Bắt đầu ý tưởng được cho là “không tưởng“ về một châu Âu thống nhất, trải qua mấy thế hệ gian khổ nỗ lực, những người dân trên“lục địa già“ cảm thấy hoan hỉ vì những thành tựu đạt được khiến thế giới kính nể trong việc nhất thể hoá kinh tế và chính trị. Những gì mà châu Âu gặt hái trên con đường đi tới “Liên bang châu Âu“ tới nay được phản ánh rõ nét nhất ở sự ra đời đồng tiền chung euro. Nhưng không ai ngờ 50 năm sau khi Tuyên ngôn Schumann (đánh dấu ý tưởng hợp nhất các nước châu Âu) đồng tiền chung của “lục địa già“ phải đối mặt với mối đe doạ nghiêm trọng từ cuộc khủng hoảng nợ công Hy Lạp.
Sự hiện hữu của "bóng ma" khủng hoảng nợ đã và đang làm đau đầu các nhà lãnh đạo Liên minh châu Âu (EU). Gói cứu trợ dài hạn EU/IMF 110 tỷ euro dành cho Hy Lạp, đạt được sau nhiều tuần tranh cãi, đã chứng tỏ mức độ nghiêm trọng của "cơn sóng ngầm" nợ công. Khủng hoảng nợ của Hy Lạp là bài kiểm tra lớn nhất về mức độ tín nhiệm mà khu vực Eurozone phải đối mặt kể từ khi chính sách sử dụng một đồng tiền duy nhất được đi vào đời sống.
58 trang |
Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 2272 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu về khủng hoảng nợ Hy Lạp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Bắt đầu ý tưởng được cho là “không tưởng“ về một châu Âu thống nhất, trải qua mấy thế hệ gian khổ nỗ lực, những người dân trên“lục địa già“ cảm thấy hoan hỉ vì những thành tựu đạt được khiến thế giới kính nể trong việc nhất thể hoá kinh tế và chính trị. Những gì mà châu Âu gặt hái trên con đường đi tới “Liên bang châu Âu“ tới nay được phản ánh rõ nét nhất ở sự ra đời đồng tiền chung euro. Nhưng không ai ngờ 50 năm sau khi Tuyên ngôn Schumann (đánh dấu ý tưởng hợp nhất các nước châu Âu) đồng tiền chung của “lục địa già“ phải đối mặt với mối đe doạ nghiêm trọng từ cuộc khủng hoảng nợ công Hy Lạp.
Sự hiện hữu của "bóng ma" khủng hoảng nợ đã và đang làm đau đầu các nhà lãnh đạo Liên minh châu Âu (EU). Gói cứu trợ dài hạn EU/IMF 110 tỷ euro dành cho Hy Lạp, đạt được sau nhiều tuần tranh cãi, đã chứng tỏ mức độ nghiêm trọng của "cơn sóng ngầm" nợ công. Khủng hoảng nợ của Hy Lạp là bài kiểm tra lớn nhất về mức độ tín nhiệm mà khu vực Eurozone phải đối mặt kể từ khi chính sách sử dụng một đồng tiền duy nhất được đi vào đời sống.
Thực trạng Hy Lạp và khu vực eurozone trước khi khủng hoảng nợ công xảy ra:
Thực trạng khu vực đồng tiền chung eurozone:
Ngày 1/1/2009, eurozone chính thức kết nạp thêm Slovakia nâng tổng số nước sử dụng chung đồng tiền euro lên con số 16, với dân số hơn 300 triệu người, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trên 12.000 tỉ Euro. Đến nay, sau 11 năm phát triển, khu vực đồng tiền chung châu Âu đã phát triển, trải qua những thăng trầm. Đồng Euro đã trở thành một công cụ thanh toán toàn cầu và trở thành một đối trọng với đồng USD của Mỹ .
Trước giai đoạn khủng hoảng tài chính 2008, nền kinh tế của khu vực eurozone đã có những thành tựu nhất định:
Tỉ lệ tăng trưởng GDP hàng năm của khu vực đồng Euro từ năm 1999 - 2007 ở mức trung bình 2.59% /năm, và có lúc lên cao nhất vào năm 2006: 3.5%; giá trị GDP trung bình trong khoảng thời gian từ năm 1999 – 2007 là khoảng 8200 tỷ USD/năm. Trong giai đoạn trên, Euro đã góp phần tạo thêm 15 triệu việc làm mới khiến thương mại và du lịch trở nên dễ dàng hơn.
