành lấy độc lập, tự do cho Tổ quốc.
Đảng đã triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù. Xác định kẻ thù nguy hiểm nhất, phân hóa hàng ngũ kẻ thù, tranh thủ mọi lực lượng, tập trung chống kẻ thù nguy hiểm nhất.
Đảng ta đã khẳng định con đường duy nhất lật đổ ách thống trị của đế quốc và tay sai, giành chính quyền là con đường cách mạng bạo lực; đã xây dựng lực lượng chính trị của quần chúng, trên cơ sở đó từng bước xây dựng lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang, đã khéo léo kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, trong đó, đấu tranh chính trị của quần chúng có vai trò quyết định đã tạo ra ưu thế áp đảo quân thù, giành thắng lợi nhanh gọn.
Câu 4:
Tìm hiểu về đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Đảng
Đầu năm 1935, sau khi hệ thống tổ chức của Đảng được xây dựng và chắp nối lại từ cơ sở đến trung ương, ban chỉ huy ở ngoài của Đảng quyết định triệu tập đại hội Đảng tháng 3 năm 1935. Đại hội đại biểu lần thứ nhất họp tại Ma Cao- Trung Quốc với sự tham gia của 13 đại biểu đại diện cho các tổ chức Đảng trong và ngoài nước. Đại hội nhận định tình hình trong nước và quốc tế, khắng định thắng lợi của cuộc đấu tranh để khôi phục phong trào cách mạng và hệ thống tổ chức Đảng, đề ra 3 nhiệm vụ trước mắt: Củng cố và phát triển Đảng, tăng cường phát triển lực lượng Đảng đồng thời chăm lo tăng cường các Đảng viên ưu tú xuất sắc từ công nhân vào các cơ quan lãnh đạo Đảng, đẩy mạnh cuộc vận động thu phục quần chúng, chú ý các dân tộc thiểu số, phụ nữ, binh lính…, củng cố và phát triển các tổ chức quần chúng như Đoàn Thanh niên Cộng sản, Công hội đỏ, lập mặt trận thống nhất phản đế, mở rộng tuyên truyền chống đế quốc, chống chiến tranh, ủng hộ Liên Xô và cách mạng Trung Quốc. Đại hội thông qua nghị quyết chính trị, điều lệ Đảng, các nghị quyết về vận động công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, binh lính, các dân tộc ít người, về công tác mặt trận phản đế, đội tự vệ, cứu tế đỏ. Đại hội bầu ban chấp hành trung ương mới gồm 9 ủy viên chính thức và 4 ủy viên dự khuyết. Đồng chí Lê Hồng Phong làm tổng bí thư.
Đại hội đại biểu lần 1 của Đảng đánh dấu sự phục hồi hệ thống tổ chức của Đảng và phong trào cách mạng quần chúng dưới sự chỉ đạo thống nhất của ban chấp hành trung ương, chuẩn bị dự kiến để Đảng bước vào thời kỳ đấu tranh mới giành độc lập cho dân tộc.
Có thể thấy rõ 3 nhiệm vụ của Đảng trong thông tin dưới đây:
A. Phát triển và củng cố Đảng
1. Khuếch trương tổ chức của Đảng
Cần củng cố lực lượng cộng sản hiện tại của các đảng bộ, thiết pháp tìm những bộ phận cộng sản và những phần tử cộng sản lẻ tẻ (nhất là ở các miền trung châu Bắc Kỳ, các tỉnh miền Trung Trung Kỳ, các mỏ ở Bắc Kỳ, các đồn điền ở Nam Kỳ) mà Đảng hãy còn chưa khôi phục được mối liên lạc, cần phải phân phối lực lượng của Đảng tới những chỗ chưa phát triển, trước hết là tập trung đại lực của Đảng vào các miền kỹ nghệ, các nhà máy lớn, mỏ quan trọng, đồn điền rộng, các đường giao thông và các xí nghiệp thuộc về quân sự; cần phải biến mỗi sản nghiệp thành một thành luỹ của Đảng. Cần kế tiếp tổ chức những phần tử nông dân và trí thức chân thật cách mạng vào Đảng, nhưng cần phải thiết pháp đem thợ vào Đảng cho đông, nhưng đừng lấy cớ mở rộng cửa Đảng cho vô sản mà đem vào Đảng những phần tử lạc hậu, sụt sè, lười biếng, tổ chức phức tạp, nguy hiểm cho đường chính trị, cho công tác đảng, phải tuyển lựa đồng chí làm cho Đảng vừa có tính chất quần chúng, vừa gồm những phần tử tranh đấu, hoạt động cương quyết, trung thành với cộng sản chủ nghĩa. Trong các cơ quan chỉ đạo của Đảng bắt buộc phải để cho các phần tử vô sản choán đa số để bảo đảm cho Đảng đi đúng đường chính trị vô sản. Trong những địa hạt có những đảng viên người dân tộc thiểu số, người ngoại quốc, đàn bà, phải chọn những người hăng hái đem họ vào các cơ quan chỉ đạo. Đại hội uỷ quyền cho Ban Trung ương định kế hoạch cho các đảng bộ phát triển đảng viên mới. Cần phải căn cứ theo Điều