Có được điều đó là do việc gia nhập vào khu vực đồng tiền chung châu Âu, sử dụng chung 1 đơn vị tiền tệ đã hình thành nên 1 thị trường thống nhất về vốn, sức lao động, hàng hóa và giúp cho các giao dịch trong khối diễn ra thuận tiện và dễ dàng, giúp các nước trong khu vực tận dụng được các nguồn lực sẵn có cũng như các nguồn lực từ bên ngoài để phát triển.
Biểu đồ về tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm của khu vực Euro ( 1999-2007 )
Đơn vị : %
Nguồn : TradingEconomics.com; European Commission
Ngoài ra, do có một Ngân hàng trung ương cho cả khu vực cùng với chính sách tiền tệ độc lập và không hề chịu sự tác động hay can thiệp của bất kỳ một quốc gia nào trong nội bộ khối nên kể từ khi thành lập, ECB đã giữ được tỷ lệ lạm phát ở mức hợp lý, góp phần giữ ổn định giá cả, kiềm chế lạm phát cho các hoạt động của nền kinh tế.
Cụ thể, trong giai đoạn 1999-2007, giá cả ở Châu Âu tăng với tốc độ bình quân vào khoảng 2.2% mỗi năm bất chấp giá lương thực và nhiên liệu có xu hướng leo thang liên tục trong những năm gần đây.
Biểu đồ về tỷ lệ lạm phát của khu vực đồng Euro( 1999 – 2007 )
Đơn vị : %
Nguồn : TradingEconomics.com; European Commission
Bên cạnh đó, ECB đã duy trì một mức lãi suất ổn định, điều này đã giúp hạn chế những biến động lớn có thể gây ra rủi ro cho các nhà đầu tư và các doanh nghiệp. Lãi suất bình quân ở mức 2,89% năm trước giai đoạn khủng hoảng tài chính kinh tế thế giới 2008.
Nhờ sự ổn định và tăng trưởng kinh tế mà mức sống của người dân trong khu vực Eurozone tăng lên, thể hiện qua sự gia tăng thu nhập bình quân đầu người. Tính đến cuối năm 2007, thu nhập bình quân của cả khu vực là khoảng 22000 USD/người; còn nếu tính theo giá sức mua tương đương thì thu nhập bình quân là khoảng 33500 USD.
Biểu đồ thu nhập bình quân ( 1980 – 2009 )
Đơn vị : USD
Nguồn : TradingEconomics.com; The World Bank Group
Không chỉ là biểu tượng của cho sự hội nhập của Châu Âu, việc ra đời đồng Euro đã tạo ra sự thay đổi lớn trong hệ thống tiền tệ thế giới. Đó là những thay đổi trong việc thanh toán các loại dịch vụ và buôn bán quốc tế, kể cả các giao dịch trên thị trường chứng khoán khi đồng Euro trở thành một phương tiện thanh toán tương đối ổn định và có sức chuyển đổi cao, khiến Euro dần trở thành 1 trong những kênh đầu tư an toàn. Bên cạnh đồng USD dự trữ như trước đây thì NHTW các nước có thêm 1 sự lựa chọn nữa là đồng Euro. Trên thực tế, dự trữ ngoại hối của các quốc gia trên thế giới bằng đồng Euro có xu hướng tăng lên chứng tỏ Euro đã được các công ty và chính phủ các nước chấp nhận như là 1 ngoại tệ mạnh. Khi mới đưa vào lưu hành, giá trị 1 Euro chưa bằng 1 USD. Tuy nhiên, đồng tiền này đã từng đạt mức kỷ lục 1 Euro đổi được 1,6 USD trong năm 2008.
Khu vực Eurozone chỉ chiếm 16,5% sản lượng kinh tế toàn cầu, nhưng đồng Euro lại chiếm tới 27% dự trữ ngoại hối của thế giới. Sau hơn 3 năm đi vào hoạt động, tỷ trọng của Euro trong quỹ dự trữ của các NHTW trên thế giới vào năm 2005 đạt 24,3% (của USD là 66,4%) và cho tới cuối năm 2007, đã là khoảng 27,8% .
Khủng hoảng kinh tế tài chính 2008 thực sự là một thách thức với khu vực đồng tiền chung eurozone.
Trong bối cảnh cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nổ ra vào năm 2008, kinh tế EU liên tục phải đối mặt với nhiều khó khăn như tốc độ lạm phát, tỷ lệ lạm phát cao khiến cho việc lựa chọn đối sách của khu vực EU trở nên phức tạp. Như nhận định của Ủy ban Châu Âu, khủng hoảng tài chính đã gây ra những tác động nặng nề, đã quét sạch những thành tựu mà EU đạt được trong thập kỷ qua. Sản lượng công nghiệp của EU trở lại mức của những năm 1930, 23 triệu người hay 10% dân số độ tuổi lao động bị thất nghiệp.
Kinh tế các nước Eurozone lần đầu tiên kể từ ngày được thành lập năm 1999, đã rơi vào giai đoạn suy thoái, do tăng trưởng âm (GDP đều giảm 0,2%) trong hai quý liên tiếp. Sang đến đầu năm 2009, kinh tế các nước Eurozone tiếp tục sụt giảm 0.5% sau khi chỉ tăng 1.1% năm 2008. Cụ thể, mảng dịch vụ và chế tạo tại 16 nước Eurozone đều sụt giảm kỷ lục so với tháng 1/09. Ngoài ra, kinh tế khu vực Eurozone cũng đã có 4 quý liên tiếp xuất hiện tăng trưởng kinh tế âm.
Lạm phát ở khu vực Eurozone tăng lên mức kỷ lục vào tháng 6/2008 với 4%, vượt cả mức dự đoán xấu nhất là 3,9% và gấp đôi so với mục tiêu 2% mà ECB đặt ra.
Tỷ lệ thất nghiệp ở EU lên cao nhất trong 10 năm qua ở châu lục này. Trong đó, hơn 15 triệu người đã thất nghiệp ở khu vực đồng Euro, tương đương với mức tăng 9,5% vào tháng 5/2009 so với mức 9,3% hồi tháng 4/2009. Nếu nhìn con số theo một năm, thì tỷ lệ thất nghiệp tại khu vực 16 quốc gia sử dụng đồng tiền chung này là 7,5% hồi tháng 4/2008, một con số đã được cho là khá cao. Bước sang năm 2010, mặc dù đã qua đáy của khủng hoảng, bắt đầu bước sang giai đoạn phục hồi, đến tháng 5/2010, tỷ lệ thất nghiệp tại 27 nước Liên minh Châu Âu vẫn ở mức cao nhất trong thập kỷ là 9.6% còn trong khu vực eurozone là 10%, trong đó, Áo có tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất là 4%, Hà Lan 4,3 %, cao nhất là tại Latvia 20% và Tây Ban Nha là 19,9%.
Biều đồ: Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực đồng euro từ 2008- 2010
Đơn vị : %
Nguồn : TradingEconomics.com; European Commission
Xuất khẩu, đầu tư và tiêu dùng là những động lực chính thúc đẩy kinh tế EU tăng trưởng. Khủng hoảng tài chính làm thương mại toàn cầu suy giảm, ảnh hưởng nghiêm trọng tới kim ngạch xuất khẩu của EU nói chung và eurozone nói riêng.
Theo “Báo cáo ổn định tài chính” của ECB tháng 12/2009 đã nâng dự tính về khoản lỗ và sự giảm giá của chứng khoán các ngân hàng thuộc 16 nước trong khu vực đồng tiềng chung eurozone phải chịu do khủng hoảng từ 65 tỷ EUR lên 286 tỷ EUR.
Cùng với suy giảm kinh tế, thất nghiệp gia tăng, việc áp dụng các gói giải cứu như hạ lãi suất, cắt giảm thuế, bơm tiền ồ ạt cho hệ thống ngân hàng tài chính đã làm nảy sinh vấn đề thâm hụt ngân sách và nợ công gia tăng ở một loạt quốc gia, vượt xa giới hạn cho phép của Liên minh là thâm hụt không quá 3% GDP, nợ công không quá 60% GDP.
Thực trạng Hy Lạp
Hy Lạp là một quốc gia nhỏ ở Nam Âu, là thành viên của khu vực đồng tiền chung Châu Âu. Dân số Hy Lạp khoảng 11 triệu người chiếm 2,2% EU, đóng góp 2.8% GDP của EU. Hy Lạp có thu nhập bình quân đầu người khoảng 15360USD, bằng khoảng 2/3 các nước phát triển trong Eurozone. Tỷ lệ thất nghiệp trung bình là 10.2% (trong khi tỷ lệ này ở EU là 10%) nhưng lại duy trì được tốc độ tăng trưởng cao so với các nước trong EU-16.
Hy Lạp có nền kinh tế phát triển với khu vực kinh tế quốc doanh chiếm khoảng 40%GDP. Cơ cấu kinh tế của Hy Lạp năm 2009 như sau: dịch vụ chiếm 76%, công nghiệp 20,6% và nông nghiệp 3.4%. Trong đó du lịch là ngành thế mạnh của Hy Lạp, là nguồn thu ngoại tệ chủ yếu, đóng góp 15% GDP. Bên cạnh đó, các ngành kinh tế khác như ngân hàng, tài chính, viễn thông, sản xuất các thiết bị công nghệ cao cũng phát triển mạnh.
Những chính sách cải cách kinh tế hợp lý cùng với việc gia nhập Liên minh Châu Âu đã thúc đẩy nền kinh tế Hy Lạp phát triển mạnh mẽ, đồng thời nâng cao mức sống cho người dân Hy Lạp. Chỉ số phát triển con người xếp thứ 22 trên thế giới. Tốc độ tăng trưởng thường xuyên nằm ở mức cao nhất so với các nước trong Eurozone. Bình quân giai đoạn 2000 – 2009, GDP của Hy Lạp tăng trưởng khoảng 3.1%, GDP năm 2009 là 333 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 15360 USD/năm (khoảng 29000USD/năm theo PPP).
2006
2007
2008
2009
GDP
4.5%
4.5%
2%
- 1.9%
Inflation: Annual Average
3.2%
2.9%
4.2%
1.2%
Inflation: Percentage Change December to December
2.9%
3.9%
2.0%
2.6%
Labour Productivity (EU-27=100)**
99.7
99.8
102.2
103.8
Unemployment Rate
8.9%
8.3%
7.6%
9.4%
Public Investments (%GDP)
3%
2.9%
2.8%
2.9%
Exports (Goods – Current Prices)
20.5*
21.4*
22.8*
19.2*
Imports (Goods – Current Prices)
56.4*
61.4*
62.5*
52.5*
Biểu đồ về tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm của Hy Lạp ( 1999-2009)
Đơn vị: %
Nguồn: TradingEconomics.com; NSS
Kinh tế Hy Lạp tăng trưởng hàng năm từ 2004-2007 khoảng 4% do một phần là chi tiêu cho thế vận hội Athens 2004 và phần còn lại là sự gia tăng của tín dụng mà đóng góp đáng kể là sự gia tăng của tín dụng tiêu dùng. Năm 2008, tốc độ tăng trưởng của quốc gia này chỉ còn là 0.7%. Năm 2009, GDP tăng trưởng âm, đạt mức -2.5% là kết quả tác động của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, các biện pháp thắt chặt điều kiện tín dụng, và thất bại của Athens để giải quyết thâm hụt ngân sách ngày càng tăng, gây ra do các nguồn thu của nhà nước không tăng kịp với nhu cầu chi tiêu chính phủ, thậm chí, một số loại thuế còn phải chịu áp lực cắt giảm do nhiều nguyên nhân khác nhau.
Nợ công, lạm phát, thất nghiệp của Hy Lạp luôn ở mức cao so với trung bình chung của khu vực eurozone. Năm 2009, tình trạng thất nghiệp tăng cao lên đến 9.4% là do những tác động của khủng hoảng tài chính.
Biểu đồ tỷ lệ lạm phát ở Hy Lạp từ 1/2002-1/2010
Đơn vị: %
Nguồn: TradingEconomics.com; NSS
Biểu đồ tình trạng thất nghiệp của Hy lạp giai đoạn 2002-2010
Đơn vị: %
Nguồn: TradingEconomics.com; European Commission
Diễn biến khủng hoảng nợ công Hy Lạp.
Cuộc khủng hoảng nợ bắt đầu vào tháng 12/2009 khi thủ tướng mới của đảng xã hội Hi Lạp, ông George A. Papandreou, thông báo rằng người tiền nhiệm của ông đã che dấu tình trạng thâm hụt ngân sách khổng lồ mà nước này đang mắc phải. Thâm hụt ngân sách chính phủ của nước này là 12,7% GDP, chứ không phải 3,7% như chính phủ tiền nhiệm dự báo trước đó. Nợ công của nhà nước đã tới ngưỡng gần 300 tỷ euro, tương đương 125% GDP, chiếm khoảng 4% tổng nợ của khu vực đồng tiền chung. Theo dự tính trong năm 2010, con số này sẽ lên tới 326 tỷ euro, tương đương 133% GDP. Theo quy định của Hiệp ước về ổn định tài chính của Khu vực đồng tiền chung Châu Âu, thâm hụt ngân sách của các nước thành viên không được phép vượt quá 3% GDP. Như vậy, mức thâm hụt ngân sách của Hy Lạp đã vượt quá khoảng 4 lần.
Với mức vay nợ như trên, Hy Lạp phải đối mặt với khoản nợ đến hạn thanh toán 8,5 tỷ euro (tương đương với 11,3 tỷ USD) trái phiếu chính phủ vào ngày 19/5/2010. Hầu hết các khoản nợ của Hy Lạp là ngắn hạn, trong đó, số nợ phải trả trong năm 2010 là 16% tổng nợ.
Định mức tín nhiệm của nước này tiếp tục đi xuống trong mắt các tổ chức quốc tế. S&P tiếp tục hạ điểm của Hy Lạp xuống còn BBB- vào ngày 16/12.
Các nhà đầu tư bị sốc mạnh. Vào đầu năm 2010, nỗi lo sợ về khả năng mất thanh toán của Hi Lạp đã chuyển thành sự hoảng loạn tài chính khi các nhà đầu tư nghi ngờ khả năng của chính phủ Hi Lạp trong việc thực hiện các biện pháp cứng rắn như cam kết nhằm cắt giảm thâm hụt ngân sách.
Tuần cuối cùng của tháng 1/2010, lãi suất trái phiếu chính phủ Hy Lạp kì hạn 10 năm đã lập mốc cao kỷ lục kể từ khi gia nhập Eurozone. Chủ tịch nhóm đồng tiền chung Châu Âu, Jean Claude Junker tuyên bố không loại trừ nguy cơ Nhà nước Hy Lạp bị phá sản. Theo nhận định của cơ quan thẩm định mức độ rủi ro FITCH, khả năng thanh toán nợ của Athena đã xuống đến mức thấp nhất trong vòng 10 năm.
Trái phiếu Chính phủ Hy Lạp liên tục phải nâng lãi suất trên thị trường tài chính quốc tế.
Lãi suất trái phiếu Chính phủ Hy Lạp từ tháng 9/2009 đến nay (đơn vị: %). Nguồn: Thomson Reuters
Khi sự sợ hãi này lan sang cả với Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, các nhà lãnh đạo của các nước có ảnh hưởng lớn ở châu Âu như Đức và Pháp bắt đầu lo ngại về sự nguy hại kéo dài của nó đối với đồng euro. Họ cam kết bảo vệ đồng tiền của khu vực nhưng từ chối một gói cứu trợ ngay đối với Hi Lạp.
Sau nhiều tháng tranh cãi, vào cuối tháng 3/2010, các nước sử dụng chung đồng euro đã đồng ý về một giải pháp an toàn cho Hi Lạp. Theo đó Hi Lạp sẽ nhận được các khoản vay từ các quốc gia châu Âu và IMF. Tuy nhiên những cam kết thiếu cụ thể này chưa đủ sức thuyết phục để làm giảm sức ép lãi suất trên thị trường trái phiếu đối với chính phủ Hi Lạp. Lãi suất trái phiếu chính phủ Hi Lạp tiếp tục tăng mạnh do lo ngại của giới đầu tư về khả năng mất khả năng thanh toán của chính phủ nước này. Vào ngày 11/4 các nhà lãnh đạo châu Âu thông báo hứa sẽ cho chính phủ Hi Lạp vay 30 tỉ $, cùng với khoản vay 15 tỉ $ từ IMF, với mức lãi suất 5% - thấp hơn so với mức lãi suất 7,5% mà Hi Lạp đang phải trả.
Cũng trong tháng 4/2010, ông Papandreou đã chính thức thỉnh cầu gói cứu trợ trị giá 60 tỉ $ nhằm cứu con tàu kinh tế đang chìm dần. Giới đầu tư quốc tế tiếp tục hạ thấp mức tín nhiệm của trái phiếu chính phủ Hi Lạp, điều này khiến Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và các đối tác của Hi Lạp ở châu Âu buộc phải đứng ra cam kết một gói cứu trợ lớn hơn. Theo kế hoạch này, công bố ngày 2/5 và được thông qua bởi quốc hội Hi Lạp ngày 6/5, Hi Lạp sẽ nhận được khoản vay trị giá 110 tỉ euro hay tương đương 140 tỉ $ trong vòng 3 năm tới nhằm tránh mất khả năng thanh toán. Đổi lại, chính phủ Hi Lạp phải đáp ứng những cam kết cắt giảm nợ trong vòng 3 năm tới và thực hiện các biện pháp thắt lưng buộc bụng.
Tuy nhiên, thị trường tiếp tục hoài nghi với các khoản vay được cam kết này, các nhà đầu từ tiếp tục đẩy lãi suất đối với trái phiếu chỉnh phủ Hi Lạp lên cao hơn cả trái phiếu chính phủ của các nước đang phát triển như Ấn Độ và Philippines, khiến Hi Lạp lâm vào tình thế khó khăn hơn trên thị trường tài chính.
Ngày 18/5 Hi Lạp đã nhận được khoản vay đầu tiên trong gói cứu trợ kéo dài 3 năm của 10 nước châu Âu, trong đó có Đức, và IFM nhằm tránh khả năng phá sản. Gói cứu trợ kéo dài 3 năm này được đưa ra nhằm giúp Hi Lạp không cần dựa vào thị trường tài chính cho tới cuối năm 2011 và quý đầu của năm 2012. Khoản giải ngân này đã giúp Hi Lạp trả món nợ trị giá 8,5 tỉ euro đáo hạn vào ngày hôm sau. Khoản nợ tiếp theo mà chính phủ Hi Lạp cần phải chi trả trị giá 8,6 tỉ euro sẽ đáo hạn vào tháng 3/2011.
Nằm trong kế hoặc thắt lưng buộc bụng nhằm nhận được gói cứu trợ, vào đầu tháng 3/2010 chính phủ Hi Lạp đã phê chuẩn một kế hoạch cắt giảm chi tiêu bao gồm: cắt giảm ngân sách dành cho y tế, quốc phòng, tăng thuế, lãnh đạo Hy Lạp tuyên bố một chính sách lương thưởng hà khắc đối với khối dịch vụ công: cắt giảm lương của khu vực công và cắt giảm lương hưu, với mục tiêu cắt giảm quỹ lương khoảng 4%. Những biện pháp thắt lưng buộc bụng khó khăn này đã gặp phải sự phản ứng giận dữ từ công chúng khi mà có tới 1/3 lực lượng lao động thuộc khu vực nhà nước. Các nhà phân tích cho rằng, các cuộc biểu tình có thể là tín hiệu khởi đầu của một xã hội bất ổn. Nó có thể làm tê liệt và đẩy nền kinh tế lún sâu vào suy thoái.
Hy Lạp đã tăng thuế VAT từ 21% lên 23%, giữ nguyên tiền lương và bỏ tiền thưởng của khu vực công. Đồng thời, các thành viên quốc hội sẽ không nhận tiền thưởng, những quy định đặc biệt cho phép về hưu sớm sẽ được thắt chặt và chính phủ dự định tăng thuế đối với nhiên liệu, thuốc lá, và rượu khoảng 10%. Hi Lạp hi vọng những cải cách kinh tế sẽ giúp thâm hụt ngân sách của Hi Lạp giảm xuống còn 8,1% GDP trong năm nay, so với mức 13,6% của năm 2009. Theo quy định của EU, các nước nên giới hạn thâm hụt ngân sách không quá 3% GDP nếu không muốn bị trừng phạt. Hi Lạp dự kiến sẽ cắt giảm thâm hụt ngân sách xuống còn 4,9% vào năm 2013 và xuống dưới mức giới hạn của EU vào năm 2014.
Khác với ở Đức, sự gia tăng tiền lương ở Hi Lạp trong thời gian qua không tương ứng với sự gia tăng năng suất. Khả năng cạnh tranh kém đã làm giảm cầu về hàng hóa Hi Lạp và dẫn đến thâm hụt cán cân thương mại cao (khoảng 14% GDP). Hơn nữa, do sử dụng đồng tiền chung châu Âu nên Hi Lạp không có khả năng phá giá tiền tệ nhằm khôi phục khả năng cạnh tranh. Tăng trưởng kinh tế năm 2009 của Hi Lạp giảm 1,2% và các cuộc biểu tình bãi công khiến cho khả năng hồi phục càng chậm lại. Các giải pháp thắt lưng buộc bụng hiện tại có thể chỉ làm trầm trọng thêm vấn đề. Các nước đang kêu gọi Hi Lạp cần phải cắt giảm chi tiêu chính phủ. Tuy nhiên, khi nền kinh tế đang lâm vào suy thoái và thất nghiệp cao, việc thắt chắt chặt tài khóa trong khi không có khả năng nới lỏng tiền tệ, chỉ làm cho mọi thứ xấu thêm. Do vậy, có lẽ còn phải rất lâu nữa kinh tế Hi Lạp mới thoát khỏi cái mớ bòng bong hiện tại.
Hai quý đầu năm 2010, tăng trưởng kinh tế đều ở mức âm. Quý I/2010 là âm 0,8% còn quý II, tăng trưởng ở mức âm 1,8%. Số liệu thống kê quốc gia Hy Lạp nói mức tiêu thụ quý II giảm 4,2% thường niên so với mức tiêu thụ gia tăng của 1,5% quý trước. Tổng vốn đầu tư giảm 18,6%, trong khi xuất khẩu giảm 5%. Tuy nhiên mức thâm hụt ngân sách đã giảm 46% trong nửa năm đầu, cao hơn mức dự kiến là 40%.
Tỷ lệ thất nghiệp tháng 5 tăng lên 12% từ mức 11,9% trong tháng 4, đây là tỷ lệ cao nhất từ tháng 2/2010 với con số 12,1%. Đặc biệt, tỷ lệ giới trẻ độ tuổi từ 15 – 24 thất nghiệp trong tháng 5 đã lên tới mức kỷ lục với 32,5%, cao hơn nhiều so với mức 25% của đầu năm ngoái.
Theo Liên minh châu Âu và Quỹ Tiền tệ Quốc tế, tổng mức giảm GDP của Hy Lạp trong năm 2010 dự đoán sẽ vào khoảng 4%.
Nguyên nhân khủng hoảng nợ công Hy Lạp
Tác nhân bên ngoài và rõ nét nhất thường được các nhà lãnh đạo EU đề cập là tác động của cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Để cứu vãn nền kinh tế khỏi cơn suy thoái, chính phủ Hy Lạp đã tung ra những gói hỗ trợ khổng lồ nhằm kích thích kinh tế phát triển. Gói hỗ trợ này làm gia tăng chi ngân sách và nợ công một cách đáng kể. Tuy nhiên, thực trạng này diễn ra ở hầu hết các nước trên thế giới, không chỉ có ở Hy Lạp và EU. Do vậy, ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu chỉ là tác nhân thêm vào những vấn đề sẵn có trong nội tại nền kinh tế Hy Lạp.
Chính sách "vung tay quá trán" và "căn bệnh thành tích" đã khiến Hy Lạp trượt sâu trong vũng lầy nợ công. Thực chất, nợ không phải là điều gì xấu, nhưng vấn đề đặt ra đối với mỗi quốc gia là mức nợ ấy phải rõ ràng và trong tầm kiểm soát.
So sánh với Nhật Bản với khoản nợ công lên tới 10.710 tỷ USD, tương đương với số nợ bình quân đầu người là 84.435 USD, lên tới 200% GDP so với mức 60% của 20 năm trước,